Tóm tắt Luận án Phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Cùng với việc tuyên truyền, giáo dục các quy định của pháp luật hình sự về

tham ô tài sản như các yếu tố cấu thành, các dạng hành vi khách quan, phương thức,

thủ đoạn phạm tội, các loại và mức hình phạt, thì tùy theo từng nhóm đối tượng mà

lựa chọn nội dung của các văn bản luật chuyên ngành để tuyên truyền, giáo dục cho

phù hợp, như quy định của pháp luật về ngân sách, đầu tư, xây dựng, đấu thầu, đất

đai, tài chính, ngân hàng.

Liên hệ những tình huống thực tế đã xảy ra trong cuộc sống, lồng ghép với

kiến thức thực tiễn làm cho các đối tượng được tuyên truyền, giáo dục dễ dàng nhận

thức được những chuẩn mực trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ

đó có thể nhận diện được các biểu hiện tham ô tài sản một cách chính xác, góp phần

loại trừ việc thực hiện hành vi tham ô, hoặc góp phần phát hiện tội phạm được kịp

thời

pdf27 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, sau đó tăng vọt về số vụ vào những năm cuối của giai đoạn nghiên cứu; khi tăng, khi giảm và tăng vọt vào những năm nửa sau của giai đoạn nghiên cứu về số người phạm tội. 1.3.2. Diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019 Khi nghiên cứu diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019, tác giả phải dựa vào các thông số được thống kê từ 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản. Trên cơ sở những số liệu phản ánh rõ thực trạng của tội tham ô tài sản xét về tính chất, tác giả đã phân tích làm rõ diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019, cụ thể như sau: 1.3.2.1. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo loại tội phạm Tội nghiêm trọng có xu hướng giảm ở các năm, sau đó tăng vọt vào những năm 2017, 2018 với tỷ lệ từ hơn 30 đến gần 60% so với năm gốc là năm 2010; tội rất nghiêm trọng tăng đều ở các năm kế tiếp năm gốc là năm 2010 với tỷ lệ tăng giao động từ 4% - 16,6%, sau đó lại giảm đều ở 3 năm tiếp theo với tỷ lệ giảm nhiều nhất là 27,4% và tăng vọt vào các năm 2018, 2019 với tỷ lệ tăng cao nhất là 46,6%; so với năm gốc là năm 2010, tội đặc biệt nghiêm trọng tăng ở tất cả các năm, trong đó tỷ lệ tăng thấp nhất là 5,9% và tỷ lệ tăng cao nhất là 94,1%. 1.3.2.2. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo hình thức thực hiện tội phạm Tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019 chủ yếu được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, chiếm 64,6% số vụ án được thống kê trong giai đoạn nghiên cứu; số vụ án được thực hiện với hình thức phạm tội riêng lẻ chỉ chiếm tỷ lệ nhất định là 35,4 %. Trong đó, số vụ án được thực hiện với hình thức phạm tội riêng lẻ có xu hướng ngày càng giảm so với số liệu của năm gốc là 11 năm 2010; còn số vụ được thực hiện với hình thức đồng phạm thì lại có xu hướng tăng thường xuyên và tăng mạnh ở những năm nửa sau của giai đoạn nghiên cứu. 1.3.2.3. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo hình thức sở hữu của tài sản bị chiếm đoạt Số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có xu hướng ngày càng giảm so với năm gốc 2010, trong khi đó tỷ lệ vụ án tham ô tài sản xảy ra trong các doanh nghiệp có một phần vốn của nhà nước lại có xu hướng ngày càng tăng so với năm gốc là năm 2010. 1.3.2.4. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo loại và giá trị tài sản bị chiếm đoạt so với năm gốc là năm 2010 thì loại tài sản bị chiếm đoạt là tiền có xu hướng tăng với tỷ lệ rất cao ở những năm sau, trong đó tỷ lệ tăng cao nhất là 407,6% so với năm gốc; đối với loại tài sản bị chiếm đoạt là các tài sản khác như vật liệu xây dựng, than, thócthì lại có xu hướng giảm ở những năm sau so với năm gốc, trong đó tỷ lệ giảm sâu nhất là 66,7%. Từ đó ta có thể nhận thấy tiền là loại tài sản bị chiếm đoạt ngày càng có tính phổ biến cao trong các vụ án tham ô tài sản ở Việt Nam. Đây cũng là một trong những đặc điểm cần được các chủ thể có chức năng phòng ngừa quan tâm để đưa ra biện pháp phù hợp trong việc quản lý loại tài sản này, nhằm loại trừ hoặc hạn chế nguy cơ bị chiếm đoạt bởi một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn. 1.3.2.5. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo cấp quản lý của người có chức vụ, quyền hạn Số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở cấp trung ương diễn biến theo xu hướng ngày càng giảm và giảm ở tỷ lệ đáng kể so với năm gốc là năm 2010, tỷ lệ giảm cao nhất là 40,8%; trong khi đó số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở các cơ quan địa phương lại diễn biến với xu hướng tăng và tăng với tỷ lệ rất cao so với năm gốc là năm 2010, tỷ lệ tăng cao nhất là 407,6%. 1.3.2.6. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo đặc điểm phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm của người phạm tội Số người phạm tội lần đầu có xu hướng giảm đều ở tất cả các năm trong giai đoạn nghiên cứu so với năm gốc là năm 2010; trong khi đó, số người tái phạm và tái phạm nguy hiểm lại có xu hướng tăng ở tất cả các năm trong giai đoạn nghiên cứu so với năm gốc. CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN 2.1. Vấn đề chung về nguyên nhân của tội phạm Nguyên nhân của tội phạm là một trong những đối tượng nghiên cứu của tội phạm học nói chung cũng như của hầu hết các công trình nghiên cứu vấn đề cụ thể của tội phạm học. Khi nghiên cứu một nhóm tội hay một tội phạm cụ thể dưới góc độ tội phạm học, việc nghiên cứu để xác định những yếu tố được coi là nguyên 12 nhân của tội phạm là việc làm không thể thiếu, tạo cơ sở cần thiết cho việc đưa ra được các biện pháp phù hợp với yêu cầu thực tiễn, để hạn chế hoặc có thể loại trừ sự tác động của các yếu tố đó đối với việc phát sinh tội phạm trong phạm vi nghiên cứu. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, còn tồn tại các quan niệm khác nhau về nguyên nhân của tội phạm. Các quan niệm khác nhau này, trước hết thể hiện ở việc dùng các khái niệm khác nhau để chỉ các yếu tố làm phát sinh tội phạm, chẳng hạn như: Khái niệm “nguyên nhân và điều kiện của tội phạm”; “nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm”; “nguyên nhân của tình hình tội phạm” và phân biệt với khái niệm “điều kiện của tình hình tội phạm”; khái niệm “nguyên nhân của tội phạm”. Về phần mình, NCS đồng ý với quan điểm của các tác giả cho rằng nguyên nhân của tội phạm là tổng hợp các yếu tố, mà sự tác động qua lại giữa các yếu tố đưa đến việc thực hiện tội phạm của người phạm tội. Theo đó, nguyên nhân của tội tham ô tài sản là tổng hợp các yếu tố, mà sự tác động qua lại giữa các yếu tố đó đưa đến việc người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. 2.2. Nguyên nhân của tội tham ô tài sản giai đoạn 2010 – 2019 2.2.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước Thực tế cho thấy, tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế còn cồng kềnh, nhiều khâu, tầng trung gian; việc xác lập chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị kinh tế chưa rõ ràng, hoặc chồng chéo, thiếu cơ chế phối hợp cụ thể, dẫn đến hậu quả là một vụ việc có thể có nhiều cơ quan có quyền quản lý nhưng lại thiếu một cơ quan chịu trách nhiệm chính. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng những kẽ hở của sự chồng chéo hoặc sự phân định không rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. Tuy nhiên, không phải mọi hạn chế, bất cập trong tổ chức, quản lý nhà nước đều là nguyên nhân làm phát sinh tội tham ô tài sản, mà chỉ những hạn chế, bất cập liên quan trực tiếp hoặc có mức độ liên quan nhất định đến cơ chế, tổ chức, hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế nhà nước trong việc quản lý, sử dụng tài sản ở các lĩnh vực khác nhau và dưới các hình thức khác nhau, cụ thể: 2.2.1.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, bao gồm những hạn chế sau: Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước được tổ chức với cấu trúc cồng kềnh, nhiều tầng, nấc trung gian. Hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước còn bị buông lỏng. 13 Việc nhà nước dành sự ưu tiên quá mức cần thiết đối với doanh nghiệp nhà nước là một trong những yếu tố tạo ra tiêu cực trong hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước. Việc Nhà nước trao cho doanh nghiệp nhà nước được quyền kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, thừa nhận hình thức sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước, đã tạo ra yếu tố làm phát sinh hành vi tham ô tài sản của một số người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực này. Việc nhà nước quá coi trọng các thủ tục hành chính khi thành lập doanh nghiệp nhưng sau khi doanh nghiệp được thành lập lại buông lỏng quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh dẫn đến tình trạng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. Luật doanh nghiệp năm 2014 chưa bao quát hết các đối tượng cần kiểm soát, nên thiếu cơ sở pháp lý để ngăn ngừa một cách kín kẽ các giao dịch có nguy cơ tư lợi trong doanh nghiệp. 