MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM. 7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án. 7
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án . 7
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. 11
1.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong
mối quan hệ với các nguyên tắc khác. 14
1.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong
hệ thống pháp luật một số nước trên thế giới . 16
1.3.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa . 16
1.3.2. Cộng hòa liên bang Đức. 18
1.3.3. Cộng hòa liên bang Nga. 21
1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi
có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. 23
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988 . 23
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 . 25
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG.27
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành
về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án . 272
2.1.1. Chủ thể được bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. 27
2.1.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. 33
2.1.3. Các hình thức thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án . 40
2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án . 43
2.2.1. Những kết quả đạt được khi thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án . 43
2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân khi thực hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án . 46
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN. 68
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam . 68
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. 72
3.2.1. Củng cố, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự. 72
3.2.2. Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức
và kiến thức pháp luật cho những người tiến hành hình sự và
tham gia tố tụng hình sự. 75
3.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến
thức pháp luật cho nhân dân . 78
KẾT LUẬN . 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 81
26 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 572 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Nguyên tắc bình đẳng trước tòa án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tỏ vị trí, vai trò, và nêu ra một số giải pháp, kiến nghị
góp phần nâng cao hiệu quả của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng trước Tòa án.
- So sánh mối quan hệ của nguyên tắc này với các nguyên tắc khác
trong Bộ luật tố tụng hình sự.
6
- Phân tích thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự của Tòa án, chỉ ra
nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng nguyên tắc
này trong thực tiễn, từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả việc thực hiện nguyên tắc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu lịch sử nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án ở Việt Nam và quy định của pháp luật một số nước trên thế giới về
nguyên tắc này.
- Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về nội dung của nguyên tắc và
một số quy định có liên quan.
- Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án.
- Nghiên cứu để xây dựng hoàn thiện quy định của pháp luật Tố tụng
hình sự về nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án.
* Phạm vi nghiên cứu:
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được ghi nhận
trong văn bản pháp luật về tố tụng như BLTT Dân sự, BLTT Hình sự
Luận văn chỉ tập trung làm rõ nguyên tắc này dưới góc độ là một nguyên
tắc cơ bản được ghi nhận trong BLTTHS 2003, nghiên cứu thực trạng áp
dụng pháp luật trong khoảng thời gian 05 năm (từ năm 2009 đến năm
2013).
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải
cách tư pháp trong thời kỳ mới. Khóa luận sử dụng các phương pháp cụ
thể để làm rõ những nội dung cần nghiên cứu như: phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, phương pháp thống kê.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những khía cạnh lý luận, thực tiễn của nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, kết quả nghiên cứu của đề tài khẳng
định mối tương quan, bổ trợ trong việc thực hiện và áp dụng nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án với các nguyên tắc khác. Qua nghiên cứu
cũng chứng minh quyền bình đẳng trước toà án là một yếu tố quan trọng để
bảo vệ quyền con người và là một phương thức thủ tục để bảo vệ pháp
quyền, cũng như ý nghĩa quan trọng trong quá trình xét xử một vụ án đảm
bảo xác định sự thật khách quan của vụ án. Nguyên tắc này đảm bảo cho
hoạt động xét xử và nâng cao được tinh thần trách nhiệm của Tòa án cũng
như các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa
phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Chính vì vậy hoạt động xét xử nếu không được bình đẳng và công khai
thì dễ dẫn đến lạm quyền, quan liêu và tham nhũng lộng hành.
Trên cơ sở nghiên cứu nguyên tắc bình đẳng trước tòa án ở một số
nước trên thế giới và quá trình phát triển của nguyên tắc trong quá trình lập
pháp Việt Nam, phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc để đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện nguyên tắc này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong
thực tiễn. Đặc biệt xuất phát từ những bất cập của nội dung tranh luận tại
phiên tòa hiện nay, đang cần có những thay đổi, bổ sung và căn cứ vào quy
định mới của hiến pháp năm 2013 “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được đảm bảo” cần thiết phải được cụ thể hóa nguyên tắc này trong luật.
