Tóm tắt Luận án Trách nhiệm giải trình của chính phủ theo pháp luật Việt Nam

Đánh giá thực trạng nội dung trách nhiệm giải trình của

Chính phủ Việt Nam

- Sự phân định ba quyền: lập pháp; hành pháp và tư pháp tiến tới rõ

ràng là cơ sở đảm bảo cho phân biệt thẩm quyền của CP và làm rõ mối quan

hệ giữa CP và các cơ quan khác, các nội dung phải có TNGT của CP vì thế

được xác định cụ thể.

- Phạm vi thẩm quyền của CP ngày càng được mở rộng, vì thế nội

dung TNGT của CP cũng ngày càng được tăng lên.

- Nội dung chính sách công trong thời gian qua đã có những cơ chế

pháp lý và sức ép xã hội về TNGT của CP trong cả hoạch định và thực thi.

Tuy nhiên, trên thực tế các nội dung thuộc TNGT của CP còn một số hạn

chế như:

Thứ nhất, dự thảo luật. Theo quy định pháp luật hiện hành, TNGT

của CP đối với dự thảo luật chỉ được tiến hành một lần trước Quốc hội.

Điều này khác với “ba lần đọc” ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sự hạn chế

số lần dẫn đến hai vấn đề: CP không thể theo đuổi để bảo vệ chính sách

pháp luật của mình đến cùng trước Quốc hội và CP không có trách nhiệm

đối với sự thất bại của một dự thảo luật.

pdf27 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 07/03/2022 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Trách nhiệm giải trình của chính phủ theo pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên cứu TNGT là một đòi hỏi tất yếu của xu hướng phi tập trung hoá giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Theo đó, xu hướng phi tập trung hoá là một quá trình trao quyền nhiều hơn cho chính quyền địa phương và đồng nghĩa với việc cấp chính quyền có nhiều hơn TNGT trước chính quyền trung ương về các hành vi công vụ của mình. Bên cạnh đó còn nhiều góc độ tiếp cận nghiên cứu khác về TNGT. Tuy chưa xác lập được các xu hướng nghiên cứu rõ ràng, song những góc độ nghiên cứu đó góp phần đa dạng hoá nội dung nghiên cứu về TNGT trên thế giới. 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Khác với tình hình nghiên cứu ở nước ngoài, ở phạm vi trong nước, TNGT chưa được nhiều công trình nghiên cứu, do đó góc độ tiếp cận cũng chưa có sự đa dạng, việc nhận diện khái niệm TNGT cũng chưa có sự thống nhất chung. Có bản có thể kể tới một số xu hướng nghiên cứu về TNGT tiêu biểu như: - TNGT là một trong bốn trụ cột của quản trị nhà nước tốt. Quan điểm này cho rằng TNGT cùng với: sự tham gia của người dân; công khai minh bạch; sự dự đoán được trở thành bốn cấu thành của hoạt động quản trị nhà nước tốt. Trong đó TNGT giữ vai trò trọng tâm. - TNGT là một phương tiện để công khai - minh bạch nhằm phòng, chống tham nhũng. Xu hướng nghiên cứu này mặc dù trùng với xu hướng nghiên cứu thế giới, tuy nhiên các nghiên cứu trong nước đã chỉ ra rằng mục tiêu của việc công khai - minh bạch nhằm đảm bảo sự trong sạch của bộ máy nhà nước, tránh được các nguy cơ tham nhũng và lạm quyền. - TNGT là một điều kiện của xu hướng tự chủ giáo dục. Góc độ nghiên cứu này chủ yếu đến từ các bài viết phân tích điều kiện của tự chủ 8 đại học. Theo đó, phạm vi tự chủ tỷ lệ thuận với phạm vi TNGT của các trường đại học. - TNGT là một yêu cầu trong xây dựng và thực thi chính sách công. Mặc dù góc độ tiếp cận của các nghiên cứu này chưa hoàn thiện, song cũng đã xây dựng được một định hướng nghiên cứu về vai trò của TNGT trong chu trình chính sách công trong thời gian tới. Bên cạnh đó, cũng có nhiều các cách tiếp cận khác nhau về TNGT. Tuy nhiên, các cách tiếp cận đều có mối liên hệ mật thiết với gốc độ xem TNGT là phương tiện để đảm bảo công khai - minh bạch, hoặc xem công khai minh bạch là mục tiêu của TNGT hoặc thậm chí xem TNGT chính là công khai - minh bạch. 1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu đề tài 1.3.1. Những vấn đề liên quan đến chủ đề luận án đã được nghiên cứu sáng tỏ, có kết luận thống nhất và được luận án kế thừa, phát triển trong nghiên cứu đề tài Thứ nhất, các công trình đã làm rõ được nhiều khía cạnh về lý luận của TNGT như: khái niệm TNGT nói chung đã được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Thứ hai, chủ thể yêu cầu TNGT của CP cũng đã được một số công trình liệt kê. Thứ ba, nội dung TNGT của CP cũng đã được một số công trình đề cập. Thứ tư, một số phương thức giải trình của CP cũng đã được đề cập, làm rõ. Thứ năm, các hệ quả phải gánh chịu hậu TNGT cũng đã được một số công trình nhắc tới với trọng tâm là việc thay thế nhân sự CP. Thứ sáu, thực tiễn pháp luật về TNGT của Việt Nam cũng đã được một số công trình nghiên cứu đề cập. Thứ bảy, thực tiễn thực hiện TNGT của bộ máy nhà nước nói chung trong thực thi công vụ và của CP nói riêng trong hoạch định và thực thi chính sách công cũng đã được một số công trình nghiên cứu và chỉ ra được kết quả cũng như các bất cập. Thứ tám, một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả TNGT của nhà nước nói chung và CP trong lĩnh vực chính sách công nói riêng cũng đã được đề cập. 9 1.3.2. Những vấn đề liên quan đến chủ đề luận án nhưng chưa được giải quyết thấu đáo, còn nhiều tranh luận hoặc chưa được đặt ra nghiên cứu, còn nhiều vướng mắc Thứ nhất, khái niệm TNGT của CP theo pháp luật hiện nay vẫn chưa được xác lập bởi bất kỳ công trình nào. Thứ hai, vai trò TNGT dưới góc độ là một nghĩa vụ của CP – cơ quan hành chính nhà nước cao nhất chưa được đánh giá một cách toàn diện và trọng tâm vào