2.2.1.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động mua sắm công; quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách, bao gồm những hạn chế sau: Chưa thiết lập được cơ chế quản lý chặt chẽ đối với hoạt động mua sắm công, quản lý quỹ, ngân sách được cấp nên người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng sự hạn chế này để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. Một số hạn chế của pháp luật về đấu thầu cũng góp phần làm phát sinh, gia tăng số vụ tham ô tài sản trong lĩnh vực này. Một số bất cập của Luật ngân sách cũng tạo ra kẽ hở để người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản khi họ được giao trong quản lý quỹ, ngân sách được cấp. Chẳng hạn như, tại Điều 58 luật ngân sách nhà nước năm 2015 quy định biện pháp xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước, nhưng lại không có quy định về việc xử lý tình trạng dư tạm thời quỹ ngân sách nhà nước. Sự thiếu sót này đã dẫn đến tình trạng khi ngân sách dự toán dư thừa, người có chức vụ, quyền hạn dễ dàng lợi dụng để lập khống hóa đơn, chứng từ quyết toán và chiếm đoạt khoản dư của quỹ ngân sách. 2.2.1.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động quản lý đất đai, bao gồm những hạn chế sau: Các cơ quan nhà nước theo phân cấp quản lý vừa có quyền quyết định về đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu, vừa có quyền quyết định về quản lý đất đai với tư cách là cơ quan quản lý của nhà nước; quy định lồng ghép này đã bị người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt các lợi ích thu được từ đất đai. Luật đất đai năm 2013 thừa nhận cơ chế đổi đất lấy hạ tầng dưới hình thức các dự án xây dựng, chuyển giao là một trong những yếu tố tiềm ẩn nguy cơ tham ô tài sản từ hoạt động này. 14 2.2.1.4. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng, bao gồm những hạn chế sau: Quy định về điều kiện cấp phép hoạt động đối với ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch dẫn đến tình trạng các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng được thành lập khá ồ ạt, một số người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng để chiếm đoạt tài sản. Một số văn bản dưới luật quy định về quản lý đối với hoạt động cho vay, nhận tiền gửi tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng còn lỏng lẻo hoặc không rõ ràng nên thực tế một số người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng để chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, tổ chức tín dụng. Hoạt động tổ chức, quản lý trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng còn lỏng lẻo, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế cũng là nguyên nhân tác động không nhỏ đến sự phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở nước ta trong những năm gần đây. Hệ thống ngân hàng thương mại và các chi nhánh phát triển một cách ồ ạt về số lượng, không có quy hoạch, hoạt động bộc lộ nhiều sơ hở, do bị chi phối bởi sức ép lợi nhuận nên đã nới lỏng điều kiện tín dụng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tội tham ô tài sản trong lĩnh vực này. 2.2.1.5. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, xây dựng, bao gồm những hạn chế sau: Quy định về phân bổ vốn đầu tư, quản lý ngân sách có phần chưa hợp lý nên đã tạo kẽ hở để người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản khi được giao trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách. Luật đấu thầu năm 2013 quy định về những trường hợp được phép chỉ định thầu, nhưng thực tế phạm vi chỉ định còn khá rộng, trong khi chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ việc thực hiện chế định chỉ định thầu, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, nên đã tạo ra những yếu tố tiêu cực để người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản khi được giao trách nhiệm quản lý, sử dụng ngân sách chi cho đầu tư, xây lắp, mua sắm công. Công tác quản lý vốn đầu tư còn lỏng lẻo, chẳng hạn như hoạt động giám sát đối với công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án, phân bổ vốn đầu tư, quyết định đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư chưa được thực hiện chặt chẽ; do chủ thể thực hiện hoạt động giám sát và chủ thể bị giám sát đều do một cơ quan, hoặc bộ, ngành quản lý nên chưa đủ yếu tố đảm bảo tính khách quan, minh bạch của hoạt động giám sát, dẫn đến hoạt động giám sát đầu tư, xây dựng còn mang tính thủ tục, chưa thực sự phát huy tác dụng đối với việc phòng ngừa tham ô tài sản trong lĩnh vực này 2.2.