TRIẾT HỌC JOHN LOCKE VÀ NHỮNG KIẾN GIẢI CỦA ÔNG
VỀ NGUỒN GỐC, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC
2.2.1. Về nhận thức luận
Trong lĩnh vực nhận thức luận, Locke được xem là người đặt nền
tảng cho thuyết duy nghiệm Anh với quan niệm nổi tiếng về “tabula rasa”
và cấu trúc của kinh nghiệm và quá trình nhận thức.
Locke cho rằng: “Khi sinh ra, tinh thần con người chính là một tờ
giấy trắng (hay “tabula rasa”) và chỉ có thể sở đắc được nhận thức cơ bản
về thế giới thông qua các giác quan” [15, tr.64].
Theo tinh thần nguyên lý “tabula rasa” thì nhận thức của con người
không phải bẩm sinh mà là một quá trình, quá trình đó theo Locke bắt đầu
từ kinh nghiệm. Locke khẳng định, sản phẩm của quá trình nhận thức là “ý
niệm”. “Ý niệm” theo Locke được hình thành qua 2 giai đoạn.
2.2.2. Về nguồn gốc và chức năng của nhà nước
2.2.2.1. Về trạng thái tự nhiên
Trạng thái tự nhiên, theo Locke là trạng thái ban sơ của cộng đồng
người khi chưa có nhà nước, chưa có luật pháp, mọi va chạm giữa những
con người với nhau là tự giải quyết, không có cơ quan nào phán xét cả.12
Trạng thái tự nhiên theo Locke là “trạng thái tự do hoàn hảo”, “trạng
thái bình đẳng”, trạng thái mà trong đó mọi người đều như nhau trong việc
thực thi các quyền của mình.
Thế nhưng trong trạng thái tự nhiên cũng chứa đựng nhiều bất tiện và
mâu thuẫn. Sự hỗn loạn của trạng thái tự nhiên theo Locke còn dẫn đến
hậu quả là gây ra trạng thái chiến tranh và tình trạng nô lệ - sự tha hóa
trạng thái tự nhiên.
2.2.2.2. Về trạng thái chiến tranh và tình trạng nô lệ
Theo Locke, “Trạng thái chiến tranh là trạng thái của thù địch và
hủy diệt. không phải từ thái độ nóng giận và vội vã, mà từ sự điềm
tĩnh và chuẩn bị chín chắn” [38, tr.49].
Dấu hiệu nhận ra trạng thái chiến tranh là khi ai đó sử dụng vũ lực
và bạo lực để làm mất đi tự do của người khác và biến người này thành
nô lệ của anh ta.
Trong trạng thái chiến tranh, quyền tự do tự nhiên đó mất đi, một
người có thể trở thành thù địch với nhiều người khác và ngược lại.
Trong trạng thái chiến tranh, một người có thể trở thành nô lệ cho
người khác khi mắc phải một “lỗi lầm” nào đó, thất trận chẳng hạn.
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 564 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời của nó đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
010 đã trình bày những nội dung cơ bản của tư tưởng về chính
quyền của John Locke. Trong bài, các tác giả đã phân tích một cách có hệ
thống quá trình ra đời, tồn tại, tổ chức hoạt động của các cơ quan quyền
lực trong chính quyền dân sự và đặc biệt nhấn mạnh quan điểm cốt lõi
trong tư tưởng về chính quyền của John Locke, đó là vai trò tối thượng của
nhân dân, quyền lực của nhân dân trong chính quyền dân sự.
Đỗ Thị Kim Hoa trong “Quyền con người trong tư tưởng của John
Locke về nhà nước”, Tạp chí Triết học, số 5 (45), 2017 đã phân tích quan
niệm của John Locke về các quyền tự nhiên của con người như: quyền
sống, quyền tự do, quyền sở hữu, quyền bình đẳng và khẳng định rằng:
việc đảm bảo thực hiện các quyền này là “cơ sở cho sự tồn tại của chính
quyền dân sự. Nó phản ánh chân thực sự hiện diện của một nhà nước pháp
quyền. Phải có được sự đảm bảo các quyền đó thì nhà nước mới là nhà
nước pháp quyền” [38, tr.57].
