Tóm tắt Luận văn Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiển trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU. 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI THẨM

NHÂN DÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM. 7

1.1. Khái niệm hội thẩm nhân dân và vai trò của Hội thẩm nhân

dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân . 7

1.1.1 Khái niệm hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự. 7

1.1.2. Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án

nhân dân. 12

1.2. Quá trình hình thành và phát triển quy định về Hội thẩm nhân

dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân . 17

1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1975 . 17

1.2.2. Giai đoạn 1976 đến 1988 . 21

1.2.3. Giai đoạn 1989 đến nay. 23

1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hội thẩm nhân dân. 24

1.3.1. Trách nhiệm, quyền hạn và tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn

nhiệm Hội thẩm nhân dân . 24

1.3.2. Những nguyên tắc tố tụng hình sự điều chỉnh hoạt động của hội

thẩm nhân dân. . 41

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỘI THẨM

NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

TẠI TỈNH ĐẮK LẮK VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT. 55

2.1. Thực tiễn thực thi pháp luật tố tụng hình sự về Hội thẩm nhân

dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 55

2.1.1. Một số nội dung về địa chính trị, kinh tế tỉnh Đắk Lắk . 55

2.1.2. Tình hình thành phần của Hội thẩm nhân dân trên địa bản tỉnh Đắk

Lắk từ năm 2006 đến 2015. 572

2.1.3. Kết quả đạt được và những tồn tại của Hội thẩm nhân dân trong

hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Đắk Lắk . 65

2.1.4. Những nguyên nhân làm phát sinh những tồn tại, hạn chế của Hội

thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp

tỉnh Đắk Lắk. 70

2.2. Các kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội

thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân . 75

2.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về Hội thẩm nhân dân. 75

2.2.2. Kiến nghị, đề xuất về lựa chọn bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội

thẩm nhân dân . 81

2.2.3. Kiến nghị, đề xuất nâng cao trình độ, năng lực Hội thẩm nhân dân . 84

2.2.4. Những kiến nghị, đề xuất khác. 85

KẾT LUẬN . 87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 90

PHỤ LỤC . 94

pdf26 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiển trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân tin cậy, ủng hộ. Vai trò của Hội thẩm không chỉ dừng lại ở tham gia hoạt động xét xử và đưa ra những phán quyết đúng pháp luật mà còn giúp Tòa án làm tốt công tác tuyên 9 truyền pháp luật, hoặc chính bản thân Hội thẩm cũng tranh thủ mọi thời gian, hoàn cảnh để tuyên truyền phổ biến pháp luật nâng cao ý thức chấp hành chủ chương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong nhân dân. góp phần nhất định trong việc giữ gìn "tình làng nghĩa xóm", ổn định xã hội, phòng chống tội phạm. 1.2. Quá trình hhình tành và phát triển quy định về Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân 1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1975 Sắc lệnh số 13/SL, ngày 24-1-1945 ra đời, đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định việc tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán. Đây cũng là văn bản đầu tiên ghi nhận sự tham gia của nhân dân vào trong hoạt động xét xử của Tòa án với tên gọi "Phụ thẩm", sắc lệnh này quy định tương đối đầy đủ quyền và nghĩa vụ của Phụ thẩm cũng như việc tuyển cử, tham gia của Phụ thẩm vào hoạt động xét xử của Tòa án. Thêm vào đó ngày 09/11/1946 Hiến pháp đầu tiên của nước ta được ban hành đã chính thức ghi nhận sự tham gia của Phụ thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử: "Trong khi xét xử việc hình thì phải có Phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình". Mặc dù sắc lệnh này đã có mầm mống tính chất nhân dân, nhưng còn mang nặng tàn tích tư sản thực dân, được xây dựng theo quan niệm Tư pháp độc lập vô tư đứng trên nhân dân, điều hòa giai cấp. Nó còn chịu ảnh hưởng xấu xa của tư tưởng pháp lý cũ, luật lệ cũ nhất là dân luật vẫn là luật lệ phong kiến tư sản xưa, do đó qua 5 năm kháng chiến Tư pháp càng xa nhân dân”. Nhận rõ những khuyết điểm đó, Bộ Tư pháp đã xây dựng lý luận Tư pháp nhân dân thông qua việc “đả phá lập trường quan niệm phương pháp của pháp lý cũ, rồi sau đó đưa lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn kháng chiến Việt Nam, theo hướng tiến của Chính quyền Dân chủ Nhân dân Việt Nam mà xây dựng nền pháp lý mới”. Đánh dấu cho việc cải cách đổi mới về tư tưởng này đó là sự ra đời của một thiết chế tư pháp với tên gọi “Tòa án nhân dân” gắn liền với việc ban hành Sắc lệnh 85-SL, ngày 22-5-1950 cải cách bộ máy tư pháp và luật Tố tụng, đây là Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Một trong những điểm nhấn của Sắc lệnh này làm thay đổi về chất của công tác Tư pháp chính là sự vận dụng lý luận Mác- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó hình thành một cơ chế mang tính nhân dân, thể hiện bản chất nhân dân của nhà nước ta, đó là chế định hội thẩm nhân dân, thay thế chế định Phụ thẩm nhân dân tại Sắc lệnh số 13 trước đây. Tòa án nhân dân gồm có thành phần vừa chuyên môn vừa nhân dân. Hội thẩm nhân dân, đại diện cho thành phần nhân dân nó có tính cách nhân dân hơn vì họ do Hội đồng nhân dân trực tiếp hay gián tiếp bầu ra. Chẳng những họ không phụ thuộc vào thành phần chuyên môn, mà trái lại họ có quyền bằng nhau với thành phần chuyên môn, được quyền tham gia tất cả các việc hình và hộ, có quyền xem hồ sơ và biểu quyết, nhiệm kỳ là một năm. Do có quyền hạn ngang với thành phần chuyên môn nên họ là bộ phận chính của Tòa án, vì họ là đa số. Vì họ là đa số cho nên các bản án, các quyết định của Tòa án, thật sự là do Hội thẩm nhân dân mà ra. 10 Địa vị của thành phần chuyên môn bị thu hẹp lại và nhiệm vụ của họ thật ra là để giúp đỡ thành phần nhân dân trong sự nghiên cứu các luật pháp nhiều khi có phần phức tạp”. Sau đó là một loạt các văn bản ra đời nhằm hoàn thiện chế định Hội thẩm nhân dân bao gồm: Sắc lệnh số 151/SL ngày 17/11/1950 về đặt thể lệ chỉ định các Hội thẩm nhân dân và định thành phần Tòa án nhân dân liên khu trong trường hợp đặc biệt; Sắc lệnh số 156/SL ngày 22/11/1950 về tổ chức Tòa án nhân dân liên khu, Sắc lệnh số 12/SL ngày 30/03/1957 và thông tư số 02 P/4 ngày 05/02/1952 của Bộ tư pháp sửa đổi bộ phận chế định Hội thẩm nhân dân. Với những văn bản trên thì quy định Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử tại Tòa án được tăng lên tùy theo cấp xét xử, như ở Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh, Hội đồng xét xử gồm một Thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; ở Tòa án cấp phúc thẩm khu hoặc thành phố Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Quyền hạn và nghĩa vụ được mở rộng như: Hội thẩm nhân dân được quyết định tất cả các vấn đề trong xét xử vụ án từ giai đoạn nghiên cứu hồ sơ cho đến biểu quyết về tội danh và hình phạt, được Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố triệu tập cuộc họp để phổ biến nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc, trao đổi về lịch công tác; được bồi dưỡng nghiệp vụ, được dự họp tổng kết của Tòa án. Về hình thức lựa chọn, Hội thẩm nhân dân được quy định trong các sắc lệnh số 151/SL ngày 17/11/1950, Sắc lệnh số 156/SL ngày 22/11/1950, Nghị quyết của Hội đồng chính phủ tháng 09/1951, tháng 09/1952 và thông tư 138/HCTP ngày 23/11/1957 của Bộ tư pháp. Theo các văn bản này, Hội thẩm nhân dân được lựa chọn chủ yếu theo hình thức bầu, trong trường hợp đặc biệt Hội thẩm nhân dân Tòa án liên khu có thể do Bộ trưởng bộ tư pháp chỉ định theo đề nghị của Ủy ban hành chính liên khu hoặc chọn trong đại biểu đoàn thể thuộc Mặt trận Tổ quốc khu hoặc tỉnh. Nhằm cũng cố, phát huy vai trò của chính quyền dân chủ nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới, ngày sau khi kháng chiến chống thực dân pháp thành công, miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, thì các quy định về Hội thẩm nhân dân tiếp tục được hoàn thiện hơn. Địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân được ghi nhận trong hiến pháp 1959, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và các văn bản pháp luật khác. Nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 99), nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập (Điều 100) đã chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp 1959; địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân được nâng lên ngang quyền với Thẩm phán trong hoạt động xét xử (Điều 11 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960). Việc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân ở các cấp Tòa án theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 cũng được mở rộng hơn so với các quy định trước đây. Hội thẩm nhân dân chủ yếu tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm, còn cấp phúc thẩm, Hội thẩm nhân dân chủ yếu tham gia trong trường hợp đặc biệt; thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; trường hợp xét xử những vụ án nhỏ, đơn gian và không quan trọng thì có thể không có Hội thẩm nhân dân tham gia. 11 1.2.2. Giai đoạn 1976 đến 1988 Có thể nói giai đoạn này các nguyên tắc trong hoạt động xét xử đã được ghi nhận và quy định rõ hơn trong hiến pháp, cũng như các văn bản pháp luật khác. Quyền hạn của Hội thẩm được mở rộng hơn; quy định cụ thể về mức độ tham gia và số lượng Hội thẩm nhân dân được tham gia trong từng vụ án, từng cấp xét xử. Tiêu chuẩn đối với Hội thẩm nhân dân ở giai đoạn này cũng khá đơn giản đó là "Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có quan hệ tốt với nhân dân". Về hình thức bầu chọn Hội thẩm ở mỗi cấp tòa có quy định khác nhau: Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao do Hội đồng Nhà nước cử, theo sự giới thiệu của Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam ở địa phương. Nhiệm vụ của Hội thẩm nhân dân là tham gia công tác xét xử của Tòa án; quyền lợi, chế độ của Hội thẩm nhân dân là được bồi dưỡng về nghiệp vụ và được hưởng phụ cấp khi tham gia xét xử. 1.2.3. Giai đoạn 1989 đến nay Giai đoạn này tiếp tục hoàn thiện chế định hội thẩm nhân dân tham gia xét xử tại Tòa án, do đó có nhiều văn bản quy định về Hội thẩm nhân dân như: Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988,(được sửa đổi bổ sung năm 2000), Hiến pháp năm 1992, (được sửa đổi bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 (được sửa đổi bổ sung năm 2011), Luật tổ chức Tòa án năm 2002; Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), luật tố tụng hành chính năm 2010, Quy chế tổ chức và hoạt đông của Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2005. Những văn bản này đã cụ thể hóa thành những quy định về vị trí, vai trò cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân trong từng lĩnh vực tố tụng cụ thể. Ở giai đoạn này, Hội thẩm chủ yếu tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm, còn cấp phúc thẩm, Hội thẩm có thể tham gia trong trường hợp cần thiết. Hội thẩm nhân dân tham xét xử ở cấp sơ thẩm phụ thuộc vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của từng vụ án: "Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ an có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Đối với vụ án mà bị cáo bị truy tố, xét xử về một tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình, thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân". 1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hội thẩm nhân dân 1.3.1. Trách nhiệm, quyền hạn và tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Hội thẩm nhân dân Trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân: Hiện nay trong rất nhiều văn bản pháp luật quy định quyền của Hội thẩm nhân dân, từ Hiến pháp, Luật tố tụng, pháp lệnh, cho đến các văn bản khác đề quy định rất cụ thể các quyền của Hội thẩm nhân dân trong hệ thống Tòa án nhân dân. Tuy nhiên theo Tác giải tổng hợp lại thì Hội thẩm nhân dân có các quyền chung đối với bất kỳ Hội thẩm nhân dân nào sau 12 khi được bầu và các quyền của Hội thẩm sau khi được phân công giải quyết vụ án cụ thể. - Trong khi thực hiện nhiệm vụ, chức năng của Tòa án nhân dân, ngoài việc quy định quyền hạn của Hội thẩm thì bên cạnh đó cũng quy định một loạt các trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân như sau: Thứ nhất: Sau khi được Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm của Tòa án nhân dân cùng cấp, để tham tham gia xét xử tại Tòa án, theo quy định tại khoản 1, Điều 32 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân "Hội thẩm nhân dân làm nhiệm vụ theo sự phân công Chánh án". Để bắt đầu tham gia công tác xét xử các loại vụ án tại Tòa án, thì trước hết Hội thẩm có nghĩa vụ chịu sự phân công của Chánh án tòa án để thực hiện công tác xét xử các loại vụ án, từ khi có quyết định xét xử vụ án ra xét xử thì Hội thẩm nhân dân bắt đầu có nhiệm vụ tham gia nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử cùng với Thẩm phán giải quyết vụ án. Có thể thấy khi xét xử trong những vụ án cụ thể, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo các quy định của pháp luật, nhưng về mặt quản lý hành chính thì Hội thẩm phải chịu sự quản lý, chỉ đạo, phân công của Chánh án tòa án địa phương nơi Hội thẩm được bầu tham gia công tác xét xử tại địa phương đó, cũng như căn cứ vào Quy chế về Tổ chức và