Những quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã và đang phát
huy hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả, việc tranh luận tại
phiên tòa bảo đảm tính dân chủ, khách quan. Tuy nhiên so với tình hình
đặt ra thì hoạt động tranh tụng chưa đáp ứng yêu cầu. Có phiên tòa chưa
thực sự bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác, số lượng án hủy, sửa còn nhiều. Về mặt nhận thức vẫn tồn tại
quan niệm"án bỏ túi", "án tại hồ sơ" dẫn đến tâm lý xem nhẹ hoạt động
8
tranh tụng tại phiên tòa. Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều, trong đó
có nguyên nhân từ những quy định của pháp luật về tranh tụng và bảo đảm
tranh tụng chưa rõ ràng, cụ thể nên hiệu lực chưa cao. Luận văn này làm rõ
tầm quan trọng của tranh tụng tại phiên tòa và vai trò chủ động của Kiểm
sát viên và luật sư tại phiên tòa và việc Hiến pháp quy định cụ thể, rõ ràng
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một bước tiến lớn và rất phù
hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước tòa án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
và thực tiễn áp dụng.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức về bảo đảm quyền bình
đẳng trước tòa án, song có thể hiểu một cách khái quát nhất, bảo đảm
9
quyền bình đẳng trước tòa án là việc tòa án là cơ quan có trách nhiệm bảo
đảm cho viện kiểm sát, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều
có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và
tranh luận dân chủ trước tòa.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án định hướng cho
hoạt động tố tụng hình sự mà cụ thể là hoạt động xét xử của Tòa án diễn ra
thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả cao. Nguyên tắc này góp phần bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án của các bên tham gia tố tụng. Nguyên
tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án góp phần vào việc động viên và
tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tham gia vào việc
đấu tranh phòng chống tội phạm và dân chủ hóa quá trình tố tụng. Nguyên
tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án có ý nghĩa nâng cao ý thức
pháp luật của người tham gia tố tụng, đặc biệt nâng cao tinh thần trách
nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án còn có ý nghĩa cho việc định hướng xây dựng pháp luật
tố tụng hình sự.
1.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong mối
quan hệ với các nguyên tắc khác
- Trước hết, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án là sự
cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật có mối liên
hệ mật thiết với nguyên tắc suy đoán vô tội.
- Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham
gia tố tụng (Điều 14 BLTTHS) là điều kiện cần thiết để thực hiện nguyên
tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án có mối quan hệ
với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
10
1.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong hệ
thống pháp luật một số nước trên thế giới
1.3.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Mặc dù không được quy định thành điều luật riêng biệt nhưng nội
dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được quy
định rất cụ thể trong phần thứ ba “Xét xử” của Bộ luật tố tụng hình sự
nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
1.3.2. Cộng hòa liên bang Đức
Có thể tìm thấy nội dung của nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng
trước tòa án ở phần thứ hai “Thủ tục xét xử sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng
hình sự của CHLB Đức được xây dựng, hình thành từ những năm 1890,
được bổ sung nhiều lần.
1.3.3. Cộng hòa liên bang Nga
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga, phiên tòa
là nơi diễn ra các hoạt động điều tra công khai. Hoạt động xét xử là hoạt
động điều tra chứng cứ nên tại phiên tòa các bên được bình đẳng đưa ra
chứng cứ, được xem xét đánh giá và tranh luận về giá trị chứng minh của
chứng cứ.
Qua nghiên cứu nội dung quyền bình đẳng trước Tòa án trong bộ luật
tố tụng hình sự một số quốc gia phát triển trên thế giới có thể rút ra một số
nhận xét sau: Bộ luật tố tụng hình sự các quốc gia trên đều tôn trọng
nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng triệt để.