* Những công trình nghiên cứu về các nhà tư tưởng liên quan đến
tư tưởng của John Locke:
Vấn đề này đã có những tác giả tiêu biểu như: Lê Tuấn Huy, Nguyễn
Thị Châu Loan, Nguyễn Đăng Dung. Trong các nghiên cứu này có cả
nghiên cứu về tác giả là tiền đề tư tưởng của John Locke, có tác giả ảnh
hưởng trực tiếp tư tưởng của John Locke. Cụ thể:
Lê Tuấn Huy trong Luận án Tiến sĩ Triết học chính trị Montesquieu
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (51),
bảo vệ năm 2004 tại Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Tp. Hồ Chí
Minh đã chỉ ra những đóng góp của Montesquieu về tinh thần pháp quyền
và những nguyên tắc để thực thi nó. Nội dung tư tưởng của Montesquieu
có những điểm thống nhất với John Locke, có những điểm bổ sung, hoàn
thiện tư tưởng của John Locke, cũng có những điểm chưa vượt qua quan
niệm của John Locke về pháp quyền.
7
Nguyễn Thị Châu Loan trong Luận án Tiến sĩ Triết học chính trị J.J.
Rousseau và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay, (58), bảo vệ năm 2014 tại Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn Hà Nội đã trình bày quan niệm của Rousseau về triết học chính
trị và những quan niệm nền tảng về triết học chính trị của Rousseau như
quan niệm về quyền tự nhiên, về nguồn gốc của sự bất bình đẳng, về ý chí
chung, về chủ quyền tối cao, về khế ước xã hội Trong nội dung tư tưởng
về triết học chính trị và nhà nước pháp quyền của Rousseau có những quan
niệm gần giống với John Locke, kế thừa và phát triển vấn đề nhà nước
pháp quyền trong tư tưởng của John Locke.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
* Về vấn đề nhà nước pháp quyền: có nhiều công trình nghiên
cứu của các tác giả: Vũ Anh Tuấn, Đỗ Trung Hiếu, Trần Ngọc Liêu, Cao
Anh Đô, Nguyễn Thị Thúy Vân, Đào Trí Úc, Nguyễn Trọng Chuẩn,
Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Đình Hòa, Trần Thái
Dương, Vũ Thư. Trong đó, có công trình đi sâu phân tích khái niệm, đặc
điểm của nhà nước pháp quyền, có công trình nghiên cứu những nội dung
cấu thành nhà nước pháp quyền, có công trình nghiên cứu từng nội dung
cụ thể trong nhà nước pháp quyền, cũng có nghiên cứu quan điểm của
Mác, Ăngghen, Lênin về nhà nước và nhà nước pháp quyền. Cụ thể:
Trần Ngọc Liêu trong Luận án Tiến sĩ Quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về nhà nước với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, (57), bảo vệ năm 2010 tiếp cận nghiên cứu vấn đề
nhà nước trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước để giải quyết những vấn đề đang
đặt ra trong quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cao Anh Đô trong Luận án Tiến sĩ Phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở
Việt Nam, (35), bảo vệ năm 2012 đã luận giải vấn đề nguồn gốc của quyền
lực nhà nước - từ nhân dân - quyền lực công cộng, mang tính giai cấp, tính
xã hội và được tất cả các chủ thể trong xã hội phục tùng, lý giải việc cần
8
thiết phải phân công cho các cơ quan nhà nước để tránh lạm quyền, tha
hóa quyền lực.
Nguyễn Thị Thúy Vân trong “Khái niệm nhà nước pháp quyền từ
cách tiếp cận triết học”, Tạp chí Triết học, số 9 (107), 2013 đã tập trung
phân tích 4 quan điểm đặc trưng về nhà nước pháp quyền, đó là: (1) nhà
nước mà trong đó, luật pháp giữ vị trí tối thượng (thượng tôn pháp luật);
(2) nhà nước mà nhân dân là chủ thể quyền lực; (3) nhà nước tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân; (4) nhà nước hoạt động dựa trên
sự phân chia quyền lực giữa các cơ quan (nhà nước pháp quyền tư sản). Từ
sự diễn giải và phân tích trên, tác giả chỉ ra những biểu hiện của dân chủ
trong nhà nước pháp quyền, đó là: (1) sự thể hiện và thực hiện tự do trong
nhà nước pháp quyền; (2) cách thức thực hiện quyền lực của nhân dân; (3)
nội dung của pháp luật trong nhà nước pháp quyền.
