Tóm tắt Luận văn Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU. 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ

GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM . 8

1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng và kháng nghị giám đốc

thẩm, tái thẩm . 8

1.1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng .11

1.1.2. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm.12

1.1.3. Khái niệm kháng nghị tái thẩm .13

1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .14

1.3. Mục đích, ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.20

1.3.1. Mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .20

3.1.2. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .21

1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật TTHS

Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm

1945 đến nay .22

1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi

ban hành BLTTHS Việt Nam năm 1988.22

1.4.2. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về

kháng nghị giám đốc thẩm .24

1.4.3. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về

kháng nghị tái thẩm .28

1.5. Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong luật TTHS một

số nước trên thế giới.30

1.5.1. BLTTHS Liên bang Nga .30

1.5.2. Luật TTHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa .34

1.5.3. BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức .36

Kết luận chương 1.41

Chương 2: THỰC TRẠNG KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM,

TÁI THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003

VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .42

2.1. Thực trạng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.422

2.1.1. Kháng nghị giám đốc thẩm.42

2.1.2. Kháng nghị tái thẩm .68

2.2. Thực tiễn thực thi kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .79

2.2.1. Kết quả đạt được trong kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .79

2.2.2. Một số tồn tại trong kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.82

2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên.86

Kết luận chương 2.90

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP

DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS VIỆT NAM VỀ

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM VÀ TÁI THẨM .92

3.1. Sự cần thiết, định hướng và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật

về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .92

3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc

thẩm, tái thẩm .92

3.1.2. Định hướng, nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về kháng nghị