chủ thể này. Thứ ba, các cấu trúc của TNGT của CP như: chủ thể, nội dung, phương thức và hệ quả TNGT của CP chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, do đối tượng nghiên cứu là hoạt động giải trình của cơ quan nhà nước nói chung hoặc của CP trong góc độ nhất định. Thứ tư, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về TNGT của CP theo pháp luật cũng chưa được các công trình nghiên cứu. Thứ năm, mặc dù có nhiều giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao TNGT của CP được đề xuất, tuy nhiên với hai góc độ tiếp cận kể trên của thực tiễn, các giải pháp cũng không trọng tâm vào TNGT theo pháp luật của CP. 1.4. Những vấn đề đặt ra cần được luận án nghiên cứu Thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ khái niệm TNGT của CP theo pháp luật. Khái niệm cần xác định chi tiết nội hàm của TNGT theo hướng phân biệt giữa TNGT với các khái niệm có tính tương đồng và thống nhất cách hiểu về CP. Thứ hai, cần tiếp tục làm rõ vai trò của TNGT đối với hoạt động của CP nói riêng và hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung. Thứ ba, cần xây dựng các cấu trúc của TNGT được pháp luật ghi nhận và phân tích sâu sắc các cấu trúc đó, như: chủ thể; nội dung; phương thức và hệ quả. Thứ tư, cần tiếp tục cập nhật, phản ánh thực trạng các cấu trúc TNGT được ghi nhận trong môi trường pháp lý Việt Nam. Thứ năm, thống kê các kết quả thực hiện TNGT của CP từ quá khứ đến hiện tại, đặc biệt trong hai nhiệm kỳ gần nhất để cho thấy thực trạng và xu hướng diễn biến TNGT của CP. Thứ sáu, cần đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả TNGT của CP Việt Nam vừa gắn liền với đặc trưng chính trị, pháp lý của Việt Nam, nhưng đảm bảo có sự học hỏi, tiếp thu các 10 giá trị tiên tiến của thế giới, cũng như tôn trọng các giá trị dân chủ đang ngày càng được xác lập rõ nét trong đời sống chính trị quốc gia. Tiểu kết Chương 1 Qua nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, có thể kết luận, TNGT là nội dung đã được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới và bắt đầu xuất hiện như một xu hướng nghiên cứu tiềm năng ở Việt Nam những năm gần đây. Những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp về TNGT nói chung bước đầu đã được các công trình nghiên cứu làm rõ. Đây là những giá trị quan trọng, đóng vai trò là nền tảng cho nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, việc nhận diện TNGT còn chưa được đồng nhất và có nhiều nhầm lẫn với những khái niệm tương đồng. Các công trình nghiên cứu TNGT nói chung có số lượng lớn, song nghiên cứu TNGT của CP lại ít và chủ yếu tập trung ở một vài khía cạnh nhất định như: phòng, chống tham nhũng; hoạch định và thực thi chính sách công; kiểm soát quyền lực CP việc trực tiếp nghiên cứu TNGT theo pháp luật của CP chưa được bất kỳ công trình nào xem xét cả ở ba khía cạnh: lý luận, thực tiễn và giải pháp. Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ THEO PHÁP LUẬT 2.1. Khái niệm trách nhiệm giải trình của Chính phủ Dựa trên những phân tích, đánh giá khái niệm TNGT của các nghiên cứu trong và ngoài nước đã được thực hiện trước đó và dựa trên kết quả những nghiên cứu riêng của NCS về TNGT, có thể định nghĩa TNGT của CP như sau: Trách nhiệm giải trình của Chính phủ là nghĩa vụ của Chính phủ, đại diện Chính phủ hoặc các thành viên Chính phủ, khi có yêu cầu, phải cung cấp và giải thích thông tin trước các chủ thể giám sát nhằm làm cơ sở để các chủ thể này đánh giá trách nhiệm trong thực hiện và kết quả thực hiện thẩm quyền của Chính phủ. 2.2. Vai trò của trách nhiệm giải trình của Chính phủ TNGT của CP có bốn vai trò cơ bản gồm: Thứ nhất, trách nhiệm giải trình là công cụ kiểm soát quyền lực Chính phủ. Thứ hai, trách nhiệm giải trình của Chính phủ là một cấu thành quan trọng của quản trị nhà nước tốt. Thứ ba, trách nhiệm giải trình của Chính phủ là cơ sở để xây dựng và duy trì Chính phủ liêm chính. 