Về khả năng tiếp cận, người bệnh ở cơ sở KCB tuyến huyện có tỷ lệ
nhận xét tiếp cận dễ dàng cao nhất (71,6%), sau đó là bệnh viện tỉnh (70,5%)
và thấp nhất là bệnh viện tuyến trung ương (62,9%). Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với P<0,001. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế do phân
bố về vị trí địa lý nên khả năng tiếp cận của người bệnh đến bệnh viện trung
ương sẽ có hạn chế hơn bệnh viện tỉnh và huyện (ở xa, không quen thuộc địa
bàn, thủ tục quy định).
Về minh bạch thông tin và thủ tục hành chính, cũng có kết quả tương tự
như nhóm chỉ số về khả năng tiếp cận. Cơ sở KCB tuyến huyện có tỷ lệ đánh
giá minh bạch cao nhất (63,4%), tiếp đó là các bệnh viện tuyến tỉnh (61,1%)
và thấp nhất là bệnh viện tuyến trung ương với 57,7%. Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với P <0,01.
Về cơ sở vật chất, người bệnh ở cơ sở KCB tuyến huyện đánh giá cao
về cơ sở vật chất cao nhất trong 3 tuyến (với 70,0%), thứ hai là ở các bệnh
viện tuyến tỉnh (65,0%), thấp nhất là bệnh viện tuyến trung ương (57,9%)
(p<0,001). Điều này có thể lý giải là do tình trạng quá tải vẫn còn diễn ra phổ
biến ở các bệnh viện hiện nay, đặc biệt với các bệnh viện tuyến trên.
30 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 459 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Đánh giá sự hài lòng của bệnh nhân về sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại một số bệnh viện công lập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 15 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU SỰ HÀI LÒNG CỦA
NGƯỜI BỆNH ĐỐI VỚI DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SỰ HÀI LÒNG ĐỐI VỚI DỊCH VỤ
KHÁM CHỮA BỆNH
Từ năm 1957 đến nay, trên thế giới, vấn đề sự hài lòng của người bệnh
ngày càng trở thành chủ đề được quan tâm nghiên cứu trong các cơ sở y tế
với hàng ngàn ấn phẩm nghiên cứu về vấn đề này được báo cáo. Đánh giá sự
hài lòng của người bệnh là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các bệnh viện ở
một số quốc gia châu Âu. Đo lường sự hài lòng của người bệnh từ lâu đã trở
thành một chỉ số hợp pháp, một yêu cầu bắt buộc cho việc cải thiện các dịch
vụ và là mục tiêu chiến lược cho nhiều tổ chức y tế trên thế giới.
Mặc dù sự hài lòng của người bệnh đã trở thành chủ đề quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý trên thế giới và ngày càng có nhiều nghiên
cứu tại các quốc gia về vấn đề này, hầu hết các nghiên cứu đều gặp phải
thách thức chung, đó là thiếu định nghĩa được chấp nhận trên toàn cầu về sự
hài lòng cũng như phương pháp đo lường. Có thể chia các đánh giá về sự hài
lòng của người bệnh theo hai phương diện: hài lòng đối với chất lượng và
loại hình dịch vụ mà người bệnh đã được thụ hưởng và hài lòng về chất
lượng của cả hệ thống y tế nói chung. Dù ở phương diện nào thì hai phương
diện nghiên cứu nêu trên đều quan trọng cho cả người bệnh và hệ thống y tế
bởi các lý do: người bệnh khi hài lòng sẽ tuân thủ điều trị tốt hơn, hợp tác tốt
hơn với thầy thuốc, ảnh hưởng tích cực đến kết quả điều trị và các kết quả
nghiên cứu về hệ thống y tế sẽ cung cấp các bằng chứng để hoàn thiện mạng
lưới, cải thiện tình trạng cung ứng dịch vụ, giảm chi phí KCB, góp phần thực
hiện tốt nhiệm vụ CSSKND.
1.2. NGHIÊN CỨU VỀ CÁC THÀNH TỐ TẠO NÊN SỰ HÀI LÒNG
Nhiều tác giả đã chỉ ra rằng, sự hài lòng của người bệnh gồm có nhiều
thành tố và đến nay cũng chưa có sự thống nhất tuyệt đối trong cách phân
loại các thành tố. Trong giai đoạn thí điểm phương pháp đo lường sự hai lòng
của người dân với dịch vụ y tế công (năm 2015), Bộ Y tế đang thực hiện đo
lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ y tế công với 5 nhóm thành
tố chính bao gồm: khả năng tiếp cận; minh bạch thông tin và thủ tục hành
chính; cơ sở vật chất; thái độ ứng xử và kỹ năng làm việc của NVYT; kết quả
điều trị.