hoạt động của Hội thẩm, thì Chánh án có trách nhiệm quản lý Hội thâm nhân dân. Khi được Chánh án Tòa án phân công nhiệm vụ xét xử, Hội thẩm có nghĩa vụ tham gia mà không được từ chối, trừ trường hợp có lý do chính đáng (Điều 36 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân). Thứ hai: Khi là một Hội thẩm nhân dân, Pháp luật quy định phải có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do và nhân phẩm của công dân. Đây là nhiệm vụ chung cho công tác xét xử, các hoạt động xét xử của Tòa án làm nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Do vậy khi được bầu làm Hội thẩm nhân dân, trách nhiệm của Hội thẩm là phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của một người đại diện cho nhân dân bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền về tài sản, tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Thứ ba: Với địa vị pháp lý là thành viên của Hội đồng xét xử, Hội thẩm phải tuân theo những nguyên tác hiến định "Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc và chỉ tuân theo pháp luật", tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật liên quan trong quá trình xét xử. Trong quá trình xét xử Hội thẩm phải chịu trách nhiệm đối với hoạt động xét xử của mình, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Thứ tư: Với chức năng của mình Hội thẩm nhân dân có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến quần chúng nhân dân. Để giúp cho nhân dân hiểu các quy định của pháp luật, thông qua hoạt động xét xử của mình, Hội thẩm giải thích cho người dân biết về các quy định của pháp luât, qua đó làm cho người dân hiểu các chính sách pháp luật của nhà nước, từ đó để cho nhân dân thực 13 hiện theo quy định của pháp luật. Thứ năm: Ngoài những nhiệm vụ trên, Hội thẩm phải có nhiệm vụ báo cáo kết quả tham gia hoạt động xét xử của mình cho cơ quan có thẩm quyền đã cữ hoặc bầu họ làm Hội thẩm. Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, giữ gìn bí mật công tác theo quy định của pháp luật, phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Quyền hạn của Hội thẩm nhân dân: Trong khi thực hiện nhiệm vụ, chức năng của Tòa án nhân dân, Hội thẩm nhân dân có các quyền hạn sau: Thứ nhất: Sau khi được bầu làm Hội thẩm nhân dân của Tòa án, Hội thẩm nhân dân còn được bồi dưỡng về nghiệp vụ, hàng năm được tham gia hội nghị tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân (khoản 1 Điều 33 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân). Thứ hai: Trong một năm mà Hội thẩm không được Chánh án Tòa án nhân dân phân công làm nhiệm vụ xét xử thì có quyền yêu cầu Chánh án cho biết lý do. Với vai trò là một người đại diện cho tiếng nói của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, Hội thẩm được quyền tham gia xét xử tất cả các vụ án của Tòa án, nên Chánh án phải phân công Hội thẩm được bầu làm thành viên Hội đồng xét xử mà không vì một lý do gì cản trở quyền tham gia xét xử của Hội thẩm. Thứ ba: Theo khoản 2 Điều 33 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân quy định "Hội thẩm là công chức thì trong thời gian làm nhiệm vụ Hội thẩm được tính vào thời gian làm việc tại cơ quan, đơn vị" và Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân quy định "Trong thời gian Hội thẩm làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án Tòa án thì cơ quan, tổ chức có Hội thẩm nhân dân đó không được điều động, phân công Hội thẩm làm nhiệm vụ khác, trừ trường hợp đặc biệt". Thứ tư: Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội thẩm có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân. Thứ năm: Ngoài ra Hội thẩm còn được cấp trang phục, Giấy chứng minh Hội thẩm để làm nhiệm vụ xét xử (Điều 34 khoản 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân) và khi làm nhiệm vụ xét xử Hội thẩm được hưởng phụ cấp theo quy định của pháp luật (Điều 34 khoản 2 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân). - Đối với các quyền khi tham gia xét xử vụ án cụ thể: Thứ nhất: Quyền nghiên cứu hồ sơ của Hội thẩm được bắt đầu từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để Hội thẩm tham gia xét xử vụ án được tiếp cận hồ sơ để nghiên cứu. Thứ hai: Hội thẩm là các thành viên trong Hội đồng xét xử nhận thấy rằng sự tham gia của mình là không khách quan, không vô tư trong khi giải quyết vụ án và thuộc các trường hợp pháp luật quy định không được tham gia làm thành viên Hội đồng xét xử, thì Hội thẩm có quyền từ chối khi có quyết định phân công của Chánh án tòa án tham gia xét xử đối với vụ án đó hoặc trong trường hợp khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. 