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế của công tác cán bộ 2.2.2.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ, bao gồm những hạn chế sau: 15 Đối với việc quy hoạch cán bộ: Ở một số ngành, địa phương chưa lấy việc đánh giá cán bộ làm tiêu chí chủ yếu, chưa xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ và năng lực thực tiễn của cán bộ, chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ dẫn đến việc quy hoạch còn mang tính hình thức, thiếu tính khả thi, chất lượng quy hoạch còn thấp, cơ cấu quy hoạch chưa cân đối về trình độ, ngành nghề đào tạo, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Đối với việc bổ nhiệm cán bộ: Việc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý thông qua nguồn thi tuyển còn chưa đảm bảo tính công khai, thiếu khách quan và chưa thật sự công bằng. 2.2.2.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong công tác quản lý, đánh giá cán bộ, bao gồm những hạn chế sau: Công tác quản lý cán bộ đã bộc lộ nhiều sơ hở, yếu kém do còn bị chi phối, tác động bởi nhiều mối quan hệ liên quan đến lợi ích vật chất. Cách thức quản lý cán bộ còn quá coi trọng lý lịch, truyền thống gia đình, quản lý trên hồ sơ, bằng cấp, mà coi nhẹ việc quản lý chính trị hiện tại của mỗi cán bộ, dẫn đến tình trạng không kịp thời phát hiện cán bộ suy thoái về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản của nhà nước. Việc quản lý tài sản, thu nhập của người giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo trong các cơ quan, đơn vị kinh tế nhà nước vẫn là hoạt động yếu kém nhất trong công tác quản lý cán bộ. Đánh giá cán bộ vẫn là một khâu yếu, còn tồn tại nhiều hạn chế nên kết quả đánh giá chưa thực sự phản ảnh đúng năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán bộ. Việc đánh giá cán bộ vào cuối năm công tác hoặc trước khi đề bạt, bổ nhiệm còn mang tính hình thức để hoàn thiện thủ tục trong hồ sơ cán bộ, mà chưa được coi là một kênh, một phương diện để có thể kịp thời phát hiện ra những sai phạm, yếu kém trong quá trình thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao của cán bộ, công chức. Trong khi đó, kết quả đánh giá cán bộ lại được coi là một trong những tiêu chí căn bản khi xem xét bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý đối với cán bộ. 2.2.2.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong chính sách tiền lương, phụ cấp đối với người có chức vụ, quyền hạn, bao gồm những hạn chế sau: Chính sách tiền lương còn bất hợp lý; phần lớn cán bộ, công chức không đủ sống từ lương, trong đó một bộ phận cán bộ thiếu bản lĩnh, thiếu tu dưỡng, thoái hóa biến chất đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản của nhà nước để thỏa mãn nhu cầu vật chất. Chế độ đãi ngộ đối với người tài, người có năng lực, trình độ chuyên môn cao cũng còn nhiều hạn chế, chưa tạo động lực để khuyến khích khả năng, trình độ của họ vào hiệu quả công vụ; chế độ phụ cấp còn mang tính cào bằng, chưa tương xứng với tính chất của những nhiệm vụ được giao mang tính đặc thù. 16 2.2.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật 2.2.3.1. Hạn chế trong việc xác định nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật Nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường mới chỉ tập trung vào một số quy định của Luật phòng, chống tham nhũng, mà chưa đề cập đến những quy định cần thiết của các văn bản pháp luật đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa được lồng ghép với các hoạt động mang tính thực tiễn nên hiệu quả thu được chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. 