1.3. NGHIÊN CỨU VỀ NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LÒNG CỦA
NGƯỜI BỆNH
Nội dung nghiên cứu sự hài lòng của người bệnh thườg tập trung vào
các khía cạnh như: sự đón tiếp; thủ tục vào và ra viện; vệ sinh bệnh viện; các
dịch vụ điều dưỡng, khám bệnh và điều trị của nhân viên y tế. Trong đó tập
trung vào các đặc điểm của những nhân viên y tế quan trọng như bác sỹ, y tá,
nữ hộ sinh. Đây là những người giữ vai trò hết sức quan trọng, họ có nhiệm
vụ tiếp nhận người bệnh, khám và chẩn đoán bệnh, kê đơn, theo dõi quá trình
điều trị, tiến triển bệnh, tạo tinh thần lạc quan yêu đời cho người bệnh làm
người bệnh có thể phục hồi trong thời gian sớm nhất.
1.4. NGHIÊN CỨU VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG
CỦA NGƯỜI BỆNH
Sự hài lòng hoặc không hài lòng của người bệnh được coi là vấn đề hết
sức phức tạp, nó gắn với những mong đợi của người bệnh, tình trạng sức
khỏe, đặc điểm cá nhân cũng như những đặc trưng của hệ thống y tế ở mỗi
quốc gia. Tự chung các nghiên cứu đã chia các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài
lòng của người bệnh thành hai nhóm:1) Đặc điểm của người bệnh (kỳ vọng,
tình trạng sức khỏe, đặc điểm nhân khẩu và 2) Các yếu tố liên quan đến hệ
thống y tế hoặc cơ sở y tế
1.5. CÁC PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN ĐƯỢC SỬ DỤNG
TRONG CÁC NGHIÊN CỨU VỀ SỰ HÀI LÒNG CỦA BỆNH NHÂN
Phương pháp nghiên cứu định lượng là phương pháp chủ đạo được sử
dụng để thu thập thông tin cho phép đo lường sự hài lòng của người bệnh
một cách chính xác. Câu hỏi được chuẩn hóa là công cụ phổ biến nhất dành
cho nghiên cứu sự hài lòng của người bệnh. Phương pháp nghiên cứu định
tính thường được sử dụng để bổ sung thông tin cho phương pháp định lượng.
Mỗi phương pháp đều có các điểm mạnh và điểm yếu riêng liên quan đến độ
chính xác, tỷ lệ phản hồi, nguồn lực về thời gian, chi phí và mức độ thuận
tiện hay không thuận tiện cho người bệnh.
1.6. CÁCH THỨC THU THẬP SỐ LIỆU, CÁCH GHI NHẬN VÀ ĐÁNH
GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA BỆNH NHÂN
Về cách thức thu thập số liệu: mặc dù, các nghiên cứu về sự hài lòng
của khách hàng đã được tiến hành nhưng hiện vẫn chưa có phương pháp nào
được coi là chuẩn mực chung để đo mức độ hài lòng của người bệnh. Tuy
nhiên, dựa trên các phương pháp đã được sử dụng, các nhà nghiên cứu có thể
đưa ra một số nguyên tắc cần lưu ý về các cách thu thập số liệu khác nhau
cũng như cách tính điểm cho mức độ hài lòng của người bệnh trong quá trình
xác định phương pháp đo lường mức độ hài lòng.
Có thể nhóm các cách thu thập số liệu thành 3 nhóm chính sau:
- Phương pháp phổ biến: yêu cầu người bệnh đánh giá, cho điểm về các
cấu phần cấu thành của dịch vụ KCB từ đó có thể đo lường mức độ hài lòng
của họ. Các chỉ số này được gọi là biện pháp gián tiếp đo lường sự hài lòng
bởi vì khách hàng không trực tiếp trả lời họ hài lòng như thế nào. Phương
pháp này không phân biệt được rõ ràng sự hài lòng và yếu tố quyết định sự
hài lòng.
- Một phương pháp khác là hỏi người bệnh về những trải nghiệm của
họ đối với hệ thống cung ứng dịch vụ y tế như thời gian chờ khám, thời gian
được khám, ... Đây là phương pháp khách quan hơn và rất hữu ích cho việc
so sánh các đơn vị cung ứng dịch vụ y tế. Mặc dù thông tin thực tế được thu
thập cũng như mối liên hệ của nó với sự hài lòng không nhất thiết đúng
trong nhiều trường hợp bởi nó còn phụ thuộc vào nhu cầu và kỳ vọng của
mỗi cá nhân.