11 Thứ tư, trách nhiệm gải trình là phương tiện để Chính phủ ban hành và thực thi chính sách công hiệu quả. 2.3. Chủ thể và nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ 2.3.1. Các chủ thể trong mối quan hệ trách nhiệm giải trình của Chính phủ 2.3.1.1. Chủ thể có trách nhiệm giải trình Thứ nhất, Chính phủ có trách nhiệm giải trình với tư cách là một tập thể. Thứ hai, các thành viên của Chính phủ có trách nhiệm giải trình với tư cách cá nhân. - Trách nhiệm giải trình của người đứng đầu Chính phủ: Người đứng đầu CP có thể chịu TNGT với tư cách là người lãnh đạo CP – “Bộ trưởng thứ nhất” và với tư cách là một thành viên của CP. - Phó Tổng thống/Phó Thủ tướng: Phó Tổng thống hoặc Phó Thủ tướng chịu TNGT với tư cách “Bộ trưởng thứ hai” và TNGT với tư cách thành viên CP. - Bộ trưởng: Bộ trưởng chịu TNGT với hai tư cách: vừa là công chức hành pháp (thành viên Chính phủ - chính khách) vừa là công chức hành chính (Bộ trưởng). 2.3.1.2. Chủ thể yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ - Nghị viện/ Quốc hội/ Nhân đại: Nghị viện bao gồm: Nghị viện nói chung, các Uỷ ban chuyên môn của Nghị viện, Thanh tra Nghị viện, Kiểm toán và các Nghị sĩ. Nghị viện yêu cầu TNGT của CP nhằm đảm bảo giám sát hoạt động của CP – cơ quan do Nghị viện thành lập. - Tòa án: Toà án yêu cầu CP có TNGT nhằm đảm bảo sự tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Quyền này có thể được bằng Toà Bảo hiến hoặc chức năng bảo hiến của toà án thông thường. - Nguyên thủ quốc gia: Nguyên thủ Quốc gia yêu cầu TNGT của CP với tư cách là người đứng đầu quốc gia và người đứng đầu hành pháp. - Nhân dân: Nhân dân bao gồm: cá nhân công dân đơn lẻ, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế tư nhân đây là những người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các hoạt động thực thi thẩm quyền của CP. 2.3.2. Nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ Thứ nhất, chính sách pháp luật. Chính sách pháp luật là những tư tưởng, quan điểm, sáng kiến lập pháp của CP. Thứ hai, các văn bản pháp lý do Chính phủ ban hành. CP được trao quyền tự mình ban hành các văn bản để thực hiện thẩm quyền. CP phải có 12 TNGT các văn bản này để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và không sa vào nguy cơ lạm quyền. Thứ ba, hoạt động xây dựng và thực hiện chính sách công. Ban hành và thực hiện chính sách công là hoạt động trọng tâm của CP. Đất nước hưng thịnh hay suy vọng đều phụ thuộc mạnh mẽ vào chất lượng và hiệu quả từ các chính sách của CP. Do đó, CP tất yếu phải có TNGT về các chính sách này. Thứ tư, sử dụng ngân sách nhà nước. Việc sử dụng ngân sách này tiềm ẩn nguy cơ về tham nhũng, kém hiệu quả hay thất thoát, lãng phí. TNGT sẽ ràng buộc CP chi tiêu ngân sách thân trọng và hiệu quả hơn. Thứ năm, vấn đề nhân sự của Chính phủ. TNGT về vấn đề nhân sự của CP đảm bảo sự chọn lựa được công khai với những tiêu chí đầy đủ về tài năng và đức độ. Đồng thời hiệu quả hoạt động của các thành viên CP sẽ được giam sát chặt chẽ bởi các chủ thể có thẩm quyền yêu cầu TNGT. Thứ sáu, dịch vụ công. CP mặc dù không trực tiếp cung cấp dịch vụ công, tuy nhiên lại đóng vai trò quyết định nội dung, chất lượng và giá cả của dịch vụ công. Thứ bảy, thủ tục hành chính. CP lại đóng vai trò xác lập nội dung, trình tự, lệ phí và các vấn đề khác của thủ tục hành chính trên phạm vi toàn quốc. Do đó, CP phải có TNGT về những vấn đề thuộc lĩnh vực này. 2.4. Phương thức và hệ quả thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ 2.4.1. Phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ Thứ nhất, Chính phủ báo cáo hoạt động thường xuyên trước Nghị viện và người dân. Thứ hai, Chính phủ trả lời chất vấn trước Nghị viện. Thứ ba, Chính phủ tham gia điều trần trước các Uỷ ban của Nghị viện. Thứ tư, Chính phủ trả lời các câu hỏi của nghị sĩ trong quá trình giám sát. Thứ năm, Chính phủ báo cáo, tham gia điều trần trong hoạt động tố tụng của Toà án. Thứ sáu, Chính phủ trả lời yêu cầu của người dân. Thứ bảy, Chính phủ thực hiện trách nhiệm giải trình thông qua các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. 