giám đốc thẩm, tái thẩm .93

3.2. Hoàn thiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về kháng

nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.95

3.3. Các giải pháp khác .100

3.3.1. Tăng cường kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án các cấp .100

3.3.2. Tăng cường giải quyết đơn khiếu nại giám đốc thẩm .101

3.3.3. Tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền kháng nghị

giám đốc thẩm.102

3.3.4. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao trình độ chuyên

môn, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ làm

công tác kháng nghị giám đốc thẩm .103

3.3.5. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt

là giữa Tòa án với VKS trong công tác kháng nghị giám đốc

thẩm.104

3.3.6. Nâng cao nhận thức pháp luật trong nhân dân .104

Kết luận chương 3.105

KẾT LUẬN .106

pdf26 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 557 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háp luật; góp phần thực hiện các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS và có ý nghĩa to lớn trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTHS. 1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật TTHS Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm 1945 đến nay 1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS Việt Nam năm 1988 Sau khi giành được chính quyền, nhiều văn bản liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án được ban hành, nhưng nói chung các văn bản trong giai đoạn này đều không quy định về thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm mà chỉ quy định về thủ tục tiêu án đối với bản án đã có HLPL nhưng phát hiện có sai lầm. Sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND và nhiều văn bản khác được ban hành như: Pháp lệnh ngày 23-3-1961, Thông tư số 2397-TC ngày 22-12-1961 và Thông tư số 06-TC ngày 23-7-1964..., trong đó đã quy định về thẩm 8 quyền kháng nghị của Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng phát hiện có sai lầm. Ngày 03-7-1981, Luật tổ chức TAND được ban hành, trong đó đã phân biệt thủ tục giám đốc thẩm với thủ tục tái thẩm và quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án TANDTC, Phó Chánh án TANDTC, Chánh án Tòa án cấp tỉnh. Tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 1981 cũng quy định VKSNDTC có quyền kháng nghị các bản án và quyết định đã có HLPL của TAND các cấp theo thủ tục giám đốc thẩm khi thấy có vi phạm pháp luật hoặc theo thủ tục tái thẩm khi thấy có tình tiết mới. 1.4.2. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về kháng nghị giám đốc thẩm [46, 48] Về tính chất của giám đốc thẩm: nếu Điều 241 BLTTHS năm 1988 chỉ quy định “Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án” thì Điều 272 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể là “... vi phạm pháp luật nghiêm trọng...” mới bị kháng nghị giám đốc thẩm. Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm: tại Điều 242 BLTTHS năm 1988 và Điều 273 BLTTHS năm 2003 đều quy định các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, đó là: 1). Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ; 2). Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; 3). Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử; 4). Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS. Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: BLTTHS năm 1988 quy định Chánh án Tòa án, Viện trưởng VKS cấp tỉnh và cấp Trung ương, Phó Chánh án TANDTC, Phó Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị giám đốc thẩm. BLTTHS năm 2003 bỏ quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm của Phó Chánh án TANDTC và Phó Viện trưởng VKSNDTC. Về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm: BLTTHS năm 1988 và năm 2003 đều quy định về việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án hoặc quyết định có HLPL; còn kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào. Điều 278 BLTTHS năm 2003 còn bổ sung quy định về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm về dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. 9 1.4.3. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về kháng nghị tái thẩm [46, 48] Về tính chất của tái thẩm: BLTTHS năm 1988 và năm 2003 đều quy định thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án quyết định đó. Về căn cứ kháng nghị tái thẩm: Điều 261 BLTTHS năm 1988 quy định những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là: 1). Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định hoặc lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật; 2). Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai; 3). Vật chứng hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật. BLTTHS năm 2003 còn quy định bổ sung các căn cứ như: biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác bị giả mạo hoặc không đúng sự thật và những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật. Về thẩm quyền kháng nghị tái thẩm: BLTTHS năm 1988 và năm 2003 quy định việc kháng nghị tái thẩm chỉ thuộc thẩm quyền của Viện trưởng VKS cấp tỉnh và cấp Trung ương, Chánh án Tòa án không có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm. Về thời hạn kháng nghị tái thẩm, cả BLTTHS năm 1988 và năm 2003 đều quy định việc tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án phải tiến hành trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hạn kháng nghị không được quá một năm, kể từ ngày VKS nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện; còn tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian. BLTTHS năm 2003 còn quy định bổ sung về thời hạn kháng nghị tái thẩm về dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. 1.5. Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong luật TTHS một số nước trên thế giới 1.5.1. BLTTHS Liên bang Nga [81] BLTTHS Liên bang Nga quy định hai thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL là: - Thủ tục giám đốc thẩm: Theo Điều 402 thì người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người được Tòa án tuyên vô tội, người bào chữa của họ, người bị hại, người đại diện của họ... đều có quyền kháng cáo yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL; Kiểm sát viên VKS có quyền kháng nghị yêu 10 cầu xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo Điều 404 và Điều 405 thì kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm được gửi trực tiếp cho Tòa án cấp giám đốc thẩm có thẩm quyền và việc xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm không được phép làm xấu hơn tình trạng ban đầu của người bị kết án. Sau khi nghiên cứu kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm, Thẩm phán ra một trong những quyết định sau: 1). Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm; 2). Chấp nhận giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm và chuyển kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm để giải quyết tại Tòa án cấp giám đốc thẩm cùng với hồ sơ vụ án nếu thấy cần thiết (Điều 406). Trường hợp Tòa án cấp giám đốc thẩm không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị thì việc kháng cáo, kháng nghị tiếp theo đến Tòa án cấp giám đốc thẩm đã bác là không được phép (Điều 412). - Thủ tục tái thẩm: Theo quy định tại Điều 413 thì căn cứ để tiến hành tố tụng theo thủ tục tái thẩm là bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL có những tình tiết mới hoặc những tình tiết mới được phát hiện. Việc xét lại bản án theo thủ tục tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án là không bị hạn chế về thời gian, nhưng nếu xét lại bản án tuyên bị cáo vô tội hoặc quyết định đình chỉ vụ án hoặc bản án kết tội có hình phạt quá nhẹ hoặc cần áp dụng luật hình sự đối với người bị kết án về tội nặng hơn thì chỉ được tiến hành trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và trong thời hạn không quá 01 năm kể từ ngày phát hiện được những tình tiết mới (Điều 414). 1.5.2. Luật TTHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa [82] Luật TTHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chỉ quy định thủ tục xét xử giám đốc thẩm để xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL. Theo Điều 203 thì đương sự hoặc người đại diện pháp lý hoặc người thân thích của họ có thể nộp đơn kiện đến Tòa án hoặc VKS. TAND phải xét xử lại vụ án nếu đơn kiện của những người trên phù hợp với một trong 4 điều kiện quy định tại Điều 204. Theo Điều 205 thì trường hợp VKSNDTC phát hiện những sai sót trong bản án hoặc quyết định đã có HLPL của TAND các cấp hoặc VKS cấp trên phát hiện những sai sót trong bản án hoặc quyết định đã có HLPL của TAND cấp dưới thì có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định đó đến Tòa án cùng cấp theo thủ tục giám đốc thẩm. 1.5.3. BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức [80] BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức chỉ quy định thủ tục tái thẩm để xét lại bản án của Tòa án đã có HLPL. Trên cơ sở lợi ích của người bị kết án, 11 BLTTHS Đức có sự phân biệt căn cứ kháng nghị tái thẩm theo hai trường hợp là: vì lợi ích của người bị kết án hoặc đối với những thiệt hại của bị cáo, khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 359 và Điều 362. Điều 365 BLTTHS Đức công nhận quyền kháng cáo tái thẩm của người bị kết án và quyền kháng nghị tái thẩm của cơ quan công tố. Về hình thức yêu cầu mở thủ tục tái thẩm có thể được trình bày bằng văn bản hoặc bằng lời (khoản 2 Điều 366). Kháng nghị tái thẩm của cơ quan công tố phải làm thành văn bản. Nội dung yêu cầu mở thủ tục tái thẩm phải thể hiện rõ các căn cứ pháp luật để mở thủ tục tái thẩm và các tài liệu, chứng cứ có liên quan. Vì lợi ích của người bị kết án, quyết định tái thẩm không thể làm xấu đi tình trạng của người này. Nghiên cứu về pháp luật TTHS một số nước trên thế giới và lịch sử hình thành, phát triển các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam liên quan đến công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, chúng ta có thể rút ra một số bài học trong quá trình xây dựng và hoàn thiện BLTTHS Việt Nam, đó