- Ngoài ra, còn có một phương pháp đo lường phổ biến khác thường
được sử dụng, đó là hỏi khách hàng về ý định giới thiệu dịch vụ cho người
khác hay tiếp tục sử dụng dịch vụ trong tương lai.
1.7. NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LÒNG CỦA
NGƯỜI BỆNH
Từ những năm 1970, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu những bước đi đầu
tiên trong việc đo lường sự hài lòng của người bệnh trong lĩnh vực CSSK với
sự phát triển thang đo “Thang đo Sự hài lòng đối với bác sĩ và chăm sóc cơ
bản”. Một số nước phát triển đã xây dựng và chuẩn hóa các bảng hỏi về sự
hài lòng của người bệnh. Nhiều nghiên cứu tự phát triển các bảng hỏi theo
mục đích nghiên cứu của mình dựa trên mục tiêu và phạm vi đánh giá. Tùy
theo từng loại hình điều trị hay loại bệnh có liên quan mà các nhà nghiên cứu
điều chỉnh các bảng hỏi đó cho phù hợp. Công cụ đánh giá cũng thay đổi cho
từng nước, từng điều kiện kinh tế xã hội văn hóa.
Thang đo Likert (5 cấp độ từ rất tốt đến tốt, bình thường, kém, rất kém)
được đánh giá là phù hợp hơn cả để sử dụng trong các công cụ dùng để đánh
giá sự hài lòng của người bệnh.
Trong từng phương pháp kể trên, các nghiên cứu cũng khác nhau tùy
theo việc họ chỉ nghiên cứu 2 mức độ hài lòng - không hài lòng hay là đo
nhiều mức độ hài lòng. Nếu chỉ nghiên cứu mức độ hài lòng - không hài
lòng, thường là người ta sử dụng thang chia đơn giản 2 chiều để xác định tỷ
lệ người được hỏi hài lòng hay không hài lòng. Nếu muốn đo mức độ hài
lòng, người ta dùng thang chia nhiều mức và cho thấy mức độ tập trung
tương đối của sự hài lòng hay không hài lòng. Thang chia nhiều mức là cách
đo ý kiến của khách hàng chính xác hơn là thang chia 2 chiều và cho thấy rõ
hơn sự khác biệt giữa các dịch vụ và các môi trường y tế cũng như những
thay đổi qua thời gian.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU SỰ HÀI LÒNG
CỦA NGƯỜI BỆNH VỀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Tác giả sử dụng khái niệm “Sự hài lòng của người bệnh” trong luận án là
“thái độ tích cực đối với chất lượng chức năng của dịch vụ KCB khi đáp ứng
được nhu cầu và mong đợi của họ. Những người bệnh nhận được dịch vụ cao
hơn kỳ vọng sẽ hài lòng, ngược lại người bệnh nhận được dịch vụ thấp hơn so
với kinh nghiệm của họ sẽ không hài lòng. Sự hài lòng của người bệnh là một
chỉ số quan trọng về chất lượng dịch vụ KCB đã được cung cấp”.
2.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU SỰ HÀI
LÒNG NGƯỜI BỆNH
2.2.1. Lý thuyết hệ thống xã hội: cho phép tiếp cận với hệ thống y tế
một cách toàn diện như một chỉnh thể, đồng thời nhìn nhận nó như một tiểu
hệ thống xã hội thành phần trong mối quan hệ tương tác với các tiểu hệ thống
xã hội khác trong xã hội. Hệ thống y tế, và hệ thống xã hội nói chung có tính
mở, luôn vận động, phát triển trong tương tác với môi trường.
2.2.2. Thuyết cấp bậc nhu cầu của Abraham Maslow: được xem là
một lý thuyết về động cơ tạo nền tảng cho những nghiên cứu về sự hài lòng
của người bệnh nói riêng và sự hài lòng nói chung. Maslow phân loại các
nhu cầu của con người theo tầm quan trọng của chúng và sắp xếp vào các
nhóm theo trật tự thứ bậc. Các nhu cầu ở nấc cao hơn muốn xuất hiện thì nhu
cầu ở nấc thấp hơn phải được thỏa mãn trước. Có thể thấy, tất các các nhóm
nhu cầu của A. Maslow đều có liên hệ mật thiết tới nhu cầu người bệnh.
Người bệnh hài lòng với chất lượng dịch vụ của một bệnh viện, chính là khi
họ được thỏa mãn các nhóm nhu cầu trên.
