Tóm tắt Luận văn Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang ở miền nam từ năm 1961 đến năm 1965

Ngày 4/7/1959, Quốc hội Diệm lại thông qua luật số 21 cho phép

Diệm dùng máy chém giết hại nhân dân miền Nam. Chúng đưa máy chém đi

khắp nơi, gây nên các vụ giết người man rợ. Bất kỳ ai được chúng gọi là

Việt cộng hoặc “chứa chấp” Việt cộng đều bị buộc tội, “nhà nào chứa chấp

cộng sản thì bị chặt đầu hết cả nhà”. Chúng giở sổ theo dõi của mật vụ, moi

móc đủ mọi chuyện lớn nhỏ của đồng bào từ trước tới nay: ai đã biểu tình, ai

xin miễn dịch, ai phản đối trưng cầu dân ý, ai chưa dứt khoát với cộng sản.

Hàng loạt người bị bắt, bị giết, bị tù đày. Đây là thời kỳ đen tối nhất của

phong trào cách mạng miền Nam. Máy chém đã trở thành biểu tượng của

chế độ phát xít Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên

pdf35 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 623 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang ở miền nam từ năm 1961 đến năm 1965, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấp trung ương. Giúp việc cho uỷ ban này có các Ban Tuyên huấn, Học tập kiểm thảo, khai thác ... Ở cấp tỉnh có Uỷ ban tố cộng tỉnh. Mỗi bộ lại có một uỷ ban chỉ đạo theo ngành dọc xuống các cơ quan trực thuộc bộ mình. Huyện, xã có Uỷ ban 13 chỉ đạo tố cộng của huyện, xã. Thậm chí, liên gia cũng có bộ phận làm công tác tố cộng cấp liên gia. Tố cộng giai đoạn 1 của địch được tiến hành qua ba đợt. Đợt 1: từ ngày 15/5 đến cuối tháng 8/1955, trọng điểm là các tỉnh miền Trung. Đợt 2: từ tháng 9 đến tháng 11/1955, trọng điểm là nội bộ cơ quan ngụy quyền. Đợt 3 từ tháng 11/1955 đến tháng 5/1956, làm rộng rãi ở các tỉnh [4, tr.32]. Đầu tiên, địch thực hiện phân loại dân, chia dân ra làm 3 loại để đánh phá với phương châm dựa vào loại C (loại không liên quan đến cách mạng), đánh vào loại A (công dân bất hợp pháp gồm cán bộ, đảng viên, người kháng chiến cũ), làm cho loại B (công dân nửa hợp pháp - gia đình có người đi tập kết, liên quan đến kháng chiến cũ) khiếp sợ và khuất phục. Sau đó từng bước thực hiện [21, Tr.299]. Mở màn chiến dịch tố cộng, địch thực hiện một kế hoạch tuyên truyền quy mô chưa từng thấy trên tất cả các phương tiện từ báo chí, truyền thanh đến cả trường học ... nhằm nói xấu Đảng cộng sản, tô vẽ cho bộ mặt chính quyền tay sai. Tiếp theo đó, chúng kết hợp quân ngụy với bộ máy kìm kẹp ở cơ sở gồm bọn chỉ điểm, mật vụ, công an, những người phản bội cách mạng... sục sạo vào xã, ấp nhận mặt từng người. Để khống chế đàn áp quần chúng, địch dùng mọi biện pháp thâm độc như: tổ chức xé cờ ly khai Đảng, buộc vợ có chồng đi tập kết hoặc thoát ly phải bỏ chồng, cha mẹ có con tham gia cách mạng phải từ con. Cùng với biện pháp khống chế tù đày, địch còn kết hợp với biện pháp o ép, mua chuộc, lừa mị đánh vào tâm lý, tình cảm và kinh tế, buộc quần chúng phát hiện cán bộ, đảng viên. Kết thúc giai đoạn 1 tố cộng, Mỹ - Diệm đạt được một phần ý đồ của chúng là gây hoang mang, lo sợ trong dân chúng, tạo nên mối nghi ngờ về lòng tin của nhân dân với cách mạng. Các chiến dịch tố cộng, diệt cộng ác liệt của Mỹ - Diệm đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động, mất lòng tin, không giữ vững được khí tiết người cộng sản, đã ra đầu hàng, tự thú với địch. 14 Sau thành công bước đầu của giai đoạn 1, từ giữa năm 1956, Mỹ - Diệm triển khai tiếp giai đoạn 2, trọng điểm là các tỉnh Nam Bộ, đồng thời Ngô Đình Diệm ngang nhiên tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ, không hiệp thương với miền Bắc, không tổng tuyển cử. Từ đây, Mỹ - Diệm tăng cường đánh phá với quy mô lớn và rất tàn bạo đối với nhân dân miền Nam. Chúng công khai đưa vào Hiến pháp những điều khoản phủ nhận chủ nghĩa cộng sản, “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”. Những kinh nghiệm của tố cộng giai đoạn một được Mỹ - Diệm tận dụng triệt để trong giai đoạn 2. Tất cả những điểm trên làm cho tố cộng, diệt cộng giai đoạn 2 của Mỹ - Diệm trở nên rất khốc liệt. Bắt đầu từ ngày 24/6/1956 đến ngày 24/2/1957 địch sử dụng 2 sư đoàn bộ binh (sư 11 và sư 13), 6 trung đoàn độc lập, 4 hải đoàn xung phong kết hợp với các đoàn tố cộng và bộ máy kìm kẹp ở cơ sở mở cuộc hành quân mang tên Thoại Ngọc Hầu càn quét, đánh phá các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Mục tiêu cuộc hành quân này là tiêu diệt cơ sở cách mạng, thanh toán LLVT của ta và tàn quân của Hoà Hảo, củng cố, phát triển chính quyền ngụy. Đồng thời, từ ngày 10/7/1956 đến ngày 24/2/1957, chúng mở cuộc hành quân Trương Tấn Bửu, càn quét các tỉnh miền Đông Nam Bộ (Kể cả Sài Gòn, chợ Lớn) nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng và tàn quân Bình Xuyên, Cao Đài, kiểm soát chặt chẽ vùng biên giới, tái lập an ninh nông thôn, hỗ trợ cho các đoàn tố cộng, thực hiện chiến dịch tố cộng, diệt cộng ở vùng này [4, tr.34]. Từ ngày 1/10/1957 đến tháng 12/1957, Mỹ - Diệm lại mở tiếp cuộc hành quân mùa Thu, đánh vào miền Tây Nam Bộ lần thứ 2 nhằm củng cố kết quả tố cộng ở đây và ngăn trở hoạt động của ta, bảo vệ vựa lúa của chúng ở đồng bằng Sông Cửu Long. Với thủ đoạn đánh phá vô cùng thâm hiểm như chà đi, xát lại nhiều lần, phân vùng, chia ô để đánh, đánh cả ngày lẫn đêm, dùng biệt kích, thám báo, chụp bắt bất ngờ cơ sở ta; sử dụng bọn đầu hàng, tự thú chỉ điểm, dùng hình 15 thức chiến tranh tâm lý để khủng bố, uy hiếp, lung lạc tinh thần cản bộ nhân dân ... địch đã gây cho ta những tổn thất nặng nề. Đi đôi với tố cộng, diệt cộng, Mỹ - Diệm còn ban hành hai chính sách “cải tiến nông thôn” và “lập khu trù mật”, “khu dinh điền” nhằm khống chế nông dân, kiểm soát nông thôn, bổ sung cho “chiến lược tố cộng”. Chương trình cải tiến nông thôn được tiến hành trên cơ sở lấy “cải cách điền địa” làm khâu trung tâm để mua chuộc, lừa phỉnh, lôi kéo nông dân nhằm làm suy yếu phong trào cách mạng ở nông thôn. Bằng chương trình cải cách điền địa, chính quyền Ngô Đình Diệm đã cướp không ruộng đất của nông dân, phát triển chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, duy trì phương thức bóc lột phong kiến nhằm xoá bỏ ảnh hưởng của cách mạng ở nông thôn, bần cùng hoá lực lượng đồng minh của giai cấp công nhân trong cách mạng dân tộc dân chủ. Cùng với việc thực hiện Chương trình cải cách điền địa, tháng 4/1957 Mỹ - Diệm cho ra đời cái gọi là “Chính sách tái định cư và cứu tế dân di cư”, bằng việc xây dựng các khu dinh điền. Núp dưới danh nghĩa là một tổ chức sản xuất nông nghiệp để giải quyết đời sống cho dân nghèo, đặc biệt là dân di cư từ miền Bắc vào. Các dinh điền được thiết lập trên các cao nguyên hẻo lánh và xung yếu dọc biên giới nhằm mục tiêu chủ yếu là xây dựng tuyến ngăn chặn từ xa, từng bước bao vây, cô lập cách mạng. Chính Diệm - Nhu đã xác định: “Khu dinh điền là biện pháp xẻ đường đưa dân vào chiến khu, mật khu Việt cộng, dùng dân đề đẩy cộng sản ra khỏi vùng đó và dinh điền là nơi cung cấp tin tình báo, nơi xuất phát để hành quân ngăn chặn xâm nhập”[1, tr.67]. Ngay cả Trưởng phái đoàn viện trợ kinh tế Mỹ thì tuyên bố: “Phải làm cho các khu dinh điền trở thành những cứ điểm bao vây bọn Việt cộng. Với ý đồ như vậy, Mỹ - Diệm tổ chức bộ máy chỉ đạo để thực hiện chương trình này rất chặt chẽ và thống nhất từ trung ương tới địa phương. Với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, sau gần 2 năm thực hiện (từ 4/1957 đền đầu năm 1959) trên toàn miền Nam, Mỹ - Diệm đã dồn được 16 128.374 người, trong đó có 90.436 người là dân di cư từ miền Bắc vào 84 khu dinh điền, khai phá 12.322 ha đất canh tác. Riêng Nam Bộ, chúng xây dựng được 7 khu gồm 47 điểm ở Phước Long, Kiến Phong, Kiến Tường, có cả những khu dành cho các gia đình binh sĩ ngụy ở dọc biên giới huyện Mộc Hoá (Long An), Tân Uyên ... [4, tr.40]. Phần lớn dân chúng bị dồn ép, cưỡng bức vào các khu dinh điền, không chịu nổi cuộc sống khắc nghiệt, bị o ép mọi bề ở nơi rừng thiêng, nước độc này nên cuối năm 1958, số bỏ trốn ngày càng tăng. Sau hàng loạt các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, các chương trình cải cách điền địa, lập khu trù mật, khu dinh điền ... chính quyền Mỹ - Diệm đã làm cho cách mạng miền Nam tổn thất nặng nề. Để tiến lên tiêu diệt hoàn toàn cách mạng miền Nam, Mỹ - Diệm tiếp tục thi hành thêm nhiều chính sách khốc liệt hơn. Tháng 4/1959, Quốc hội Diệm thông qua đạo luật 91, được Diệm ban hành ngày 6/5/1959 mang tên “Luật 10/59” về thành lập các toà án quân sự đặc biệt để xử những người cộng sản. Theo luật 10/59, tội xử chỉ có 2 mức: tử hình và khổ sai, kéo dài 3 ngày là tối đa, không có giảm khinh, không có kháng án. Thực chất của luật 10/59 là đánh vào tất cả các lực lượng cách mạng và nhân dân miền Nam. Ngày 4/7/1959, Quốc hội Diệm lại thông qua luật số 21 cho phép Diệm dùng máy chém giết hại nhân dân miền Nam. Chúng đưa máy chém đi khắp nơi, gây nên các vụ giết người man rợ. Bất kỳ ai được chúng gọi là Việt cộng hoặc “chứa chấp” Việt cộng đều bị buộc tội, “nhà nào chứa chấp cộng sản thì bị chặt đầu hết cả nhà”. Chúng giở sổ theo dõi của mật vụ, moi móc đủ mọi chuyện lớn nhỏ của đồng bào từ trước tới nay: ai đã biểu tình, ai xin miễn dịch, ai phản đối trưng cầu dân ý, ai chưa dứt khoát với cộng sản... Hàng loạt người bị bắt, bị giết, bị tù đày. Đây là thời kỳ đen tối nhất của phong trào cách mạng miền Nam. Máy chém đã trở thành biểu tượng của chế độ phát xít Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên. Như vậy, trong vài năm đầu sau Hiệp định Giơnevơ, trong khi toàn Đảng, toàn dân ta cố gắng thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản được ký kết trong 17 Hiệp định Giơnevơ thì Mỹ - Diệm lại ra sức phá hoại Hiệp định và triệt phá cách mạng. Chính vì thế, lực lượng cách mạng của ta bị tổn thất nặng nề. Khi Liên tỉnh uỷ miền Trung bắt đầu chuyển hướng đấu tranh chính trị, ta bố trí lại 12.000 đảng viên, cuối giai đoạn 1 tố cộng mất 6.000, đến cuối năm 1959 chỉ còn lại 2.000 đồng chí. Ở Mỹ Tho sau tháng 07/1959 có 90 chi bộ bám đều khắp với 3.00 đảng viên đến cuối năm 1959 chỉ còn lại 8 chi bộ, các tổ chức thanh niên lao động nòng cốt bị địch đánh tan rã gần hết. Bến Tre, sau ngày 20/7/1954 có chi bộ đều khắp các xã hơn 2.000 đảng viên, cuối năm 1959 chỉ còn 18 chi bộ với 162 đảng viên trong 115 xã [21, tr.326]. Trước tình hình như vậy, yêu cầu về sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng đối với cách mạng miền Nam ngày càng trở nên cấp thiết. 