Nguyễn Đức Minh trong “Mối quan hệ giữa quyền con người và nhà
nước pháp quyền trong một số học thuyết về nhà nước”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 6 (62), 2014 đã phân tích, lý giải và khẳng định về mối
quan hệ giữa quyền con người và nhà nước pháp quyền.
Trần Thái Dương trong “Bàn về khái niệm pháp quyền, nguyên tắc
pháp quyền”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3 (22), 2017 đã phân tích,
bình luận về các khái niệm pháp quyền, nguyên tắc pháp quyền. Từ đó, tác
giả đi đến đặt vấn đề về đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong tổ
chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
theo tinh thần Đại hội XII của Đảng trên 4 phương diện.
* Về nhà nước pháp quyền Việt Nam: có rất nhiều cách tiếp cận
nghiên cứu khác nhau và rất nhiều công trình nghiên cứu của: Lê Minh
Quân, Đỗ Quang Khắc, Nguyễn Đăng Thông, Đào Ngọc Tuấn, Phạm
Ngọc Anh – Bùi Đình Phong, Trần Ngọc Đường, Mai Đình Chiến, Đào
Trí Úc, Đỗ Tiến Sâm, Hồ Xuân Quang, Trương Quốc Chính, Phạm Ngọc
Dũng, Hoàng Thị Hạnh, Đỗ Thị Thạch-Nguyễn Văn Quyết, Nguyễn Trọng
Chuẩn, Phạm Văn Đức, Trần Viết Quang-Đinh Trung Thành. Tuy nhiên,
hệ thống hóa thành 4 nhóm nội dung cấu thành nhà nước pháp quyền như
hướng nghiên cứu trong Luận án của tôi thì chưa có công trình nào đề cập.
Tuy nhiên, có nhiều công trình đã gợi mở cho tôi rất nhiều vấn đề, từ cách
9
tiếp cận, phương pháp cho đến cả nội dung vấn đề nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Cụ thể:
Hoàng Thị Hạnh trong Luận án Tiến sĩ Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, (41), bảo vệ năm 2013 đã khái quát lý luận về nhà nước pháp
quyền, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên nền tảng lý
luận đó, Luận án đã chú ý phân tích những nét đặc thù của nền kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, qua đó phân tích những ảnh hưởng của nó đến việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đào Trí Úc trong Giáo trình nhà nước pháp quyền (106), 2015 đã
trình bày những nội dung cơ bản, có hệ thống về quá trình hình thành và
phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền (phần thứ nhất), quan niệm
chung về nhà nước pháp quyền (chương III), vấn đề xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam (phần thứ tư). Trong Giáo trình này, tác giả cũng
trình bày một cách ngắn gọn lý thuyết về tự do của John Locke (trang 37-
38) trong dòng chảy lịch sử tư tưởng nhà nước pháp quyền nhân loại. Có
thể nói, những nội dung trong Giáo trình thể hiện sự công phu, bài bản, sự
dày công của tác giả trong nghiên cứu, biên soạn.
Phạm Văn Đức trong “Thực hành dân chủ ở Việt Nam – Một số
thành tựu cơ bản và yêu cầu mới đặt ra”, Tạp chí Triết học, số 4 (36), 2016
đã phân tích, đánh giá thành tựu thực hành dân chủ của 30 năm đổi mới
trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Qua đó đề ra những yêu cầu
để thực hành dân chủ ngày càng rộng rãi và hiệu quả hơn ở nước ta,
Trần Viết Quang, Đinh Trung Thành trong “Quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 4 (71), 2017 đã
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước trong các tác
phẩm kinh điển của Mác, Ăngghen và Lênin. Qua phân tích, tác giả đã
lược lại các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc, bản
chất, đặc trưng của nhà nước.