2.2.3 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nâng cao chất lượng
dịch vụ y tế
Chính phủ nhiệm kỳ mới hiện nay đã nhiều lần khẳng định việc lấy
mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo đánh giá hiệu
quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Đánh giá sự hài lòng là một trong những tiêu chí quan trọng trong Bộ
tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện được Bộ Y tế ban hành tháng 12/2013
Chương 3
THỰC TRẠNG SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI BỆNH
TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN CÔNG LẬP
3.1. ĐẶC ĐIỂM CÁC BẸNH VIỆN TRONG MẪU NGHIÊN CỨU
Tổng số 12 bệnh viện công lập thuộc các tuyến từ trung ương, tỉnh,
huyện đã được lựa chọn khảo sát sự hài lòng của người bệnh về sử dụng dịch
vụ KCB, trong đó có 4 bệnh viện tuyến trung ương, 4 bệnh viện tuyến tỉnh
và 4 bệnh viện tuyến huyện; Về hạng bệnh viện, có 1 bệnh viện hạng đặc
biệt, 5 bệnh viện hạng I, 4 bệnh viện hạng II và 2 bệnh viện hạng III; gồm10
bệnh viện đa khoa và 2 bệnh viện chuyên khoa với tổng số 10.534 giường
bệnh thực kê.
9/12 bệnh viện có công suất sử dụng giường bệnh trên 100%, thậm chí
có bệnh viện có công suất sử dụng giường bệnh tới gần 200%. Tình trạng
quá tải xảy ra ở cả 4 bệnh viện tuyến trung ương, ở 2/4 bệnh viện tỉnh và ¾
bệnh viện quận, huyện thuộc địa bàn nghiên cứu.
Có 3/12 bệnh viện có tỷ lệ cơ cấu chuyên môn giữa bác sĩ và các chức
danh y tế chuyên môn khác đạt cao hơn theo quy định tại Thông tư liên tịch
số 08/2007/TTLT-BYT-BNV. Còn lại 7 bệnh viện có tỷ lệ cơ cấu về chuyên
môn mới chỉ đạt mức thấp hơn 2,5.
3.2. THÔNG TIN CHUNG VỀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
Trong số 4.566 người bệnh/người nhà người bệnh được phỏng vấn nam
giới chiếm 41,3%. Gần 1/4 người trả lời trong nhóm tuổi 30- 39 (24,8%) và
18 - 29 tuổi (24,0%). 93,9% người trả lời là người Kinh. Đa số người trả lời
có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở xuống (67%); từ trung cấp,
cao đẳng và đại học trở lên chỉ chiếm 33%. Người làm công ăn lương chiếm
gần 1/3 đối tượng cung cấp thông tin (28,8%), tiếp đến là nông dân, ngư dân
chiếm 19,8%, nghỉ hưu, mất sức, già yếu chiếm 15,4%, 12,1% làm nghề tự
do. Phần lớn đối tượng trả lời có mức sống trung bình, vẫn còn 14,2% có
mức sống nghèo và cận nghèo. 68,2% đối tượng trả lời phỏng vấn là người
bệnh/người nhà bệnh nhân nội trú, 30% là bệnh nhân ngoại trú. Đa số người
bệnh có tình trạng sức khỏe bình thường tại thời điểm phỏng vấn (63%).
3.3. THỰC TRẠNG HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI BỆNH
3.3.1. Tỷ lệ hài lòng đối với dịch vụ khám chữa bệnh
Hơn 2/3 (67,8%) người trả lời cho biết hài lòng với dịch vụ KCB; vẫn
còn 32,2 chưa hài lòng trong đó gần 3% không hài lòng.
68,3% người bệnh cho biết dễ dàng tiếp cận dịch vụ; 67,9% đánh giá
tốt kết quả cung cấp dịch vụ, 64,3% nhận xét tốt về cơ sở vật chất, 63,6%
đánh giá tốt về thái độ, kiến thức và kỹ năng cung cấp dịch vụ của nhân viên
y tế và 60,7% đánh giá thông tin và thủ tục hành chính minh bạch/rõ ràng.
3.3.2. Tỷ lệ hài lòng đối với dịch vụ khám chữa bệnh theo bệnh viện
Trong số 12 bệnh viện thuộc địa bàn nghiên cứu, BV Thị xã Tam Điệp
có tỷ lệ bệnh nhân “Rất hài lòng” cao nhất (29,2%), thứ hai là Trung tâm y tế
(TTYT) Gò Dầu (28,2%).