14 Thứ ba: Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Hội thẩm tham gia xét xử vụ án đó căn cứ vào pháp luật để tiến hành thủ tục hoa giải đối với các vụ án mà pháp luật không cấm tiến hành thủ tục hòa giải. Hiện nay quyền hòa giải của Hội thẩm chủ yếu được thực hiện tại phiên tòa, Hội đồng xét xử trong đó có Hội thẩm nhân dân thường thực hiện bước hòa giải giữa các đương sự với nhau, sau đó các bên nếu không thông nhất được với nhau trong các vấn đề của vụ án luật cho phép các bên được thỏa thuận thì mới đưa ra phán quyết cuối cùng. Thứ tư: Tại phiên tòa xét xử vụ án cụ thể, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán trong các thủ tục thẩm vấn, tranh luận và nghị án. Các quyền này nhằm thể chế hóa các nguyên tắc Hiến định, nguyên tắc trong tố tụng giữa Thẩm phán và Hội thẩm. Tiêu chuẩn của Hội thẩm nhân dân: Theo quy định tại khoản 2, Điều 37 Luật tổ chức Tòa án nhân dân, khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân và Điều 7 Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân, tiêu chuẩn của Hội thẩm được quy định như sau: Thứ nhất: Hội thẩm nhân dân là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thứ hai: Khác với Thẩm phán hành nghề chuyên nghiệp, tiêu chuẩn pháp lý của Thẩm phán theo quy định của pháp luật phải là cử nhân luật, được đào tạo nghiệp vụ xét xử, đã có thời gian nhất định công tác pháp luật. Tuy nhiên "Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán" và "Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số", chính vì vậy mặc dù pháp luật không quy định tiêu chuẩn của Hội thẩm như tiêu chuẩn của Thẩm phán, nhưng để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của mình đòi hỏi Hội thẩm nhân dân phải có kiến thức pháp lý. Thứ ba: Hội thẩm nhân dân phải có sức khỏe về thể chất và tinh thần để hoàn thành nhiệm vụ được giao; có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Thủ tục bổ nhiệm Hội thẩm: Theo quy định tại Điều 38 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm năm 2002, quy định: “Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp”. Với việc quy định như trên thì việc bầu Hội thẩm nhân dân được áp dụng đối với các Hội thẩm nhân dân của Tòa án ở địa phương, bao gồm Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Hội thẩm nhân dân ở cấp nào thì Hội đồng nhân dân ở cấp đó bầu trên cơ sở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp lập danh sách giới thiệu cho Hội đồng nhân dân. Ngoài việc quy định thủ tục bầu Hội thẩm nhân dân thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cùng cấp thì luật cũng quy định nhiệm kỳ hoạt động của Hội thẩm nhân dân là năm năm, kể từ ngày được bầu và gắn liền với nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân đã bầu ra hội thẩm đó. Đối với các huyện, quận của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực 15 hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận theo nghị quyết số 724/2009/NQ-UBTVQH12, ngày 16/01/2009, Việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện, quận nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân được thực hiện theo trình tự, thủ tục được hướng dẫn tại thông tư số 03/2009/TT- TANDTC, ngày 05 tháng 03 năm 2009, như sau: Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận căn cứ vào nhu cầu xét xử của đơn vị mình thống nhất với Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện, quận về cơ cấu, thành phần, số lượng nhân sự dự kiến đưa ra bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện, quận. Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân: Thủ tục bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với Hội thẩm Tòa án nhân dân mỗi cấp được quy định như sau: Hội thẩm Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Hội thẩm có thể được miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hoặc lý do khác (khoản 1, Điều 41 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân). Hội thẩm đã bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc có hành vi vi phạm pháp luật không còn xứng đáng làm Hội thẩm (khoản 2, Điều 41 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân). 