10
Chương 2
ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
CỦA JOHN LOCKE VÀ NHỮNG KIẾN GIẢI CỦA ÔNG
VỀ VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC
2.1. JOHN LOCKE VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG CỦA ÔNG
2.1.1. John Locke – cuộc đời và sự nghiệp
* John Locke (1632-1704) là một nhà triết học duy vật người Anh.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, ông được đánh giá là người có nhiều cống
hiến to lớn trong các lĩnh vực từ triết học cho đến chính trị và pháp luật.
* Tác phẩm chính của John Locke về chính trị là cuốn “Khảo luận thứ
hai về chính quyền - Chính quyền dân sự”. Trong tác phẩm này, ông đã
trình bày những nội dung căn bản về triết học chính trị của mình và những
giá trị rút ra từ tác phẩm đó đã đưa ông trở thành ông tổ của chủ nghĩa tự do
chính trị.
2.1.2. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội tác động trực tiếp đến
việc hình thành vấn đề nhà nước pháp quyền trong hệ tư tưởng của
John Locke
* Về kinh tế: Do vị trí địa lý thuận lợi, nước Anh phát triển hoạt động
kinh tế từ rất sớm. Đến cuối thế kỷ XVI, thời Nữ hoàng Elizabeth của
vương triều Tudor thì nước Anh là nước phát triển nhất châu Âu.
* Về kết cấu xã hội: từ thời kỳ đầu vương triều Tudor cho đến thời
Elizabeth thì địa vị, thân phận, đẳng cấp của mọi người được quy định dựa
trên tài sản, thành phần xuất thân, nghề nghiệp, phương thức sống... Trong
đó, tài sản, đặc biệt ruộng đất là điều kiện để tạo nên địa vị xã hội.
* Về chính trị: Cuộc Cách mạng vinh quang 1688 đã xóa bỏ hoàn toàn
chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên chế độ quân chủ lập hiến ở nước Anh,
quyền lực tối cao từ tay nhà vua giờ đây chuyển sang nghị viện - gồm
những đại biểu tư sản và quý tộc giàu có. Cuộc Cách mạng vinh quang đã
thay đổi chính thể nước Anh một cách hòa bình, đem lại tự do cho giai cấp
tư sản, quý tộc và toàn thể nhân dân Anh.
11
John Locke - chứng nhân lịch sử và là người tham gia trực tiếp vào
những biến động lớn của nước Anh thời kỳ trước và trong Cách mạng vinh
quang. Tư tưởng về nhà nước của ông trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về
chính quyền - Chính quyền dân sự” (1689) là kết quả của sự trải nghiệm
xương máu của ông và là chân lý đúc rút từ những quy luật của lịch sử.
2.1.3. Tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng của John Locke
về vấn đề nhà nước pháp quyền
* Thời cổ đại: Với tư cách là những giá trị làm cơ sở cho việc giải
thích nguồn gốc và các loại hình nhà nước thời cổ đại, phải kể đến những
đóng góp của Herodotus (Hê-rô-đốt), Socrates, Platon, Aristote đến
Ciceron.
* Thời Trung cổ: nổi lên tư tưởng chủ yếu của hai vị Thánh -
Augustine và Thomas d’Aquinas.
* Thời Phục hưng: tư tưởng của Machiavelli với “Quân vương” và
Hobbes với “Leviathan” (Thủy quái).
2.2. TRIẾT HỌC JOHN LOCKE VÀ NHỮNG KIẾN GIẢI CỦA ÔNG
VỀ NGUỒN GỐC, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC
2.2.1. Về nhận thức luận
Trong lĩnh vực nhận thức luận, Locke được xem là người đặt nền
tảng cho thuyết duy nghiệm Anh với quan niệm nổi tiếng về “tabula rasa”
và cấu trúc của kinh nghiệm và quá trình nhận thức.
Locke cho rằng: “Khi sinh ra, tinh thần con người chính là một tờ
giấy trắng (hay “tabula rasa”) và chỉ có thể sở đắc được nhận thức cơ bản
về thế giới thông qua các giác quan” [15, tr.64].