1.2 Tình hình cách mạng miền Nam giai đoạn 1954 - 1961 Hiệp định Giơnevơ được ký kết đã đưa cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi tình hình miền Nam lại có rất nhiều biến động. Trước sự chuyển biến của tình hình, từ ngày 5 đến ngày 7/9/1954, BCT đã họp và ra nghị quyết: “Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”. Trên cơ sở phân tích những đặc điểm và tình hình mới của cách mạng Việt Nam, BCT đề ra nhiệm vụ của cách mạng nước ta là: “Đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến... để củng cố hoà bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng. Quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, đặng củng cố hoà bình thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc [16, tr.15]. Đối với miền Nam, BCT xác định nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn hiện tại là: “Lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hộ i họp, tự do tổ chức, tự do đi lại...), cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những 18 hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta” [16, tr.308]. BCT cũng chỉ rõ phương châm của ta lúc này là: “Tranh thủ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp công tác hợp pháp với công tác không hợp pháp. Đối với các tổ chức quần chúng và tổ chức đảng thì cố tranh thủ cho được tồn tại hợp pháp và hoạt động hợp pháp. Hình thức đấu tranh kịch liệt (như khởi nghĩa và chiến tranh du kích) cần đình chỉ ngay; những hình thức như biểu tình, đình công, bãi khoá, bãi thị... cũng cần sử dụng một cách thận trọng và phải tiến hành trên nguyên tắc có lý, có lợi, có mức, đừng để bọn phản động khiêu khích và tạo cơ hội cho bọn thực dân Pháp phá hoại đình chiến và ngụy quyền khủng bố [16, tr310]. Trước yêu cầu phát triển mau lẹ của tình hình. Nghị quyết BCT tháng 9/1954 đã kịp thời chỉ ra phương hướng hành động cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta nói chung, ở miền Nam nói riêng. Điều này đã thể hiện quyết tâm của toàn thể dân tộc ta trong cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Và phương châm thực hiện đấu tranh chính trị là phương châm chủ đạo trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngày 15/9/1955, TW Đảng nhận định: “Đông Dương nằm trong khu vực căng thẳng do chính sách gây chiến của đế quốc Mỹ - Diệm đương ráo riết hoạt động ở miền Nam ... Do đó, phương châm đấu tranh ở miền Nam phải giữ gìn lực lượng, không làm hao phí lực lượng không đem phong trào nhân dân miền Nam ra xung phong một cách đơn độc. Mỗi cuộc đấu tranh phải kết hợp với việc giữ vững và củng cố cơ sở tổ chức. Có như vậy mới đúng tính chất trường kỳ đấu tranh”. [17, tr.609]. Dưới ánh sáng của đường lối cách mạng, nhân dân ta ở miền Nam đã đẩy mạnh đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ và hoà bình, đòi đối phương thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Mở đầu cho phong trào đấu tranh này là những cuộc mít tinh, biểu tình có tính chất biểu dương lực lượng rầm rộ nổ ra ở 19 khắp nơi trên toàn miền Nam. Phong trào đã thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp trí thức yêu nước và tiến bộ. Bên cạnh đó, đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động thuộc các cơ sở sản xuất, các đoàn thể tiến bộ, các tổ chức quần chúng ... cũng tham gia phong trào. Tuy nhiên, thực tiễn 2 năm đấu tranh chính trị, chứng tỏ với “chế độ độc tài phát xít của tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ phản động nhất” mà Mỹ dựng lên ở miền Nam thì đấu tranh bằng phương pháp hoà bình là không có hiệu quả. Trước chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm, cách mạng miền Nam đã gặp rất nhiều khó khăn: nhiều gia đình bị ly tán, cơ sở cách mạng tan rã, cán bộ, đảng viên bị bắt giết, tù đày. Số người bị tình nghi cán bộ, đảng viên, có cảm tình với cách mạng bị giam lên đến hàng vạn. Điều này đòi hỏi Đảng phải