Trung tâm y tế Gò Dầu là cơ sở y tế có tỷ lệ người bệnh nhân hài lòng
cao nhất trong số 12 bệnh viện (86,5%). Tiếp đến là bệnh viện Nhân dân Gia
Định (80,6%). Thấp nhất là bệnh viện ĐK tỉnh Tây Ninh và bệnh viện ĐK
tỉnh Yên Bái, với tỷ lệ hài lòng của người bệnh đạt tương đương là 55% và
48,1%. Bệnh viện có tỷ lệ không hài lòng cao nhất là bệnh viện ĐKTW Thái
Nguyên (10%). Tiếp theo là bệnh viện ĐK tỉnh Tây Ninh (8,3%).
So sánh với hai chỉ số về tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ và công suất sử dụng
giường bệnh của các bệnh viện, ta có thể thấy có mối liên hệ giữa các chỉ số
này với tỷ lệ hài lòng của người bệnh: TTYT Gò Dầu có tỷ lệ người bệnh hài
lòng nhất hiện đạt tỷ lệ điều dưỡng/BS là 6 (cao nhất trong số 12 bệnh viện),
công suất sử dụng giường bệnh là 113% (đứng thứ 8 trong tổng số 12 bệnh
viện). Bệnh viện ĐKTW Thái Nguyên có tỷ lệ người bệnh chưa hài lòng cao
nhất hiện có tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ là 2,2 và công suất sử dụng giường bệnh
là 115,1%.
3.3.3. Sự đánh giá của người bệnh đối với dịch vụ khám chữa bệnh
theo tuyến
Cơ sở KCB tuyến huyện có tỷ lệ người bệnh hài lòng cao nhất (76,5%);
tỷ lệ tương ứng với bệnh viện tuyến trung ương (63,9%) và BVĐK tỉnh thấp
nhất (63%).
Về khả năng tiếp cận, người bệnh ở cơ sở KCB tuyến huyện có tỷ lệ
nhận xét tiếp cận dễ dàng cao nhất (71,6%), sau đó là bệnh viện tỉnh (70,5%)
và thấp nhất là bệnh viện tuyến trung ương (62,9%). Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với P<0,001. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế do phân
bố về vị trí địa lý nên khả năng tiếp cận của người bệnh đến bệnh viện trung
ương sẽ có hạn chế hơn bệnh viện tỉnh và huyện (ở xa, không quen thuộc địa
bàn, thủ tục quy định).
Về minh bạch thông tin và thủ tục hành chính, cũng có kết quả tương tự
như nhóm chỉ số về khả năng tiếp cận. Cơ sở KCB tuyến huyện có tỷ lệ đánh
giá minh bạch cao nhất (63,4%), tiếp đó là các bệnh viện tuyến tỉnh (61,1%)
và thấp nhất là bệnh viện tuyến trung ương với 57,7%. Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với P <0,01.
Về cơ sở vật chất, người bệnh ở cơ sở KCB tuyến huyện đánh giá cao
về cơ sở vật chất cao nhất trong 3 tuyến (với 70,0%), thứ hai là ở các bệnh
viện tuyến tỉnh (65,0%), thấp nhất là bệnh viện tuyến trung ương (57,9%)
(p<0,001). Điều này có thể lý giải là do tình trạng quá tải vẫn còn diễn ra phổ
biến ở các bệnh viện hiện nay, đặc biệt với các bệnh viện tuyến trên.
Về thái độ ứng xử và kỹ năng làm việc của nhân viên y tế: người bệnh ở
tuyến tỉnh đánh giá cao nhất (65,2%); tiếp đến là cơ sở KCB tuyến huyện
(64,2%) và thấp nhất là tại bệnh viện tuyến trung ương (61,3%) (sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p< 0,001).
Về kết quả cung cấp dịch vụ: tỷ lệ người bệnh của các bệnh viện tuyến
tỉnh đánh giá kết quả cung cấp dịch vụ tốt cao nhất (71,0%); tiếp đến là cơ sở
KCB tuyến huyện (69,4%) và thấp nhất là bệnh viện trung ương (63,4%) (sự
khác có ý nghĩa thống kê với p<0,001). Nguyên nhân của sự khác biệt này có
thể là do mức độ bệnh tật và kỳ vọng của người bệnh đối với bệnh viện tuyến
huyện thấp hơn so với các bệnh viện tuyến trên.