là: Thứ nhất, giúp chúng ta có một cách nhìn toàn diện, thấy được những ưu điểm, hạn chế trong các quy định đó, để kế thừa và phát triển trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định của BLTTHS. Thứ hai, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị của nước ta; phù hợp với tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn lịch sử, đảm bảo tính khả thi, đảm bảo công bằng trước pháp luật và pháp chế XHCN. Thứ ba, công tác này còn phải đảm bảo tính khoa học, tránh mâu thuẫn, chồng chéo với các ngành luật khác; cần tham khảo kinh nghiệm lập pháp và nội dung một số quy định tiến bộ của các nước trên thế giới liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Chương 2 THỰC TRẠNG KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Thực trạng pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 2.1.1. Kháng nghị giám đốc thẩm 2.1.1.1. Tính chất của giám đốc thẩm [48] Theo quy định tại Điều 272 BLTTHS thì “Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án”. Như vậy, cơ sở pháp lý để phát sinh thủ tục giám đốc thẩm là kháng nghị giám đốc thẩm của người có thẩm quyền, còn căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm là 12 những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 273 BLTTHS. 2.1.1.2. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm [48] Điều 273 BLTTHS quy định các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm, đó là: Căn cứ thứ nhất: Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ. Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện là việc điều tra xét hỏi không khách quan, không xét hỏi đầy đủ các tình tiết của vụ án, mà chỉ thiên về một hướng. Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa không đầy đủ thể hiện ở việc thẩm vấn, tranh tụng tại phiên tòa không làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm hoặc không triệu tập đầy đủ người tham gia tố tụng, như người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự... làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của họ và việc giải quyết vụ án. Căn cứ thứ hai: Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Tình tiết khách quan của vụ án là những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ và không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Khi giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử đã có những nhận định, đánh giá, kết luận mang tính chủ quan, không phù hợp với chứng cứ khách quan đã thu thập được trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét, làm rõ tại phiên tòa, dẫn đến sai lầm nghiêm trọng và phải kháng nghị giám đốc thẩm. Căn cứ thứ ba: Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử. Đây là việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định bắt buộc của BLTTHS, xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Các vi phạm này rất đa dạng, có thể xảy ra ở cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử hoặc chỉ xảy ở một trong những giai đoạn tố tụng nói trên như: khởi tố vụ án hình sự theo các tội danh quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS, nhưng không có yêu cầu của người bị hại; không trưng cầu giám định cơ quan chuyên môn để xác định nguyên nhân chết người, cơ chế gây thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc chất độc, chất ma túy, tiền giả; không có luật sư bào chữa trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo khoản 2 Điều 57 BLTTHS; truy tố sai thẩm quyền hoặc truy tố người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; xét xử sai thẩm quyền, vi phạm quy định về giới hạn xét xử theo Điều 196 BLTTHS; xác định sai tư cách người tham gia tố tụng Căn cứ thứ tư: Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS. Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS xảy ra rất đa dạng, 13 bao gồm cả những sai lầm trong việc áp dụng phần chung và phần các tội phạm của BLHS như: hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm, đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng vẫn bị kết tội; kết án không đúng tội danh, áp dụng điều khoản của BLHS không đúng, cho bị cáo hưởng án treo không đúng quy định của BLHS, buộc người không có trách nhiệm bồi thường phải bồi thường thiệt hại hoặc quyết định về mức bồi thường không đúng pháp luật... 2.1.1.3. Phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định đã có HLPL [48] Theo quy định tại Điều 274 BLTTHS thì người bị kết án và mọi công dân, cơ quan, tổ chức đều có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, giải quyết. Đối với Tòa án và VKS, không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL để thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm biết. 2.1.1.4. Thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm [48] Về thông báo kháng nghị giám đốc thẩm. Theo Điều 277 BLTTHS thì kháng nghị giám đốc thẩm phải được gửi cho Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định bị kháng nghị, Tòa án sẽ xét xử giám đốc thẩm, người bị kết án và những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc kháng nghị . Nếu không có căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm thì trước khi hết thời hạn kháng nghị, người có quyền kháng nghị phải trả lời cho người hoặc cơ quan, tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị. Về bổ sung kháng nghị, rút kháng nghị giám đốc thẩm. Theo Điều 277 BLTTHS thì trước khi bắt đầu phiên tòa giám đốc thẩm, người đã kháng nghị có quyền bổ sung kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị hoặc rút kháng nghị. Như vậy, tại phiên tòa giám đốc thẩm, người đã kháng nghị không có quyền bổ sung kháng nghị hoặc rút kháng nghị, nếu xét thấy kháng nghị không có căn cứ thì Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị. 2.1.1.5. Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm [48] Theo Điều 275 BLTTHS thì việc kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có HLPL (trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC) thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án, Viện trưởng VKS cấp tỉnh và cấp Trung ương, nhưng được phân cấp cụ thể. Đây không chỉ là quyền hạn mà còn là trách nhiệm của người có thẩm quyền kháng nghị. 2.1.1.6. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm [48] 14 Theo Điều 278 BLTTHS thì kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án như kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại về tội danh nặng hơn, tăng hình phạt... thì chỉ được tiến hành trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án, quyết định có HLPL; còn kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án như xem xét về tội danh nhẹ hơn, chuyển từ tù giam sang cho hưởng án treo hoặc áp dụng hình phạt nhẹ hơn như cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo... thì có thể tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. 2.1.2. Kháng nghị tái thẩm 2.1.2.1. Tính chất của tái thẩm [48] Theo Điều 290 BLTTHS thì thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có HLPL, nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. Do đó, nếu trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã biết những tình tiết đó, nhưng do nhận thức, đánh giá không đúng về vụ án nên đã ra bản án trái pháp luật, thì đó không phải căn cứ để xem xét, kháng nghị tái thẩm. 2.1.2.2. Căn cứ kháng nghị tái thẩm [48] Theo quy định tại Điều 291 BLTTHS thì các căn cứ để kháng nghị tái thẩm là: Căn cứ thứ nhất: Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật. Trong nhiều vụ án hình sự, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và lời dịch của người phiên dịch là hết sức quan trọng trong việc xem xét trách nhiệm hình sự của bị cáo và giải quyết vụ án đúng pháp luật. Tuy nhiên, sau khi bản án, quyết định có HLPL mà phát hiện lời khai của người làm chứng, kết luận giám định hoặc lời dịch của người phiên dịch không đúng có thể dẫn đến làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đó thì phải kháng nghị tái thẩm. Căn cứ thứ hai: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai. Khi giải quyết vụ án, những người tiến hành tố tụng trên có thể có những kết luận không đúng về các tình tiết của vụ án, nhưng không phải mọi trường hợp đều kháng nghị tái thẩm, mà “chỉ những kết luận do cố ý có tính chất phạm tội của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân mà khi ra bản án Tòa án không biết được thì mới là tái thẩm” [33, tr.112]. 15 Nếu do trình độ, năng lực yếu kém của những người trên dẫn đến có kết luận không đúng về vụ án thì không xem xét theo thủ tục tái thẩm. Căn cứ thứ ba: Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật. Trong TTHS, một số hoạt động tố tụng bắt buộc phải được lập biên bản, theo đúng trình tự, thủ tục và thành phần tham gia như: biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản hỏi cung bị can, biên bản phiên tòa... Nếu sau khi bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL mới phát hiện ra vật chứng hoặc biên bản về các hoạt động tố tụng nói trên bị giả mạo hay không đúng sự thật, có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đó thì phải kháng nghị tái thẩm. Căn cứ thứ tư: Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật. Đây là quy định mở để dự liệu cho những tình tiết mới khác có thể phát sinh. Thực tiễn kháng nghị tái thẩm cho thấy, một số trường hợp người bị kết án đã nhận tội thay cho người khác hoặc mạo danh tên của người khác hay khai báo không đúng về lý lịch cá nhân của mình, mà các cơ quan tiến hành tố tụng không biết và đã xác định không đúng về lý lịch tư pháp của người bị kết án. Sau khi bản án có HLPL mới phát hiện ra nên phải kháng nghị tái thẩm. 2.1.2.3. Việc thông báo, xác minh những tình tiết mới được phát hiện Theo Điều 292 BLTTHS thì mọi cơ quan, tổ chức và công dân đều có quyền phát hiện những tình tiết mới để thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm. Sau khi tiến hành xác minh, nếu có căn cứ kháng nghị tái thẩm thì Viện trưởng VKS ra quyết định kháng nghị tái thẩm; nếu không có căn cứ thì Viện trưởng VKS trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị. 2.1.2.4. Thẩm