kịp thời chuyển hướng đấu tranh tìm ra phương pháp và hình thức thích hợp, nhằm gìn giữ và phát triển lực lượng để khi có thời cơ kịp thời phát động quần chúng đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân. Trước yêu cầu đó, tháng 6/1956, BCT họp và ra nghị quyết về tình hình nhiệm vụ và công tác miền Nam Bộ Chính trị khẳng đinh: Tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp nên cuộc đấu tranh của người dân ta ở miền Nam nhất định phải kéo dài và có nhiều khó khăn gian khổ. Bởi vậy chúng ta phải chọn: “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống Diệm” [18, tr.225]. BCT chủ trương: “Cần củng cố lực lượng vũ trang, bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển LLVT. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết” [18, Tr.228]. Nghị quyết BCT tháng 6/1956 đã thể hiện sự thay đổi trong đường lối chỉ đạo cách mạng ở miền Nam. Nghị quyết đã chỉ ra những vấn đề cơ bản 20 của cách mạng miền Nam như vấn đề vũ trang tự vệ để bảo vệ phong trào đấu tranh của quần chúng, bảo vệ cơ sở và cán bộ, vấn đề xây dựng LLVT và căn cứ địa cách mạng, vấn đề xây dựng Đảng và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ - Diệm. Vấn đề đấu tranh vũ trang lại tiếp tục được đề cập tới trong bản “Đề cương Đường lối cách mạng miền Nam” do đồng chí Lê Duẩn - Uỷ viên Bộ chính trị soạn thảo vào tháng 8/1956. “Đường lối cách mạng miền Nam” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chỉ đạo cách mạng miền Nam. Tài liệu này cùng với các Nghị quyết của TW và BCT đã chỉ đạo cách mạng miền Nam cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh. Trên thực tế, các cấp uỷ đảng Nam Bộ, Khu V bắt đầu chú trọng xây dựng, phát triển LLVT tuyên truyền, vũ trang tự vệ, xây dựng căn cứ để yểm trợ cho đấu tranh chính trị chống tố cộng, diệt cộng. Nhân dân miền Nam đã khéo kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với vũ trang trong những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, đường lối chung của Đảng vẫn là tập trung mạnh vào đấu tranh chính trị, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, đấu tranh vũ trang chỉ được sử dụng trong những trường hợp thật cần thiết với mục đích hỗ trợ cho đấu tranh chính trị. Nắm được chủ trương, đường lối của ta, Mỹ - Diệm ra sức đánh phá cách mạng. Địch dùng bạo lực phát xít đánh thẳng vào lực lượng cách mạng, vào phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Vì thế, phong trào cách mạng của quần chúng gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Thế cách mạng ở thị xã, thị trấn yếu dần, tại nông thôn tình hình đấu tranh chống địch bị giảm sút, nhiều cơ sở cách mạng bị tan rã và bị thiệt hại nặng, quần chúng bị kìm kẹp gắt gao, có chỗ gượng lại được nhưng không bằng cũ. Theo thống kê, chỉ hai năm sau Hiệp định Giơnevơ, Đảng bộ Nam Bộ bị tổn thất nặng: 1 phó bí thư Xứ uỷ, 18 tỉnh uỷ viên, 100 huyện uỷ viên bị bắt hoặc bị giết. Trong vòng 4 năm (1955 - 1958), trên 9/10 cán bộ, đảng viên ở miền Nam bị giết hại. Riêng Nam Bộ chỉ còn 5 ngàn đảng viên trên tổng số 60 21 ngàn (chỉ còn trên 8%). Tỉnh uỷ Gia Định sau nhiều lần “lột xác”, đến cuối năm 1959, không còn một tỉnh uỷ viên nào. Tỉnh uỷ Kiến Tường đến giữa năm 1959 chỉ còn lại 1 chi bộ, với 3 đảng viên trên địa bàn 21 xã. Một số địa phương như Gò Công, Chợ Giao, Châu Thành, Mỹ Tho gần như vùng trắng. Khu uỷ Sài Gòn, chợ Lớn đến đầu năm 1960, chỉ còn khoảng 200 đảng viên và quần chúng nòng cốt. Khu uỷ chỉ còn 2 đồng chí Võ Văn Kiệt và Huỳnh Tấn Phát, buộc phải đứng ngoài căn cứ để tiếp tục chỉ đạo phong