Theo tinh thần nguyên lý “tabula rasa” thì nhận thức của con người
không phải bẩm sinh mà là một quá trình, quá trình đó theo Locke bắt đầu
từ kinh nghiệm. Locke khẳng định, sản phẩm của quá trình nhận thức là “ý
niệm”. “Ý niệm” theo Locke được hình thành qua 2 giai đoạn.
2.2.2. Về nguồn gốc và chức năng của nhà nước
2.2.2.1. Về trạng thái tự nhiên
Trạng thái tự nhiên, theo Locke là trạng thái ban sơ của cộng đồng
người khi chưa có nhà nước, chưa có luật pháp, mọi va chạm giữa những
con người với nhau là tự giải quyết, không có cơ quan nào phán xét cả.
12
Trạng thái tự nhiên theo Locke là “trạng thái tự do hoàn hảo”, “trạng
thái bình đẳng”, trạng thái mà trong đó mọi người đều như nhau trong việc
thực thi các quyền của mình.
Thế nhưng trong trạng thái tự nhiên cũng chứa đựng nhiều bất tiện và
mâu thuẫn. Sự hỗn loạn của trạng thái tự nhiên theo Locke còn dẫn đến
hậu quả là gây ra trạng thái chiến tranh và tình trạng nô lệ - sự tha hóa
trạng thái tự nhiên.
2.2.2.2. Về trạng thái chiến tranh và tình trạng nô lệ
Theo Locke, “Trạng thái chiến tranh là trạng thái của thù địch và
hủy diệt... không phải từ thái độ nóng giận và vội vã, mà từ sự điềm
tĩnh và chuẩn bị chín chắn” [38, tr.49].
Dấu hiệu nhận ra trạng thái chiến tranh là khi ai đó sử dụng vũ lực
và bạo lực để làm mất đi tự do của người khác và biến người này thành
nô lệ của anh ta.
Trong trạng thái chiến tranh, quyền tự do tự nhiên đó mất đi, một
người có thể trở thành thù địch với nhiều người khác và ngược lại.
Trong trạng thái chiến tranh, một người có thể trở thành nô lệ cho
người khác khi mắc phải một “lỗi lầm” nào đó, thất trận chẳng hạn.
2.2.2.3. Về xã hội chính trị hay (và) xã hội dân sự
Là trạng thái xã hội đối lập với trạng thái tự nhiên, là xã hội được
hình thành thông qua khế ước xã hội, qua đó cá nhân ủy thác quyền lực
của mình cho xã hội để thiết lập nên một chính quyền dân sự với một hệ
thống luật pháp đủ để bảo vệ mọi người trước những hạn chế, khiếm
khuyết của trạng thái tự nhiên.
2.2.2.4. Về mục đích của xã hội chính trị và của chính quyền
Locke khẳng định: “mục đích cao quý và chủ yếu trong việc hợp
nhất của con người thành cộng đồng quốc gia và đặt chính họ dưới một
chính quyền, là sự bảo toàn đối với sở hữu của họ” [38, tr.174].
13
Chương 3
VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
TRONG TƯ TƯỞNG CỦA JOHN LOCKE
3.1. QUAN NIỆM VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Cho đến nay, có thể khẳng định rằng, xét ở hình thức cai trị thì nhà
nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước hợp lý, hiệu quả nhất từ
trước đến nay, là mô hình tổ chức nhà nước tiến bộ nhất trong lịch sử. So
với lịch sử lâu dài của hình thức nhà nước thần quyền và vương quyền, mô
hình nhà nước pháp quyền xuất hiện chỉ hơn 200 năm. Hiện nay, trên thế
giới chưa nhiều nước tổ chức theo mô hình nhà nước pháp quyền, nhưng
xét về xu thế dân chủ đang được rộng mở, thế giới đang phấn đấu cho một
nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước gắn liền với nền dân chủ, là nhà
nước hoạt động dựa trên quyền lực của nhân dân, hướng đến bảo vệ các
quyền của công dân dựa trên nền tảng hệ thống pháp luật của nhà nước.
Với mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nước ta thì
dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Với mô hình nhà nước pháp quyền tư sản ở nhiều nước thì dựa trên
nền tảng lý luận của nhiều học giả tư sản, trong đó, John Locke là người có
nhiều ảnh hưởng quan trọng đến hệ thống lý luận về nhà nước pháp quyền
tư sản.