quyền kháng nghị tái thẩm [48] Điều 293 BLTTHS quy định việc kháng nghị tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có HLPL (trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC) chỉ thuộc thẩm quyền của Viện trưởng VKS cấp tỉnh và cấp Trung ương; còn Chánh án Tòa án không có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm. 2.1.2.5. Thời hạn kháng nghị tái thẩm [48] Theo quy định tại Điều 295 BLTTHS thì thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án và kháng nghị về vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được quy định giống như thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm; còn kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và 16 thời hạn kháng nghị không được quá một năm, kể từ ngày VKS nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện. 2.2. Thực tiễn thực thi kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 2.2.1. Kết quả đạt được trong kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm Từ năm 2009 đến năm 2013, toàn ngành Tòa án đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm tổng số 362.115 vụ án hình sự với 614.558 bị cáo [58-62], nhưng chỉ có 1.089 vụ án với 1.845 bị cáo bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Kết quả giải quyết kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thể hiện qua bảng thống kê sau đây: Bảng 2.1. Số lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Chánh án Tòa án và Viện trưởng VKS các cấp đã được giải quyết Năm Kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm Đã xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm Tỷ lệ (Vụ) Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 2009 217 341 185 283 85,2% 2010 210 380 163 302 77,6% 2011 201 323 164 257 81,5% 2012 193 308 144 225 74,6% 2013 268 493 230 403 85,8% Tổng 1.089 1.845 886 1.470 81,4% Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao. Theo số liệu thống kê trên thì từ năm 2009 đến năm 2013, trung bình mỗi năm có khoảng hơn 200 vụ án bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. So sánh với giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2003 thì riêng “VKSNDTC và VKS cấp tỉnh đã kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là 1.027 vụ án hình sự” [Dẫn theo 12, tr. 204]. Trong số kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nêu trên thì Viện trưởng và Chánh án kháng nghị là tương đương nhau, thể hiện cụ thể qua bảng thống kê sau đây: Bảng 2.2. Tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm giữa Chánh án Tòa án và Viện trưởng VKS các cấp Năm Chánh án kháng nghị giám đốc thẩm Viện trưởng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm Vụ Bị cáo Tỷ lệ (Vụ) Vụ Bị cáo Tỷ lệ (Vụ) 2009 93 151 42,9% 124 190 57,1% 2010 102 193 48,6% 108 187 51,4% 2011 114 186 56,7% 87 137 43,3% 2012 83 141 43% 110 167 57% 2013 152 245 56,7% 116 248 43,3% Tổng 544 916 49,96% 545 929 50,05% Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao. 17 Theo số liệu thống kê của TANDTC, trong số 544 vụ án hình sự do Chánh án kháng nghị giám đốc thẩm, thì Chánh án TANDTC kháng nghị là 199 vụ (chiếm tỷ lệ 36,6%) với 350 bị cáo; còn Chánh án cấp tỉnh kháng nghị 345 vụ (chiếm tỷ lệ 63,4%) với 566 bị cáo. 2.2.2. Một số tồn tại trong kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm Thứ nhất: số lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn chiếm tỷ lệ thấp trong số bản án, quyết định hình sự đã có HLPL. Trong 05 năm qua, cả Chánh án và Viện trưởng chỉ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm 1.089 vụ với 1.845 bị cáo, là chiếm tỷ lệ rất thấp so với số bản án, quyết định về hình sự đã có HLPL. Một số Tòa án và VKS cấp tỉnh có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự rất ít, thậm chí có năm không kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được vụ án nào. Thứ hai: chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tuy dần dần đã được nâng lên, nhưng vẫn còn nhiều kháng nghị không được chấp nhận hoặc bị rút trước khi mở phiên tòa. Kết quả giải quyết kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong 05 năm (2009-2013) được thể hiện qua bảng thống kê sau đây: Bảng 2.3. Kết quả giải quyết kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Chánh án Tòa án, Viện trưởng VKS các cấp Năm Rút kháng nghị (số bị cáo) Kết quả xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm (số bị cáo) Không chấp nhận kháng nghị Hủy bản án, quyết định sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại Hủy bản án, quyết định phúc thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại Hủy quyết định giám đốc thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại Hủy và đình chỉ vụ án 2009 11 44 162 56 16 5 2010 6 35 152 100 1 36 2011 20 39 157 93 0 7 2012 13 21 193 14 0 8 2013 30 14 282 76 20 3 Tổng 61 153 946 339 37 59 Nguồn: Tòa án nhân dân tố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflhs_nguyen_nhu_thang_khang_nghi_giam_doc_tham_tai_tham_trong_to_tung_hinh_su_viet_nam_5767_1946563.pdf
Tài liệu liên quan