trào [38, tr. 21]. Như vậy, trước sự khủng bố, đàn áp dã man của chính quyền Mỹ - Diệm, cách mạng miền Nam Việt Nam đã bị tổn thất nặng nề. Đây được coi là thời kỳ “đen tối” nhất của phong trào cách mạng miền Nam. Cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân chống Mỹ - Diệm đòi hỏi cấp bách phải có sự chuyển hướng chiến lược đấu tranh mới có thể thống nhất nước nhà được. Trước tình thế nóng bỏng của cách mạng miền Nam, tháng 1/1959, Ban chấp hành TW Đảng quyết định triệu tập Hội nghị lần thứ 15 (khoá II) mở rộng tại Hà Nội, do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Trên cơ sở phân tích khoa học về đặc điểm, tính chất, mâu thuẫn hiện nay của cách mạng miền Nam, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 nhận định: “Cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm 2 nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”. Đồng thời, Nghị quyết cũng xác định phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là “Khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng, con đường đó 22 là: lấy sức mạnh quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với LLVT để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân. Hội nghị TW cũng nêu rõ, đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phải không ngừng xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, tiến từ hình thức thấp đến hình thức cao và cuối cùng nắm lấy thời cơ thuận lợi ở trong nước và thế giới mà phát động quần chúng khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm. TW Đảng dự kiến “cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành một cuộc đấu tranh trường kỳ...” Đảng ta phải thấy trước khả năng ấy để chuẩn bị chu đáo và chủ động đối phó trong mọi tình thế. Nghị quyết hội nghị lần thứ 15 của TW Đảng có ý nghĩa lịch sử to lớn, cắm cột mốc quan trọng mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, làm xoay chuyển tình thế, cứu lấy phong trào trong cơn nguy biến nhất. Nó đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam lúc bấy giờ; đáp ứng nguyện vọng thiết tha và nóng bỏng của cán bộ, đảng viên và quần chúng vùng dậy phá tan xiềng xích nô lệ, từng bước giành quyền làm chủ, tạo nên sự chuyển biến căn bản của phong trào cách mạng miền Nam. Tuy nhiên, so với thực tiễn tình hình miền Nam trong 4 năm (1955 - 1958), cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn, tổn thất, đứng trước những tình huống hiểm nghèo thì Nghị quyết 15 ra đời chậm, chủ trương đấu tranh còn dè dặt và như trong tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã nêu: “Chỉ đạo chiến lược có sai lầm nghiêm trọng là không kịp thời chuyển hướng đấu tranh thích hợp với tình hình phát triển mới nên gây khó khăn tổn thất cho phong trào cách mạng” [3, Tr.107]. Để giữ vững cơ sở cách mạng, phát triển phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam không có cách nào khác là phải tiến hành chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Nhân dân miền Nam không thể tiếp tục đấu tranh chính trị như trước được nữa. Nghị quyết 15 của TW đã đáp ứng phần nào nguyện vọng tha thiết đó của phong trào cách mạng miền Nam. Tuy nhiên sự chuyển hướng này mới chỉ 23 là bước đầu. Đấu tranh vũ trang vẫn chỉ là phương thức hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, chưa thực sự là “phương án” cần thiết cho cách mạng miền Nam. Vì “Nhiệm vụ căn bản trước mắt ở miền Nam hiện nay vẫn phải giữ vững và phát triển phong trào, hình thức đấu tranh căn bản để đánh bại chính sách khủng bố tàn bạo của địch vẫn là hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng rộng rãi” [24, Tr.184] và “Căn cứ tình hình trong nước và ngoài nước hiện nay, miền Nam chưa đến thời kỳ trực tiếp cách mạng. Công tác căn bản của chúng ta vẫn là giữ vững cơ sở Đảng, lãnh đạo phát triển phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, xây dựng thực lực chính trị để chuẩn bị thời cơ. Nhiệm vụ chủ yếu của các LLVT là tự vệ, tuyên truyền, trừ gian tức là phục vụ nhiệm vụ chính trị, giành thắng lợi chính trị, chưa phải là giành thắng lợi quân sự và đánh đổ ngay chính quyền địch” [24, Tr.185]. Tóm lại, trong suốt thời gian từ sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết năm 1954 tới năm 1960, phong trào cách mạng miền Nam được tiến hành dưới hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu. Chủ trương, đường lối của TW luôn tập trung vào phương pháp đấu tranh hoà bình nhằm đòi chính quyền Mỹ - Diệm thực hiện các điều khoản được ký kết trong Hiệp định. Tuy nhiên, với mục đích, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, tiến lên ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương, Mỹ - Diệm đã ngang nhiên phá hoại Hiệp định. Chúng thi hành hàng loạt những biện pháp dã man “tố cộng, diệt cộng”, Luật 10/59... đẩy phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam vào tình thế khó khăn, tổn thất nặng nề. Trước sự khủng bố, đàn áp của địch, phong trào đấu tranh chính trị không thể tiếp tục được duy trì và có hiệu quả. Nhiều cơ sở cách mạng bị phá vỡ, hàng ngàn đảng viên, cán bộ bị bắt giữ, giết hại. Nhiều nơi đã tiến hành đấu tranh vũ trang, nhưng không dám vượt qua đường lối, chủ trương chung của Đảng. Tình thế cách mạng miền Nam tới năm 1960, đòi hỏi phải có sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, phải tiến hành đấu tranh vũ trang chống lại những trận càn quét của kẻ thù. Đặc biệt là khi Mỹ đẩy mạnh hơn nữa quy mô và tốc độ 24 chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Trong bối cảnh đó TW Đảng đã từng bước tiến hành chuyển hướng đường lối chiến lược. Quá trình chuyển hướng đó được bắt đầu từ năm 1961, được hoàn thiện vào năm 1963, chính thức thực hiện chiến tranh chiến đấu với quân đội Mỹ. 25 Ch-¬ng 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VÀ ĐẤU TRANH VŨ TRANG Ở MIỀN NAM (1961 - 1965) 2.1 Chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ Phong trào Đồng khởi năm 1960 của nhân dân ta ở miền Nam đã đánh sập bộ máy cai trị của chế độ Diệm ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, khu V, Tây Nguyên, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà Mỹ - Diệm đã dày công xây dựng từ năm 1955 đến năm 1959, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang thời kỳ phát triển mới. Cũng trong thời điểm này, chiến lược quân sự toàn cầu “Trả đũa ồ ạt”, cùng với những chính sách và các phương pháp thực hiện chiến lược đó được triển khai từ năm 1953 qua 2 nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ đã không mang lại kết quả như tính toán ban đầu của Mỹ. Mỹ không ngăn chặn được sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Trung Quốc và Liên Xô. Lên thay Ai-xen-hao làm Tổng thống nước Mỹ trong lúc chính sách đối ngoại của Mỹ đang đứng trước những thách thức lớn lao, Ken-nơ-đi và chính quyền Mỹ, trên cơ sở đánh giá lại toàn bộ tình hình thế giới và trong nước, đã chấp nhận phương hướng chiến lược quân sự toàn cầu mới do M.Taylơ đề xướng, mang tên “phản ứng linh hoạt”. Thực hiện chiến lược mới này, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfv_l2_01835_2104_2003124.pdf
Tài liệu liên quan