Trong quá trình tìm kiếm, thể nghiệm mô hình, con đường xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nước ta, thì ngoài việc dựa trên nền
tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta
còn phải biết kế thừa có chọn lọc những điểm tiến bộ, hợp lý của tư tưởng
pháp quyền tư sản, mà John Locke là một trong những đại biểu.
3.2. NỘI DUNG VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG TƯ
TƯỞNG JOHN LOCKE
3.2.1. Tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân – nguồn gốc, bản
chất của nhà nước pháp quyền
John Locke, trong nhận thức và hành động chính trị thực tiễn của
mình bao giờ cũng tuyên bố và bảo vệ cho lý lẽ và hành động của mình:
nhân dân là trên hết, nhân dân là tối thượng.
14
Tư tưởng “quyền lực thuộc về nhân dân” là điểm đặc sắc trong quan
niệm của Locke. Nó đặc sắc ở chỗ, sau hàng mấy thế kỷ thống trị của tư
tưởng chuyên chế, đề cao vai trò thần thánh của vua, hạ thấp vai trò của
nhân dân thì Locke là người đầu tiên, với một cách nhìn tích cực đã đả phá
vào thành trì kiên cố của chủ nghĩa chuyên chế vương quyền. Từ ông, đã
mở ra một cuộc cách mạng tư tưởng, hướng đến việc khẳng định, đề cao
vai trò của nhân dân trong quan hệ với chính quyền.
* Những giá trị và hạn chế:
Tư tưởng về mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, về quyền lực
tuyệt đối của nhân dân... thể hiện tính cách mạng sâu sắc và triệt để. Nó là
cuộc đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa chuyên chế chính trị,
với các chế độ độc tài phi nhân tính, hủy hoại tự do, nhân phẩm con người.
Sau hàng ngàn năm mất tự do trong “đêm trường Trung cổ”, những tư
tưởng cách mạng triệt để của Locke là nguồn “trợ lực” to lớn để nhân dân
các nước đứng lên làm cách mạng xóa bỏ “gông xiềng” của Giáo hội Ki-tô
và các nền quân chủ chuyên chế thối nát đang trói buộc con người.
Tư tưởng “quyền lực thuộc về nhân dân” của Locke là một đóng góp
quan trọng cho lịch sử tư tưởng nhân loại, nhưng do không xuất phát từ
góc độ kinh tế về nguồn gốc của nhà nước và giới hạn bởi lập trường giai
cấp, nên khái niệm “nhân dân” mà Locke nêu ra còn mang tính trừu tượng,
chung chung, không phản ánh được nội hàm của nó là những người trực
tiếp lao động sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, là người đại
diện cho lực lượng sản xuất của thời đại. Quan niệm nhân dân với nghĩa
gồm giai cấp những người lao động trong lý luận Mác - Lênin mới khắc
phục được hạn chế trong quan niệm về nhân dân của Locke và nhiều nhà
tư tưởng tư sản sau ông.
3.2.2. Tư tưởng về tính thượng tôn của pháp luật – nguyên tắc
pháp quyền của nhà nước
Theo Locke, mục đích của luật pháp không phải là thủ tiêu hay kiềm
tỏa tự do, mà là để bảo toàn và khuyếch trương nó, ông kết luận: “nơi nào
không có luật pháp, nơi đó không có tự do” [38, tr.93], “Không một ai trong
xã hội dân sự có thể được miễn trừ trước luật pháp của nó” [38, tr.136].
15
* Những giá trị và hạn chế:
Tư tưởng thượng tôn pháp luật của John Locke đã thể hiện tính cách
mạng và triệt để trong việc đề xuất một thể chế có tính bắt buộc chung
nhằm bảo vệ sở hữu, nhân phẩm, tự do của con người. Bên cạnh đó, với
cách nhìn của một con người có tâm hồn trong sáng, thánh thiện, yêu
thương con người, John Locke đã hướng đến sự công bằng và tình thương
khi làm luật – xem đây là nền tảng và cơ sở hình thành pháp luật, để khi
pháp luật hình thành với tinh thần này thì nó sẽ điều chỉnh mọi công dân
bằng sự công minh và khoan dung (nếu có thể) của nó.