Đối với bệnh viện tuyến trung ương, khi đánh giá về các cấu phần của
dịch vụ KCB thì kết quả cung cấp dịch vụ được nhiều người bệnh đánh giá
cao nhất (63,4% bệnh nhân đánh giá kết quả tốt); tiếp đến là nhóm chỉ số về
Khả năng tiếp cận (62,9%); thứ 3 là nhóm chỉ số về thái độ ứng xử và kỹ
năng làm việc của nhân viên y tế (61,3%); cuối cùng là Cơ sở vật chất
(57,9%) và minh bạch thông tin và thủ tục hành chính (57,7%). Số liệu này
cho thấy nhu cầu về đầu tư cơ sở vật chất và tăng cường khả năng tiếp cận
cho bệnh nhân đối với các bệnh viện tuyến trung ương trong thời gian tới.
Đối với bệnh viện tuyến tỉnh, cấu phần dịch vụ KCB được nhiều bệnh
nhân đánh giá cao thuộc về kết quả cung cấp dịch vụ (71,0%), tiếp đến là khả
năng tiếp cận và thái độ ứng xử và kỹ năng làm việc của NVYT với các tỷ lệ
đạt được lần lượt là 70,5% và 65,2% và cơ sở vật chất (65%). Thấp nhất là
chỉ số minh bạch thông tin và thủ tục hành chính (61,1%). Nếu so sánh về tỷ
lệ đánh giá tốt về minh bạch thông tin và thủ tục hành chính giữa 3 tuyến
bệnh viện thì bệnh viện tuyến tỉnh thấp thứ hai, sau bệnh viện trung ương.
Thực tế này cho thấy cải thiện tình trạng minh bạch thông tin và đơn giản
hóa thủ tục hành chính là nhiệm vụ trọng yếu trong thời gian sắp tới đối với
các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh.
Đối với bệnh viện tuyến huyện, mặc dù tỷ lệ người bệnh có nhận xét tốt
cao hơn so với các bệnh viện tuyến trên song còn chưa đồng đều giữa các
nhóm chỉ số. Nhóm chỉ số về khả năng tiếp cận có tỷ lệ người bệnh nhận xét
là dễ dàng là cao nhất (71,6%). Tiếp đến là cơ sở vật chất tốt (70,0%) và kết
quả cung cấp dịch vụ tốt (69,4%). Thái độ ứng xử, kỹ năng làm việc của
NVYT và minh bạch thông tin và thủ tục hành chính là hai nhóm chỉ số có tỷ
lệ nhận xét ở mức tốt/rõ ràng là thấp với tỷ lệ lần lượt là 64,2% và 63,4%.
Việc nâng cao chất lượng KCB tại các BVĐK huyện vẫn cần phải được tiếp
tục chú trọng trong thời gian sắp tới.
3.3.4. Sự tín nhiệm của người bệnh đối với dịch vụ khám chữa
bệnh do các cơ sở y tế công lập cung cấp
Đa số (85,5%) người bệnh/người nhà của người bệnh cho biết sẽ quay
lại sử dụng dịch vụ tại các bệnh viện được khảo sát. Cơ sở KCB tuyến huyện
có tỷ lệ người bệnh trả lời sẽ quay trở lại hoặc giới thiệu người thân, bạn bè
đến với bệnh viện khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ KCB là cao nhất (90%),
tiếp đến là các bệnh viện tuyến tỉnh (84,6%), thấp nhất là các bệnh viện tuyến
trung ương (82,1%).
Tóm lại, kết quả phân tích số liệu thu được cho phép tác giả kiểm
chứng được giả thuyết nghiên cứu thứ nhất là đúng. Đa số (gần 70%)
người bệnh hài lòng với chất lượng khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế công
lập hiện nay.
Chương 4
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG VỀ SỬ DỤNG
DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH CỦA NGƯỜI BỆNH
4.1. MÔ HÌNH PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ NHÂN KHẨU XÃ HỘI CỦA
NGƯỜI BỆNH
Khi đưa các yếu tố nhân khẩu kinh tế xã hội (giới, tuổi, trình độ
học vấn, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, mức sống hộ gia đình), loại dịch
vụ sử dụng nội trú/ngoại trú, tình trạng sức khỏe của người sử dụng vào
mô hình hồi quy đơn biến thì kết quả phân tích cho thấy chỉ có các yếu
tố tuổi, trình độ học vấn, dân tộc, nghề nghiệp, mức sống hộ gia đình và
tình trạng sức khỏe, loại dịch vụ đã sử dụng là có mối liên quan/ảnh
hưởng đến sự hài lòng chung của người bệnh với dịch vụ KCB mà họ đã
từng sử dụng.