1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988
Trong giai đoạn này, mặc dù không được ghi nhận một cách trực
tiếp trong bất cứ một văn bản tố tụng hình sự cụ thể nào song nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án đã được thừa nhận một cách gián
tiếp qua sự công nhận nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước
11
pháp luật được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 và tiếp đến là Hiến
pháp năm 1959.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003
BLTTHS của nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội thông qua và
có hiệu lực từ ngày 01/01/1989 Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
Tòa án lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại Điều 20 bộ luật này. Điều
20 BLTTHS 1988 đã chỉ rõ những chủ thể nào được bảo đảm quyền bình
đẳng trước tòa án và những khía cạnh cơ bản về mặt nội dung của quyền
bình đẳng đó. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa đầy đủ, vẫn mang tính
hình thức, chưa chỉ ra cơ chế bảo đảm cho quyền này được thực hiện.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC TÒA ÁN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành
về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
2.1.1. Chủ thể được bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Theo quy định tại Điều 19 BLTTHS các chủ thể được bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án gồm: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự.
2.1.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
Tòa án
Sự thật của vụ án chỉ có thể xác định được khách quan, toàn diện và
đầy đủ của vụ án cũng như mọi lập luận dẫn chiếu quy định của pháp luật.
12
Vì vậy Điều 19 BLTTHS năm 2003 đã quy định “Kiểm sát viên, bị cáo,
người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ
trước Tòa án”. Như vậy quyền bình đẳng giữa Kiểm sát viên và người
tham gia tố tụng có lợi ích liên quan thể hiện ở nội dung: bình đẳng đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật; bình đẳng đưa ra yêu cầu và bình đẳng tranh
luận dân chủ tại phiên tòa.
2.1.3. Các hình thức thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án
Hình thức thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án là cách thức được pháp luật tố tụng hình sự quy định về chủ thể nào có
trách nhiệm bảo đảm quyền bình đẳng trước phiên tòa cũng như các cách
thức để thực hiện quyền bình đẳng ấy.
2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án
2.2.1. Những kết quả đạt được khi thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án
Theo kết quả đạt được trong 5 năm (2009 - 2013), các Tòa án trong cả
nước đã xét xử sơ thẩm 395.639 vụ án hình sự với gần 685.980 bị cáo. Sau
khi tiến hành xét xử, Từ năm 2009 đến năm 2013 không có trường hợp nào
kết án oan người vô tội, điều đó cho thấy các bản án của Tòa án đã đảm bảo
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chất lượng công tố đã được nâng cao.
Phần lớn các bản án sơ thẩm đều được nhân dân đồng tình, được các
bên tranh tụng chấp nhận. Trong 5 năm từ năm 2009 đến năm 2013 chỉ có
khoảng 22,82 % số vụ án đã xét xử sơ thẩm bị kháng cáo phúc thẩm nhưng
đã có tới gần 16% trong số đó rút kháng cáo, tỷ lệ án sơ thẩm bị hủy và bị
sửa cũng còn rất thấp, chỉ có khoảng từ 0,5 đến 0,6% án sơ thẩm bị hủy và
khoảng 5,1 % tổng số bản án được sửa lại theo trình tự phúc thẩm. Những
13
con số này cho thấy, các quyền pháp lý của những người tham gia tố tụng
đã cơ bản được bảo đảm. Về chất lượng, toàn ngành Toà án nhân dân đã
chấp hành quy định của pháp luật về thời hạn xét xử các loại vụ án, Toà án
các cấp trong tỉnh đã quán triệt và triển khai sâu rộng việc nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên toà. Việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận
tại phiên tòa có kết quả tốt đã được nhân rộng đối với cả phiên toà xét xử
vụ án dân sự, hành chính. Các Hội đồng xét xử đã làm tốt công tác chuẩn
bị phiên tòa, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, thực hiện tốt kế hoạch xét hỏi và
tranh luận, đảm bảo cho các bên trình bày đầy đủ ý kiến của mình về
những vấn đề liên quan tới việc giải quyết vụ án. Các phán quyết của Toà
án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng, trên cơ sở xem xét khách quan,
toàn diện các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, nên chất lượng giải
quyết, xét xử tiếp tục được đảm bảo. Nhìn chung mức hình phạt được áp
dụng đối với các bị cáo đảm bảo nghiêm minh, kết hợp giữa trừng trị với
giáo dục, thuyết phục. Tòa án các cấp đã chú trọng việc đào tạo, tập huấn,
rút kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng xét xử cho Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân”.