Đóng góp nữa của ông là ông đã đề ra nguyên tắc số đông trong xây
dựng luật, nguyên tắc công bằng trong thực hiện pháp luật, mối quan hệ
biện chứng giữa pháp luật và tự do và vẽ ra viễn cảnh tồi tệ nếu luật pháp
bị xâm phạm, chế độ chuyên chế bị khôi phục.
Hạn chế của John Locke ở đây là dù ông thấy được hạn chế khi con
người sống trong trạng thái tự nhiên, hành xử với nhau bằng luật tự nhiên
nhưng ông còn “lơ lửng” trong việc khẳng định tầm quan trọng của luật
xác thực, bởi có chỗ ông lại đề cao luật tự nhiên, có phần luyến tiếc sự
“thơ mộng”, hoang dại của luật tự nhiên. Đây có lẽ là hạn chế về mặt lịch
sử, bởi lẽ thời John Locke sống, cách mạng tư sản chưa thành công hoàn
toàn ở châu Âu, Nghị viện chưa thắng thế vương quyền và tôn giáo, nhu
cầu sử dụng luật pháp để điều chỉnh công dân và xã hội là chưa cao nên
ông đã mắc phải những hạn chế này.
3.2.3. Tư tưởng phân chia quyền lực – cơ chế thực hiện nguyên
tắc pháp quyền của nhà nước
Locke cho rằng, quyền lực nhà nước là do nhân dân nhượng cho
thông qua khế ước xã hội, quyền lực đó phải được phân chia để không
định chế chính trị nào được độc quyền, tạo nên sự “kiềm chế và cân bằng”,
tức là sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Theo
ông đó là ba quyền: lập pháp, hành pháp và liên hiệp.
16
3.2.3.1. Về cơ quan lập pháp, hành pháp và quyền liên hiệp của
cộng đồng quốc gia (phân quyền)
Cơ quan quyền lực lập pháp, theo Locke “là cơ quan vạch nên đường
hướng và sức mạnh của cộng đồng quốc gia” [38, tr.199]. Điều này thể
hiện ở việc làm ra luật và giám sát việc thực thi pháp luật do mình làm ra.
Luật do cơ quan lập pháp làm ra chỉ một lần nhưng nó được áp dụng
lâu dài, nên Locke cho rằng, nhất thiết phải có một quyền lực luôn hiện
diện để thực thi các luật đã được làm nên và sử dụng vũ lực để duy trì
chúng. Việc này phải được giao cho cơ quan hành pháp và cơ quan này
thường được tách rời khỏi cơ quan lập pháp. Quyền lực hành pháp được
thực thi từ những “luật xác thực, thường trực và đã thành tiền lệ”, đặt lên
trên tất cả mọi thành phần của xã hội.
Ngoài quyền lực lập pháp, hành pháp, Locke cho rằng mỗi cộng
đồng quốc gia còn có quyền liên hiệp. Đây là “quyền lực về chiến tranh và
hòa bình, tạo liên minh và lập đồng minh, cũng như tất cả những giao kết
khác, với mọi cá nhân và cộng đồng bên ngoài cộng đồng quốc gia” [38,
tr.201]. Theo Locke thì quyền liên hiệp phải được giao cho người thông
thái và cẩn trọng thực hiện.
3.2.3.2. Về phạm vi của cơ quan quyền lực lập pháp
Thứ nhất, cơ quan lập pháp “không phải, mà cũng không thể là
quyền lực độc đoán, chuyên chế, đặt trên cuộc sống và vận mệnh của nhân
dân” [38, tr.185].
Thứ hai, cơ quan lập pháp “không thể nắm lấy cho mình quyền lực
cai trị bằng những sắc lệnh chuyên quyền và tùy tiện, mà bị ràng buộc với
việc phân phát sự công bằng” [38, tr.188].
Thứ ba, “quyền lực tối cao đó không được lấy của bất kỳ ai bất kỳ
phần sở hữu nào mà không có sự chấp thuận của anh ta” [38, tr.199].