4.2. MÔ HÌNH PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CỦA DỊCH VỤ
KHÁM CHỮA BỆNH
4.2.1. Phân tích yếu tố và độ tin cậy của các biến số của thang đo
Qua kiểm định sơ bộ thang đo cấu phần dịch vụ KCB bằng hệ số
Cronbach’s Alpha cho thấy có 1 biến quan sát bị loại bỏ trước khi đưa vào
phân tích nhân tố khám phá EFA (Biến số thứ 9 “Kết quả của ứng dụng
công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ” của yếu tố minh bạch thông
tin và thủ tục hành chính). Cho nên chỉ còn 30 biến đo lường sự hài lòng
của người bệnh được giữ lại và sử dụng trong phân tích nhân tố khám phá
EFA tiếp theo.
4.2.2. Phân tích nhân tố
Sau khi phân tích nhân tố lần 1, có 2 biến bị loại đó là “Kết quả đạt
được so với mong đợi” và “Tín nhiệm đối với dịch vụ của cơ sở cung cấp”
Tập hợp 28 biến còn lại được đưa vào phân tích nhân tố lần 2. Kết
quả trích được 5 nhóm nhân tố từ 28 biến quan sát với phương sai trích
được là 58,06% > 50% (đạt yêu cầu), có nghĩa là 5 nhóm nhân tố này đã
giải thích được khoảng gần 60% độ biến thiên của dữ liệu.
4.2.3. Phân tích hồi qui đa biến
Thông qua các kiểm định, có thể thấy các yếu tố cấu phần dịch vụ KCB
có xu hướng ảnh hưởng đến sự hài lòng của người bệnh là: Kết quả cung cấp
dịch vụ; Minh bạch thông tin và thủ tục hành chính; Cơ sở vật chất và Thái
độ ứng xử của nhân viên y tế; còn yếu tố khả năng tiếp cận với cơ sở y tế
không có xu hướng tác động tới sự hài lòng của người bệnh.
Kết quả nghiên cứu được tác giả luận án đưa ra có nhiều điểm tương
đồng với các nghiên cứu đã được các nhà nghiên cứu trong nước và trên thế
giới đã công bố.
4.3. MÔ HÌNH PHÂN TÍCH TỔNG HỢP CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI BỆNH VỀ DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH
Để xác định các yếu tố nhân khẩu học và chất lượng của cơ sở y tế
ảnh hưởng đến sự hài lòng của người bệnh về dịch vụ KCB, mô hình hồi
quy logistic đa biến đã được xây dựng gồm các biến số thỏa mãn các điều
kiện sau:
Với nhóm biến số về đặc điểm nhân khẩu và xã hội học: biến số được
đưa vào mô hình nếu có mối liên quan có ý nghĩa thống kê đến sự hài lòng
của người bệnh (P < 0,05) trong phân tích đơn biến. Có 7 yếu tố được đưa
vào mô hình, bao gồm: nhóm tuổi, trình độ học vấn, dân tộc, nghề nghiệp,
mức sống của hộ gia đình, dịch vụ người bệnh sử dụng tại cơ sở y tế và tình
trạng sức khỏe của người bệnh tại thời điểm phỏng vấn
Với nhóm biến số đánh giá cấu phần dịch vụ KCB: toàn bộ 5 nhóm yếu
tố đều được đưa vào mô hình. 5 nhóm yếu tố này đều có mối liên quan có ý
nghĩa thống kê với sự hài lòng của người bệnh trong phân tích đơn biến.
Bảng 1: Yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người bệnh đối
với dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện công lập
Yếu tố Tỷ số chênh 95% CI
Nhóm tuổi Từ 18 - 29 1 - -
Từ 30 - 39 1,0 ,831 1,241
Từ 40 - 49 1,1 ,913 1,419
Từ 50 - 59 1,2 ,944 1,538
60 tuổi trở lên 1,2 ,934 1,684
Trình độ học
vấn
Bậc tiểu học/cấp I 1 - -
Bậc trung học cơ
sở/cấp II
1,4 ** 1,162 1,790
Bậc trung học phổ
thông/cấp III
1,2 ,950 1,495
Trung cấp, cao
đẳng
1,1 ,886 1,472
Đại học, trên đại
học
1 ,749 1,289
Dân tộc Kinh 1
Thiểu số 0,7 ** ,499 ,863
Nghề nghiệp Nông dân/ngư
dân/...