2.4.2. Hệ quả trách nhiệm giải trình của Chính phủ Thứ nhất, hệ quả Chính phủ phải thay đổi chính sách. Thứ hai, hệ quả Chính phủ phải thay đổi nhân sự. Thứ ba, hệ quả Chính phủ có thể bị giải thể. 13 Tiểu kết Chương 2 Qua nghiên cứu, có thể thấy TNGT của CP là một khái niệm còn gây ra nhiều bàn cãi trong học giới. Tuy nhiên, góc độ tiếp cận nào cũng có giá trị của riêng nó. Sự phong phú trong quan niệm không làm cho vấn đề trở nên khó nắm bắt, mà ngược lại, tạo cơ hội cho sự suy lý về TNGT trở nên đầy đủ hơn. Trong giới hạn nghiên cứu của luận án, Chương 2 đã tiếp cận TNGT của CP dưới góc độ là một nghĩa vụ cung cấp, giải thích thông tin để xem xét, đánh giá trách nhiệm của CP trong hoạt động thực thi công vụ của các chủ thể có thẩm quyền giám sát CP. Đây có thể là một cách tiếp cận tiếp tục gây ra sự bàn cãi, song sẽ mang đến một hướng nhìn nhận mới về vấn đề nghiên cứu. TNGT của CP là một đòi hỏi tất yếu của hầu hết các quốc gia dân chủ đương đại trên thế giới. Đó không chỉ là phương thức để giúp kiểm soát và cân bằng quyền lực mà còn là cơ sở cho hoạt động của một CP hiện đại, liêm chính và hiệu quả. Mặc dù mỗi thể chế có những quy định riêng về hoạt động này, tuy nhiên điểm chung lớn nhất được ghi nhận chính là các cơ chế ràng buộc để hoạt động này trở thành một trách nhiệm trong sự ràng buộc thay vì là một lựa chọn của CP. Chương 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM 3.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.1.1. Các chủ thể trong mối quan hệ trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.1.1.1. Chủ thể chịu trách nhiệm giải trình Chủ thể TNGT của CP Việt Nam cũng có những tương đồng với CP các quốc gia thuộc Đại nghị chế trên thế giới khi tồn tại hai nhóm gồm: Thứ nhất, Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình với tư cách tập thể. Thứ hai, các thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình với tư cách cá nhân với ba nhóm đối tượng gồm: - Thủ tướng chịu TNGT với tư cách là người đứng đầu CP – “Bộ trưởng thứ nhất” và với tư cách là một thành viên CP trong cơ chế lãnh đạo tập thể. - Phó Thủ tướng chịu TNGT với tư cách là người đứng thứ hai CP – “Bộ trưởng thứ hai” và với tư cách là một thành viên CP trong cơ chế lãnh đạo tập thể. 14 - Bộ trưởng chịu TNGT với tư cách là người đứng đầu ngành, lĩnh vực – Bộ trưởng và với tư cách là thành một thành viên CP trong cơ chế lãnh đạo tập thể. 3.1.1.2. Chủ thể yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ Thứ nhất, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Các chủ thể của nhóm này bao gồm: - Quốc hội. - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. - Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội. - Đại biểu Quốc hội. Thứ hai, Chủ tịch nước. Thứ ba, Toà án nhân dân. Thứ tư, Nhân dân. 3.1.2. Nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam Thứ nhất, trách nhiệm giải trình các dự thảo luật. Thứ hai, trách nhiệm giải trình chính sách công. Thứ ba, trách nhiệm giải trình hoạt động lập quy. Thứ tư, trách nhiệm giải trình các vấn đề về nhân sự và nguồn gốc tài sản tăng thêm. 3.1.3. Phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam Thứ nhất, Chính phủ báo cáo hoạt động trước Quốc hội, UBTVQH và Chủ tịch nước. Thứ hai, Chính phủ trả lời chất vấn trước Quốc hội. Thứ ba, Chính phủ tiếp xúc với Nhân dân. Thứ tư, Chính phủ giải quyết khiếu nại, tố cáo. 3.1.4. Hệ quả trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam Theo pháp luật hiện hành, hệ quả nếu TNGT thất bại, CP sẽ phải gánh chịu là: Thủ tướng bị bãi nhiệm, miễn nhiễm; Phó Thủ tướng, Bộ trưởng bị miễn nhiệm, cách chức; bãi bỏ văn bản pháp luật của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ,... Đặc biệt từ năm 2001, Quốc hội được quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, trong đó có người đứng đầu và các thành viên khác của Chính phủ 3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.2.1. Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 2001 15 Giai đoạn này được đánh dấu bởi thời điểm thành lập chính thể cộng hoà với sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 1946, đến năm 2001- thời điểm Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung. Đây là giai đoạn ghi nhận nhiều biến cố, thay đổi của đất nước với ba thời kỳ: giai đoạn thứ nhất chiến tranh giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai xây dựng kinh tế theo mô hình tập trung; và giai đoạn thứ ba đổi mới đất nước. 3.2.2. Giai đoạn từ năm 2002 đến nay Giai đoạn sau năm 2002 đến nay, với những chính sách mở cửa hội nhập, bên cạnh những tiến bộ về kinh tế, những vấn đề chính trị, pháp lý cũng được đổi mới theo hướng du nhập nhiều giá trị tiến bộ của thế giới. Năm 2002 cũng là năm đầu tiên Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 đi vào đời sống xã hội. TNGT của CP cũng được chú trọng và không ngừng hoàn thiện cho đến ngày nay. 3.3. Đánh giá thực trạng trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.3.1. Đánh giá thực trạng các chủ thể trong mối quan hệ trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.3.1.1. Đánh giá thực trạng chủ thể chịu trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - CP ngày càng có TNGT hơn trước Quốc hội và Nhân dân, đặc biệt trong lĩnh vực chính sách công. - TNGT của các cá nhân trong CP cũng được xác lập và từng bước đề cao hơn TNGT tập thể. - Các chủ thể có TNGT trong CP đã thay đổi tích cực nhận thức về TNGT. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn một số hạn chế sau: Thứ nhất, Chính phủ hoạt động theo nguyên tắc tập thể, theo nguyên tắc này Thủ tướng sẽ là “Bộ trưởng thứ nhất”. Tuy nhiên trên thực tế thực hiện TNGT, Thủ tướng tham gia trả lời chất vấn trước Quốc hội không phân định nội dung trả lời thuộc thẩm quyền của cá nhân Thủ tướng hay của tập thể CP. Đồng thời với sự hiện diện của các Phó Thủ tướng, trách nhiệm của Thủ tướng cũng được chia nhỏ như chính thẩm quyền. Vấn đề xác định trách nhiệm trực tiếp của Thủ tướng hậu TNGT chưa được thực hiện rõ nét. Thứ hai, vị trí Phó Thủ tướng được đảm nhiệm bởi nhiều thành viên. Sự đa cấp bậc này không làm tăng TNGT, mà ngược lại trở thành lực cản 16 để xác định chủ thể trọng tâm phải gánh chịu trách nhiệm và vì thế, các hệ quả hậu TNGT cũng sẽ không áp đặt được cho đúng người phải gánh chịu. Thứ ba, Bộ trưởng mặc dù được quy định với hai vai trò, nhưng trên thực tế, quy chế pháp lý chú trọng vai trò là người đứng đầu bộ, ngành hơn là vai trò thành viên Chính phủ. 3.3.1.2. Đánh giá thực trạng chủ thể yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - Quốc hội trở thành thiết chế yêu cầu và giám sát TNGT của CP chủ yếu và có hiệu quả nhất. - Các Uỷ ban của Quốc hội cũng đã có sự chuyên môn hoá sâu nhằm tăng khả năng lắng nghe TNGT của CP và giám sát hoạt động gánh chịu trách nhiệm hậu TNGT. - Người dân và các tổ chức xã hội dân sự chủ động hơn trong hoạt động yêu cầu CP chịu TNGT. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động yêu cầu và giám sát TNGT của CP vẫn còn một số hạn chế sau: Thứ nhất, các quy định về quyền yêu cầu Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình và áp đặt các hệ quả chính trị của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội chưa trực tiếp và rõ ràng, dẫn đến thiếu căn cứ pháp lý để các chủ thể này yêu cầu và giám sát. Thứ hai, Quốc hội và các thiết chế khác của Quốc hội chưa đảm bảo yêu cầu, lắng nghe và giám sát trách nhiệm giải trình của Chính phủ một cách hiệu quả. - Quốc hội Việt Nam được tổ chức và hoạt động chưa thực sự chuyên nghiệp để yêu cầu TNGT của CP một cách khách quan và lắng nghe TNGT một cách hiệu quả: + Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị. + Quốc hội Việt Nam được hình thành theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Song trên thực tế, tư tưởng đại diện chi phối việc hình thành này. + Đại biểu Quốc hội chuyên trách hiện nay chỉ chiếm 35% tổng số đại biểu Quốc hội. + Cơ chế miễn trừ trong lời nói, phát biểu và biểu quyết của Đại biểu đã không được xác lập. - UBTVQH khó khăn trong việc yêu cầu CP chịu TNGT vì sự đa dạng thành viên của tổ chức này chưa đủ độ bao phủ các lĩnh vực quản lý của CP để có thể yêu cầu và lắng nghe TNGT một cách hiệu quả. - Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban chuyên môn cũng gặp khó khăn tương tự khi không thể giám sát được mọi mặt của hoạt động CP để yêu cầu TNGT. - Khuyết thiết chế Thanh tra Quốc hội. 17 Thứ ba, Toà án không đóng vai trò quan trọng trong việc yêu cầu và giám sát TNGT của CP. Thứ tư, vai trò trên thực tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong yêu cầu và giám sát trách nhiệm giải trình của Chính phủ chưa được đảm bảo. Thứ năm, các thiết chế xã hội, bao gồm: Nhân