2.2.3.2. Hạn chế trong việc xác định đối tượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật Việc xác định đối tượng được tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn mang tính dàn chải, chung chung là hướng tới tất cả các tầng lớp nhân dân nói chung, mà chưa có sự chọn lọc, phân loại đối tượng để có sự ưu tiên ở các mức độ khác nhau khi thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản. Việc xác định đối tượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn có sự đánh đồng giữa những cá nhân, công dân ở tất cả các lĩnh vực khác nhau với những cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan, đơn vị kinh tế nhà nước; chưa có sự phân loại theo nhóm đối tượng dựa trên những tiêu chí khác nhau, để từ đó có những nội dung tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với từng nhóm đối tượng. 2.2.3.3. Hạn chế về hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng Hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống các tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng còn đơn điệu, chưa có sự phân loại các nhóm đối tượng để lựa chọn hình thức tuyên truyền cho phù hợp, nên hiệu quả tuyên truyền còn rất hạn chế. 2.2.4. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động phát hiện và xử lý tội tham ô tài sản 2.2.4.1. Hạn chế trong hoạt động phát hiện tội tham ô tài sản Việc phát hiện tội phạm chưa kịp thời vẫn là một trong những yếu tố có sức tác động đáng kể đến hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản, hay đó chính là yếu tố góp phần làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản. 2.2.4.2. Hạn chế trong hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị can Hạn chế trong hoạt động khởi tố vụ án, bị can được thể hiện ở tỷ lệ khởi tố vụ án, khởi tố bị can còn thấp so với số lượng tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố: Trong khoảng thời gian 10 năm từ năm 2010 đến năm 2019, số tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố phải giải quyết là 4505 việc/ 8276 người; trong khi 17 đó số vụ án, số bị can khởi tố trong cùng thời điểm là 2796 vụ, chiếm 62% và 5030 bị can, chiếm 60,7% so với số việc và số người bị kiến tố giác, kiến nghị khởi tố. 2.2.4.3. Hạn chế trong quá trình giải quyết vụ án tham ô tài sản Việc giải quyết các vụ án tham ô tài sản còn bị kéo dài do những yếu tố sau: Việc thu thập tài liệu, chứng cứ thường gặp nhiều khó khăn do đã bị tiêu hủy, che giấu, hoặc hợp thức hóa bằng các thủ tục thanh, quyết toán; hoạt động giám định còn mất nhiều thời gian, sự phối hợp giữa các bộ, ngành chưa được chặt chẽ; sự thiếu thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng các vụ án tham ô tài sản. 2.2.4.4. Hạn chế trong việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội Việc Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp xác định mức độ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo trong các vụ án tham ô tài sản còn có phần chưa đảm bảo tương xứng với tính chất của hành vi, mức độ hậu quả do bị cáo gây ra. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật đối với bản thân bị cáo, mà còn tạo ra những tác động tiêu cực trong việc phòng ngừa chung, nhất là đối với những vụ án được dư luận xã hội quan tâm do tình trạng này đã tạo ra những phản ứng, bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Nhưng quan trọng hơn, nếu để tình trạng này xảy ra phổ biến, sẽ trở thành một trong những yếu tố xã hội tiêu cực góp phần làm phát sinh tội tham ô tài sản trên thực tế. 2.2.4.5. Hạn chế trong việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt Việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham ô tài sản còn rất hạn chế, cũng là một trong những yếu tố làm giảm hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản, vì yêu cầu của chống, phòng ngừa tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng là phải làm triệt để việc thu hồi tài sản. 2.2.5. Nguyên nhân từ phía người phạm tội Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản những năm gần đây cho thấy những yếu tố tiêu cực có tác động nhất định đến đặc điểm tâm lý tiêu cực của người có chức vụ, quyền hạn, làm cho tính hám lợi trỗi dậy, dẫn đến việc họ chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý, những yếu tố đó là: 2.2.5.1. Thói ăn chơi xa xỉ, thể hiện đẳng cấp của một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn Đây là hiện tượng xã hội tiêu cực mới xuất hiện trong giới quan chức những năm gần đây; thể hiện lối sống xa hoa, hưởng lạc, sử dụng những tài sản như biệt thự, biệt phủ, xe, đồng hồ có giá trị nhiều chục tỷ đồng hoặc chi những khoản tiền đặc biệt lớn vào các dịch vụ giải trí, phục vụ nhu cầu cá nhân để khẳng định đẳng cấp thượng lưu của một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, để làm được những điều đó thì bộ phận quan chức đó phải có một lượng tiền rất lớn. Đó 18 chính là căn nguyên làm trỗi dậy lòng tham, tính hám lợi trong bản ngã của họ và là yếu tố thôi thúc họ sử dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. 