1 - -
Làm công ăn
lương
1,2 ,960 1,528
Học sinh/sinh viên 0,8 ,525 1,161
Kinh doanh dịch
vụ
1,1 ,801 1,458
Làm thuê/nghề tự 1,1 ,860 1,423
Yếu tố Tỷ số chênh 95% CI
do
Nghỉ hưu/mất
sức/già yếu
1,2 ,918 1,639
Nội trợ 1,4 * 1,046 1,827
Không có việc
làm/thất nghiệp
1,2 ,960 1,528
Khác 0,8 ,525 1,161
Mức sống Khá giả 1 - -
Trung bình 0,8 ,602 1,048
Cận nghèo 0,6 ** ,394 ,816
Nghèo 0,9 ,646 1,399
Dịch vụ đã
sử dụng
Khám chữa bệnh
ngoại trú
1 - -
Nội trú 1,0 ,891 1,216
Khác 0,9 ,585 1,600
Tình trạng
sức khỏe
Khỏe mạnh 1 - -
Bình thường 0,7 ** ,584 ,914
Yếu 0,7 ** ,527 ,900
Khó trả lời 0,7 * ,481 ,914
Khả năng
tiếp cận
Khó khăn 1 - -
Bình thường 0,9 ,566 1,547
Dễ dàng 1,0 ,607 1,673
Minh bạch
thông tin
Không rõ ràng, cụ
thể
1 - -
Bình thường 1,1 ,751 1,493
Rõ ràng, cụ thể 2,4 *** 1,668 3,435
Cơ sở vật
chất
Không tốt 1 - -
Bình thường 1,6 ,874 2,949
Tốt 2,7 ** 1,488 5,057
Thái độ ứng
xử
Không tốt 1 - -
Bình thường 1,8 ,885 3,513
Tốt 1,4 ,714 2,841
Kết quả cung
cấp dịch vụ
Không tốt/không
phù hợp
1 - -
Bình thường 2,0 ** 1,329 3,066
Tốt/phù hợp 3,9 ** 2,562 5,932
* P < 0,05, ** P < 0,01, *** P < 0,001
Nguồn: Tác giả điều tra, khảo sát.
Như vậy, các đặc điểm về nhân khẩu xã hội bao gồm: trình độ học vấn,
nghề nghiệp, dân tộc, mức sống của hộ gia đình và tình trạng sức khỏe của
người bệnh có mối liên quan có ý nghĩa thống kê đến sự hài lòng của người
bệnh. Người có trình độ học vấn trung học cơ sở có xu hướng hài lòng hơn
so với người có trình độ học vấn tiểu học trở xuống, trong khi đó sự khác biệt
giữa các bậc học khác với bậc tiểu học trở xuống là không rõ. Nhóm người
bệnh/người nhà người bệnh là người dân tộc thiểu sổ ít hài lòng hơn rõ rệt so
với người Kinh. Những người làm nội trợ có xu hướng hài lòng hơn so với
nhóm nông dân/ngư dân hay nhóm học sinh/sinh viên. Người có mức sống
cận nghèo có xu hướng ít hài lòng hơn so với nhóm người khá giả. Tại thời
điểm phỏng vấn những người bệnh có sức khỏe kém hơn có xu hướng ít hài
lòng hơn so với những người bệnh khỏe mạnh.
Ba nhóm yếu tố minh bạch thông tin, cơ sở vật chất và kết quả cung
cấp dịch vụ có mối liên quan thuận chặt chẽ với sự hài lòng nói chung của
người bệnh: người nhà/bệnh nhân nếu đánh giá tốt về sự minh bạch thông
tin, về cơ sở vật chất và kết quả cung cấp dịch vụ thì có xu hướng hài lòng
hơn về dịch vụ KCB của cơ sở y tế.
Trong 8 yếu tố ảnh hưởng tới sự hài lòng của người bệnh/người nhà
người bệnh nêu trên, có 7 yếu tố là khá đồng nhất với kết quả nghiên cứu của
các tác giả trong nước và thế giới. Duy có yếu tố “Minh bạch thông tin và thủ
tục hành chính” là có điểm khác biệt. Một số các nghiên cứu trước đây có đề
cập đến vấn đề về minh bạch thông tin nhưng chưa được toàn diện. Xuất phát
từ bối cảnh thực tiễn của Việt Nam hiện nay chỉ số minh bạch thông tin trong
các lĩnh vực dịch vụ hành chính công đang là vấn đề được Chính phủ, các bộ
ngành và người dân đặc biệt quan tâm vì vậy Bộ Y tế đã đưa chỉ số “Minh
bạch thông tin và thủ tục hành chính” vào thành 1 trong 5 nhóm chỉ số đo
lường sự hài lòng của người bệnh với dịch vụ y tế công nói chung và dịch vụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_danh_gia_su_hai_long_cua_benh_nhan_ve_su_du.pdf