Thứ tư, “cơ quan lập pháp không được, mà cũng không thể chuyển
giao quyền lực làm luật vào cho bất kỳ cơ quan nào khác hoặc đặt nó vào
một nơi nào khác ngoài nơi mà nhân dân đã đặt” [38, tr.197].
17
3.2.3.3. Về đặc quyền hành động của cơ quan hành pháp
Đặc quyền hành động được Locke định nghĩa là hành động “tự do
theo chủ ý, vì lợi ích công, và không có sự quy định của luật pháp, thậm
chí đôi khi tương phản với nó” [38, tr.218].
3.2.3.4. Về sự phụ thuộc của các cơ quan quyền lực thuộc cộng
đồng quốc gia
Locke cho rằng, vì cơ quan lập pháp không hoạt động thường xuyên
và có thời hạn nhất định nên việc triệu tập và giải tán nó không thể giao
cho nó được mà phải là do cơ quan hành pháp thực hiện. Dù có quyền triệu
tập và giải tán cơ quan lập pháp nhưng không vì thế mà làm cho cơ quan
hành pháp có vị thế cao hơn cơ quan lập pháp, mà đó chỉ là “niềm tin ủy
thác” của nhân dân đặt vào nó vì sự an toàn của nhân dân.
* Những giá trị và hạn chế:
Tư tưởng “phân quyền không triệt để” của Locke với yêu cầu cơ
quan lập pháp và hành pháp phải phụ thuộc nhau, phải “phối hợp” với
nhau trong việc đề ra và thực thi luật pháp... đã đem lại những giá trị nhất
định, tạo nên sự “mềm dẻo”, “linh hoạt” trong việc vận dụng vào thực tế ở
nhiều quốc gia. Tư tưởng này về sau được Montesquieu nâng lên thành
“tam quyền phân lập” một cách triệt để. Trong thực tế, phân quyền tuyệt
đối chỉ được thực hiện ở một ít quốc gia, như Mỹ; còn phân quyền tương
đối thì được nhiều quốc gia vận dụng, như Nga, Pháp, Đức, Anh,... Như
vậy, tư tưởng phân quyền của Locke cũng có nhiều điểm hợp lý. Ngay như
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng có thể vận dụng sự “phân
công, phối hợp, kiểm soát” theo tư tưởng của Locke để vận hành bộ máy
nhà nước của mình.
Bên cạnh tư tưởng phân quyền, Locke cũng phác họa những nét
chấm phá cơ bản về phương thức tổ chức và hoạt động của cơ quan lập
pháp và hành pháp. Tư tưởng này đã hàm chứa những nội dung hết sức sâu
18
sắc, hợp lý như: cơ quan lập pháp phải ban hành luật và quản lý xã hội
phải bằng luật, cơ quan lập pháp và hành pháp phải giao cho hai chủ thể
khác nhau nắm giữ để chế ước quyền lực lẫn nhau, tránh lạm quyền... Tất
cả nhằm hướng đến việc xây dựng một bộ máy nhà nước hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả, phục vụ và bảo vệ tối đa lợi ích của nhân dân.
3.2.4. Tư tưởng về các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của
con người
3.2.4.1. Nguồn gốc các quyền
Tự nhiên đem lại quyền lực gia trưởng cho cha mẹ; sự thỏa thuận tự
nguyện đem lại quyền lực chính trị cho nhà cai trị; còn sự tước đoạt thì
đem lại quyền lực bạo chính cho những chúa tể.
3.2.4.2. Các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của con người
Cùng với việc khẳng định quyền bình đẳng tuyệt đối và quyền tự
do là những quyền thiên bẩm của con người, Locke còn khẳng định và
đề cao quyền sở hữu của con người như là một quyền tự nhiên bất khả
xâm phạm.
* Những giá trị và hạn chế:
Tư tưởng về các quyền tự do thiêng liêng bất khả xâm phạm của con
người có nhiều yếu tố hợp lý và nhân văn, ở chỗ, như Locke khẳng định:
con người vốn có chung một nguồn gốc, xuất phát điểm đều ngang hàng
như nhau nên không ai có thể đứng trên người khác để sai khiến họ làm
theo ý mình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_van_de_nha_nuoc_phap_quyen_trong_tu_tuong_jo.pdf