1.3.2. Những nguyên tắc tố tụng hình sự điều chỉnh hoạt động của hội thẩm nhân dân. - Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia: Đây là một nguyên tắc về tổ chức hoạt động xét xử của Tòa án, việc quy định nguyên tắc này nhằm bảo đảm cho Hội thẩm nhân dân tham gia vào quá trình xét xử một cách công khai và độc lập, ghi nhận quyền bình đẳng trong xét xử của hội thẩm và thẩm phán, cũng như phân định rạch ròi về nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân trong xét xử. Việc quy định nguyên tắc có hội thẩm tham gia vào quá trình xét xử là một quy định hết sức đúng đắn và hợp lý, có ý nghĩa hết sức to lớn trong quá trình xét xử các vụ án hình sự. - Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật: Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được hiểu là những tư tưởng chủ đạo có tính bắt buộc thể hiện quan điểm của nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định trong pháp luật tố tụng, theo đó chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm (Hội đồng xét xử) mới có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác (mà không chịu chi phối bởi bất kỳ một sự tác động nào). Nguyên tắc này bao gồm hai nội dung: Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập với nhau và khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật. - Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số: Đây là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động xét xử, nguyên tắc này được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế và pháp luật của các quốc gia. Xét xử tập thể và quyết 16 định theo đa số là hai vấn đề quan trọng trong quá trình xét xử các vụ án hình sự. Nếu xét xử tập thể mà lấy kết quả giải quyết vụ án dựa trên quan điểm của một người, một cá nhân hoặc lấy ý kiến của thiểu số thì thiết nghĩ không cần phải quy định thành lập Hội đồng xét xử làm gì, do đó khi xét xử tập thể thì quyết định theo đa số là kết quả của quá trình xét xử của các thành viên trong Hội đồng xét xử, nó là lý do để tồn tại việc xét xử tập thể. Ngược lại khi quyết định theo đa số mà không có tập thể tham gia xét xử thì cũng không tồn tại khái niệm quyết định theo đa số. Do vậy xét xử tập thể và quyết định theo đa số là hại nội dùng trong một vấn đề không thể tách rời nhau. Chương 2 THỰC TIỂN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH ĐẮK LẮK VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT 2.1. Thực tiễn thực thi pháp luật tố tụng hình sự về Hội thẩm nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 2.1.1. Một số nội dung về địa chính trị, kinh tế tỉnh Đắk Lắk Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, đầu nguồn của hệ thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, nằm trong khoảng tọa độ địa lý từ 107o28'57"- 108o59'37" độ kinh Đông và từ 12o9'45" - 13o25'06" độ vĩ Bắc. Độ cao trung bình 400 – 800 mét so với mặt nước biển. Đắk Lắk có diện tích tự nhiên là 1.306.201ha, phía Đông của Đắk Lắk giáp Phú Yên và Khánh Hoà, phía Nam giáp Lâm Đồng và Đắk Nông, phía Tây giáp Campuchia với đường biên giới dài 193 km, tỉnh Gia Lai nằm ở phía Bắc và có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của cả nước. Kinh tế chủ đạo của Đăk Lăk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nông sản, lâm sản. Tỉnh có tiềm năng về du lịch sinh thái, cũng là nơi trồng bông, ca cao, cao su, điều lớn của Việt Nam. Đồng thời, là nơi phát triển các loại cây ăn trái khác, như cây bơ, sầu riêng, chôm chôm, xoài...Đặc biệt Đắk Lắk là tỉnh có diện tích và sản phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả nước, với diện tích 182.343ha và sản lượng thu hoạch hàng năm đạt trên 400.000 tấn, chiếm 40% sản lượng cả nước. Dân số toàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay có khoảng gần 1,8 triệu người, mật độ dân số đạt 135 người/km², tuy nhiên sự phân bố khu vực dân cư không đồng đều, chủ yếu tập trung dọc các trục đường chính. Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 500.000 người, dân số sống tại nông thôn đạt 1.300.000 người. Toàn tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh chiếm đông nhất với 1.161.533 người, còn lại là người đồng bào dân tộc thiểu số, cùng sinh sống trên địa bàn. 2.1.2. Tình hình thành phần của Hội thẩm nhân dân trên địa bản tỉnh Đắk Lắk từ năm 2006 đến 2015 17 Để có một cái nhìn chung về thành phần và sự tham gia vào công tác xét xử vụ án hình sự của Hội thẩm nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Tác giả xin đi vào phân tích danh sách số lượng Hội thẩm nhân dân được Hội đồng nhân dân các cấp bầu qua hai nhiệm kỳ trở lại đây, đó là nhiệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflhs_hoang_tri_ly_che_dinh_hoi_tham_nhan_dan_trong_luat_to_tung_hinh_su_viet_nam_2393_1946618.pdf
Tài liệu liên quan