2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân khi thực hiện nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
2.2.2.1. Những hạn chế khi thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án vẫn còn những hạn chế, thiếu sót.
Vẫn có tình trạng Tòa án không triệu tập đầy đủ thành phần tham gia
phiên tòa theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại tình
trạng hội đồng xét xử chưa thực sự khách quan, công minh trong khi thực
hiện nhiệm vụ. Việc đưa ra chứng cứ, tài liệu đồ vật còn chưa thực sự
được bình đẳng. Việc xem xét, giải quyết các yêu cầu của người tham gia
tố tụng chưa được đảm bảo đầy đủ và chưa đúng pháp luật. Việc thực hiện
quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của những người tham gia tố tụng
14
trên thực tế chưa được thực hiện tốt. Việc xét hỏi chưa đảm bảo hiệu quả,
còn phiến diện, áp đặt ý chí chủ quan của HĐXX.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa chưa thực sự là biểu hiện tập trung
nhất của quá trình tranh tụng dân chủ giữa Kiểm sát viên và luật sư bào
chữa. Tranh luận chưa thực sự sôi nổi, trong nhiều trường hợp còn diễn ra
theo kịch bản như đã định sẵn. Kiểm sát viên chưa thực hiện tốt trách
nhiệm tranh luận của mình, việc đối đáp của Kiểm sát viên đối với các ý
kiến của những người tham gia tố tụng chưa được thực hiện nghiêm túc,
đầy đủ nhưng chủ toạ phiên tòa lại không yêu cầu kiểm sát viên phải đáp
lại các ý kiến theo quy định tại Điều 218 BLTTHS.
Sự bình đẳng trong tranh luận còn chưa đảm bảo, tình trạng luật sư
tham gia còn ít vào các vụ án. Mặt khác, trong quá trình tranh luận tòa án
chưa thể hiện rõ vị trí trung tâm của mình trong quá trình xét xử cũng như
trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Một số quy định của pháp luật chưa
có sự phân định rõ ràng chức năng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn
đến sự nhầm lẫn trong việc thực hiện chức năng tố tụng của các cơ quan
tiến hành tố tụng.
Như vậy, có thể thấy tranh tụng là phần quan trọng nhất của phiên
tòa, không chủ thể tiến hành tố tụng nào được thờ ơ. Chủ tọa không tham
gia trực tiếp vào quá trình tranh tụng nhưng có nhiệm vụ dẫn dắt, lắng
nghe ý kiến các bên để đánh giá, ghi nhận trong phán quyết...
2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
* Nguyên nhân từ phía những bất cập, vướng mắc của Bộ luật tố
tụng hình sự
Thứ nhất, nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử bảo đảm
cho các chủ thể tham gia tranh tụng các quyền tố tụng bình đẳng tức là tạo
ra khả năng để các chủ thể nói chung và các bị cáo nói riêng bảo vệ một
cách có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của mình và chính nhờ vậy
mà Tòa án có thể xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ
để có thể quyết định đúng đắn về vụ án.
15
Thứ hai, mặc dù nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của những
người tham gia tố tụng trước Tòa án là nguyên tắc cơ bản nhưng vẫn còn
các điều luật chưa thống nhất với nguyên tắc này.