2.2.5.2. Đề cao lợi ích vật chất, khao khát làm giàu nhanh chóng Do xuất phát từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống nên khi người có chức vụ, quyền hạn được giao quản lý tài sản của nhà nước, của tổ chức, họ mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản đó nhằm phục vụ, thỏa mãn các lợi ích khác nhau của bản thân họ. 2.2.5.3. Đặc tính tham lam, tư lợi Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản cho thấy lòng tham và tính tư lợi được coi là yếu tố tiêu cực có vai trò thường trực trong việc hình thành nguyên nhân từ phía người phạm tội. CHƯƠNG 3. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Đánh giá hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong những năm vừa qua Đánh giá hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản trong những năm vừa qua là cơ sở để thấy những kết quả đã đạt được, cũng như những hạn chế cần khắc phục của hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản, từ đó đưa ra các biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này ở nước ta trong thời gian tới. Hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng kể về xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật; các biện pháp phòng, chống tham nhũng trong đó có tham ô tài sản được đẩy mạnh thực hiện. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế làm ảnh hưởng đến hiệu quả phòng ngừa như: Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về phòng, chống loại tội phạm này chưa được thể chế hóa một cách kịp thời; các biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản chưa được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất; chưa có cơ chế gắn trách nhiệm của các chủ thể phòng ngừa với hiệu quả của hoạt động phòng ngừa; các hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phát hiện, xử lý người phạm tội tham ô tài sản còn có những hạn chế nhất định; vai trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội và truyền thông chưa được phát huy tối đa... 3.2. Dự báo tình hình tội tham ô tài sản Trên cơ sở mức tăng, giảm bình quân giai đoạn 2010-2019, tác giả có thể dự báo, đánh giá số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam từ năm 2021 đến năm 2030 như sau: Về thực trạng, số vụ phạm tội tham ô tài sản sẽ có mức tăng bình quân trong khoảng 40% đến 60% và số người phạm tội tham ô tài sản sẽ có mức tăng bình quân trong khoảng từ 55% đến 70%. Về diễn biến, số vụ phạm tội 19 tham ô tài sản sẽ có chiều hướng khi tăng, khi giảm, trong đó số vụ phạm tội sẽ có tỷ lệ giảm giao động trong khoảng từ 3% đến 30% và tỷ lệ tăng giao động trong khoảng từ 3% đến 50%; số người phạm tội sẽ có tỷ lệ giảm giao động trong khoảng từ 1,5% đến 6% và sẽ tăng giao động trong khoảng từ 3% đến 60%. 3.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới 3.3.1. Nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức, quản lý nhà nước 3.3.1.1. Đổi mới cách thức tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước, tập đoàn kinh tế, cụ thể: Trước tiên, phải cải tiến cơ cấu tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế Tiếp theo, cần phải đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước Thứ ba là biện pháp thu hẹp phạm vi đặc quyền ưu tiên đối với doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước Thứ tư là biện pháp cần tập trung phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu Thứ năm là biện pháp hoàn thiện một số quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 3.3.1.2. Đổi mới tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động mua sắm công; quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách Thường xuyên thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác trong các lĩnh v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_phong_ngua_toi_tham_o_tai_san_o_viet_nam_tro.pdf
Tài liệu liên quan