dân, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp cũng chưa có được những ghi nhận pháp lý cụ thể để yêu cầu Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình. 3.3.2. Đánh giá thực trạng nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - Sự phân định ba quyền: lập pháp; hành pháp và tư pháp tiến tới rõ ràng là cơ sở đảm bảo cho phân biệt thẩm quyền của CP và làm rõ mối quan hệ giữa CP và các cơ quan khác, các nội dung phải có TNGT của CP vì thế được xác định cụ thể. - Phạm vi thẩm quyền của CP ngày càng được mở rộng, vì thế nội dung TNGT của CP cũng ngày càng được tăng lên. - Nội dung chính sách công trong thời gian qua đã có những cơ chế pháp lý và sức ép xã hội về TNGT của CP trong cả hoạch định và thực thi. Tuy nhiên, trên thực tế các nội dung thuộc TNGT của CP còn một số hạn chế như: Thứ nhất, dự thảo luật. Theo quy định pháp luật hiện hành, TNGT của CP đối với dự thảo luật chỉ được tiến hành một lần trước Quốc hội. Điều này khác với “ba lần đọc” ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sự hạn chế số lần dẫn đến hai vấn đề: CP không thể theo đuổi để bảo vệ chính sách pháp luật của mình đến cùng trước Quốc hội và CP không có trách nhiệm đối với sự thất bại của một dự thảo luật. Thứ hai, chính sách công. Đối chiếu với các căn cứ pháp luật hiện hành, quy định về TNGT chính sách công của CP chưa được cụ thể hoá. Thứ ba, xác định các nội dung không thuộc đối tượng trách nhiệm giải trình. Quyền xác định các thông tin thuộc bí mật nhà nước được trao cho cơ quan hành pháp thay vì lập pháp, cộng với sự thiếu hụt cơ chế bảo hiến mạnh mẽ dễ gây ra tình trạng cơ quan hành chính nhà nước tùy tiện xác định những nội dung thuộc bí mật nhà nước nhằm né tránh TNGT. 3.3.3. Đánh giá thực trạng các phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - CP trả lời chất vấn trước Quốc hội và các Uỷ ban cho thấy hiệu quả vượt trội. - Các phương thức thực thi TNGT mang tính trực tiếp được ứng dụng rộng rãi hơn, đồng nghĩa với việc các phương thức gián tiếp sẽ dần bị hạn chế. 18 - Nhiều phương thức dựa trên nền tảng truyền thông đa phương tiện bước đầu đã được khai thác và mang đến hiệu quả cao. Tuy nhiên, việc vận dụng các phương thức thực hiện TNGT của CP hiện nay vẫn còn các hạn chế sau: Thứ nhất, phương thức chủ yếu theo quy định của pháp luật hiện hành vẫn là văn bản. Thứ hai, phương thức trả lời chất vấn mặc dù có nhiều sự thay đổi theo hướng linh động hơn, song trên thực tế thực hiện “hỏi nhanh, đáp gọn” vẫn tồn tại các hạn chế. Thứ ba, trang thông tin điện tử của Chính phủ chưa tạo ra được sự tương tác qua lại giữa người dân và đại diện Chính phủ. Thứ tư, giải quyết khiếu nại, tố cáo và các phản ánh bằng đơn thư dân nguyện cũng gặp phải hạn chế khi trên thực tế cách thức thực hiện đa tầng nấc. Thứ năm, việc sử dụng nền tảng của phương tiện thông tin đại chúng tuy được ứng dụng ngày càng rộng lớn và có tính cởi mở hơn, song trên thực tế, các hoạt động như “Dân hỏi, Bộ trưởng trả lời” chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội khi các yêu cầu trách nhiệm giải trình từ phía người dân bị hạn chế và kiểm duyệt chặt chẽ. 3.3.4. Đánh giá thực trạng hệ quả trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - Hoạt động lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đã được triển khai thực hiện và cơ bản đã phản ánh được thực trạng niềm tin của đại biểu dân cử đối với CP. - Trong những năm gần đây, nhiều thành viên CP đã bị cách chức do những sai phạm. - Hệ quả thay đổi hoặc bác bỏ chính sách của CP cũng được Quốc hội áp dụng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, hệ quả TNGT của CP vẫn còn một số hạn chế sau: Thứ nhất, số lượng các chính sách bị Quốc hội bác bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi không nhiều. Thứ hai, với hệ quả thay đổi nhân sự, Quốc hội sẽ yêu cầu thành viên Chính phủ phải từ chức hoặc bị xem xét miễn nhiệm sau khi Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên hệ quả này chỉ giới hạn sau hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm. Tiểu kết Chương 3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_trach_nhiem_giai_trinh_cua_chinh_phu_theo_ph.pdf
Tài liệu liên quan