Thứ ba, đối với việc thu thập chứng cứ, khoản 1 Điều 65 BLTTHS
Quy định này tạo ra sự bất bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ giữa cơ
quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Từ đó tại phiên tòa, các
chủ thể sẽ không thể bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ.
Thứ tư, chức năng công tố của Viện kiểm sát không được tập trung
thực hiện, quyền bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội khó được đảm
bảo. Trên thực tế, chức năng kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát cũng
không phát huy được tác dụng.
Thứ năm, các quy định về thủ tục tố tụng còn thiếu, chưa phù hợp
và chưa thống nhất.
* Nguyên nhân trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
Theo pháp luật hiện hành, Tòa án được tổ chức theo đơn vị hành
chính, gồm 3 cấp: Tòa án tối cao, Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện trải
đều trên tất cả các tỉnh của đất nước. Thực tiễn đấu tranh và phòng chống
tội phạm cho thấy tội phạm chỉ tập trung ở những địa bàn thành thị, có
kinh tế phát triển, khu vực đông dân cư tạo ra một thực trạng là có nơi Tòa
án quá tải, có nơi Tòa án không có việc để làm. Bên cạnh đó, việc Tòa án
được tổ chức theo đơn vị hành chính còn dẫn tới hiệu quả hoạt động của
Tòa án còn chịu sự chi phối của cấp chính quyền tương đương và của cấp
ủy Đảng. Ngoài ra, Việc quy định nhiệm kỳ đối với Thẩm phán không chỉ
làm mất thời gian, tốn kém kinh tế và gián đoạn hoạt động xét xử của
Thẩm phán.
Viện kiểm sát cấp trên có thể ủy quyền cho Viện kiểm sát cấp dưới
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm một số vụ án. vấn đề
ủy quyền này đặt ra những vướng mắc trong thực hiện như Kiểm sát viên
không trực tiếp kiểm sát điều tra, việc thực hành quyền công tố tại phiên
tòa chỉ dựa trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ và có thể không nắm chắc được
16
hết các tình tiết của vụ án, hạn chế tranh luận, đối đáp tại phiên tòa dẫn
đến vi phạm quyền bình đẳng trước Tòa án.
* Nguyên nhân từ những người tiến hành và những người tham gia
tố tụng
Để thực hiện tốt công tác xét xử, đòi hỏi những người tiến hành tố
tụng phải hội tụ đủ các yếu tố: trình độ nghề nghiệp và đạo đức nghề
nghiệp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cũng
như nhận thức của cán bộ tư pháp còn mang tính hình thức, chưa chú trọng
chất lượng mà chỉ quan tâm đến số lượng.
Trong số Kiểm sát viên, Thẩm phán có không ít người sa sút về
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, thiếu bản lĩnh chính trị. Việc thực hiện
cũng như các quy định về chế định hội thẩm còn nhiều hạn chế.
Việc luật sư tham gia vào các vụ án hình sự còn hạn chế do không đủ
về số lượng, yếu về trình độ và trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp chưa
cao, trình độ và năng lực của Luật sư vẫn còn hạn chế, việc đào tạo Luật
sư còn nhiều bất cập, cơ chế đào tạo cũng như quy trình để được cấp bằng
Luật sư vẫn chưa thực sự thúc đẩy chất lượng kiến thức và kỹ năng hành
nghề luật sư. Việc quản lý việc tập sự hành nghề luật sư chưa chặt chẽ.
Hiện nay, còn rất thiếu các tổ chức giám định, đội ngũ giám định
viên, trình độ của nhiều người còn hạn chế.
Nhận thức, ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân vẫn còn
hạn chế
* Những nguyên nhân khác
Hiện nay, lương của cán bộ công chức nói chung, đặc biệt là lương
và chế độ chính sách đối với Thẩm phán, Kiểm sát viên và hội thẩm rất
thấp, không đảm bảo được chi phí cho cuộc sống hằng ngày.
Ngoài ra, với việc cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành Tòa án
phần lớn đã xuống cấp, lạc hậu, không phù hợp với yêu cầu của công tác
xét xử trong tình hình mới cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công
tác xét xử.
17
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Một là, cải cách thủ tục tố tụng hình sự theo hướng dân chủ, bình
đẳng, công khai, minh bạch. Để đạt được mục tiêu này cần phải tiếp thu
các yếu tố ưu việt của hệ thống tố tụng tranh tụng, ghi nhận nguyên tắc
tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS. Cần bổ sung một điều luật
mới quy định về nguyên tắc tranh tụng với nội dung như sau:
“Điều. Nguyên tắc tranh tụng
1.Các chức năng buộc tội, gỡ tội và giải quyết (xét xử) vụ án hình sự
là độc lập với nhau.
2. Tòa án thực hiện chức năng xét xử và tạo những điều kiện cần
thiết để các bên buộc tội và bào chữa thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của mình theo quy định của pháp luật.
3. Bên buộc tội và bên gỡ tội bình đẳng trước Tòa án”.
Hai là, cần hoàn thiện những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Trước hết, cần bổ sung thêm “quyền đưa ra chứng cứ” vào quy định
về quyền của những người tham gia tố tụng để đảm bảo tính chính xác,
đầy đủ và thống nhất với quy định tại Điều 19. Theo đó, điểm đ, khoản 2
Điều 50; điểm a, khoản 2 Điều 51; điểm a, khoản 2 Điều 52; điểm b,
khoản 2 Điều 53; điểm a, khoản 1 Điều 54; điểm đ, khoản 2 Điều 58; điểm
a, khoản 3 Điều 59 BLTTHS sẽ được bổ sung như sau: “Đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, yêu cầu”.
- Đối với chức năng của Viện kiểm sát, theo quy định tại Điều 23
BLTTHS, cần phải bỏ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát, chỉ còn chức năng công tố, tiến tới thành lập viện công tố chuyên thực
hiện hoạt động công tố. Theo đó, Điều 23 sẽ được sửa đổi bổ sung như sau:
18
“Điều 23. Chức năng của Viện Công tố
1.Viện công tố thực hành quyền công tố và chỉ đạo hoạt động điều
tra trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án
2. Viện Công tố có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật
của Tòa án và những người tham gia phiên tòa, áp dụng những biện pháp
do Bộ luật này quy định để loại trừ các vi phạm pháp luật đó nhằm bảo
đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lí kịp thời; việc khởi tố, điều
tra,truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”.
- Theo điểm d, khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào
chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào
chữa từ những cơ quan, tổ chức, cá nhân nhưng phải theo yêu cầu của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quy định này gây khó khăn cho hoạt động
bào chữa vì khi người bào chữa đã được bị can, bị cáo yêu cầu để bảo vệ
quyền lợi thì có nghĩa là họ đã mong muốn người bào chữa làm mọi biện
pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho họ, hơn nữa, khi
tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì người bào chữa mới có thể
biết được những thông tin về cá nhân, tổ chức cần thu thập tài liệu, chứng
cứ. Vì vậy, không nhất thiết phải quy định “theo yêu cầu của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo”. Ngoài ra, cần sửa đổi quy định cho Luật sư có quyền
yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập tài liệu, đồ vật, chứng cứ
liên quan đến việc bào chữa từ những cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
Được tự mình thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật. Các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm hợp tác giúp luật sư giải quyết vụ án. Theo đó, điểm
d, khoản 2 Điều 58 BLTTHS được sửa đổi như sau:
“2. Người bào chữa có quyền
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này
19
hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật
công tác; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình
bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án”
- Bổ sung Điều 191 BLTTHS theo hướng quy định cho người bảo vệ
quyền lợi của đương sự được gửi bản bảo vệ đến
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lhs_pham_thi_kim_cuc_nguyen_tac_binh_dang_truoc_toa_an_trong_luat_to_tung_hinh_su_viet_nam_7154_1946.pdf