MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.4
1. Lý do chọn đề tài.4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.8
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu .9
5. Những đóng góp của luận văn .13
6. Cấu trúc của luận văn.14
B. NỘI DUNG .16
Chương 1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC DƯỚI
THỜI TỰ ĐỨC (1848 – 1883) .16
1.1 Vài nét về quan hệ Việt Nam và Trung Quốc từ thời Gia Long đến Thiệu Trị.16
1.2. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 1848 đến 1858 .27
1.3. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 1858 đến 1883 .
1.3.1. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam . .
1.3.2. Triều đình Huế cầu viện Mãn Thanh chống thực dân Pháp .
1.3.3 Triều Nguyễn yêu cầu Mãn Thanh giúp đỡ tiễu trừ giặc phỉ nước Thanh. .
Chương 2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ PHÁP DƯỚI THỜI
TỰ ĐỨC (1848 – 1883) . .
2.1. Quan hệ giữa Việt Nam và Pháp từ đầu thế kỷ XIX đến 1848. .
2.2 Quan hệ giữa Việt Nam và Pháp từ 1848 đến 1858
.2.3. Quan hệ giữa Việt Nam và Pháp từ 1858 đến 1883 .
Chương 3. VIỆT NAM TRONG MỐI QUAN HỆ TRUNG - PHÁP .
3.1. Thực dân Pháp từng bước hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc đối với ViệtNam . .4
3.2 Phản ứng của nhà Thanh trước cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. .
3.3 Trung – Pháp phân chia Việt Nam. .
C. KẾT LUẬN . .
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO .29
E. PHẦN PHỤ LỤC
38 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 796 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Trung Quốc và pháp dưới thời Tự Đức (1848 – 1883), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uốc
dưới triều Nguyễn.
12
Đại Nam chính biên liệt truyện (Viện sử học, 4 tập, Nxb Thuận Hoá,
Huế 1997) cũng do Quốc sử quán biên soạn vào giữa thế kỷ XIX, ghi chép
tương đối đầy đủ về sự tích, công trạng của các công thần, liệt nữ và gia phả
nhà Nguyễn trước và sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi. Nó sẽ góp phần để chúng
ta tìm hiểu về các quan triều Nguyễn đã từng là sứ thần sang Trung Quốc hay
lập công lớn trong việc dẹp giặc.
Châu bản triều Tự Đức (1848-1883) (Trung tâm nghiên cứu Quốc học,
Nxb Văn học, H, 2001) và Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu (3 tập,
Nxb Khoa học xã hội, H, 1993) tuy là những công trình chọn lọc và lược dịch
về các tấu sớ, chiếu dụ của vua Tự Đức hay chỉ là giới thiệu về các tập nhật
ký, các bài thơ đi sứnhưng nó cũng thật sự cần thiết để chúng ta đối chiếu
với các bộ chính sử của triều Nguyễn. Bổ sung cho phần này là tập Tự Đức
ngự chế văn tam tập (2 tập, Uỷ ban dịch thuật, Phủ quốc vụ khanh đặc trách
văn hoá xuất bản, 1971) do Tây Hồ Bùi Tấn Niên biên dịch và chú thích đầy
đủ cả phần chữ Hán và dịch nghĩa các bài dụ, văn tế, cáo phó, biểu, phú,
chiếu, sớdưới thời Tự Đức cho thấy khá rõ tư tưởng ngoại giao của Tự Đức
đối với Trung Hoa và với nước Pháp.
Có thể nói, các nguồn sử liệu của Việt Nam rất đa dạng, phong phú
không chỉ phản ánh được khá đầy đủ các khía cạnh của mối quan hệ Việt
Nam và Trung Quốc dưới triều Nguyễn, mà còn bổ sung cho nhau nhằm so
sánh, đối chiếu các sự kiện, để từ đó có thể tìm ra các sự kiện gần với sự thực
lịch sử nhất.
Tuy không phong phú bằng nguồn sử liệu Việt Nam, nhưng nguồn sử
liệu Trung Quốc mà chúng tôi được tiếp cận cũng hết sức quý giá. Các nguồn
sử liệu này, không chỉ soi sáng mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ
“phía bên kia” là các quan điểm, chính sách, hoạt động của nhà Thanh mà đây
13
cũng chính là một nguồn tư liệu để chúng ta kiểm tra lại những thông tin
trong chính sử triều Nguyễn trên cùng một trục thời gian.
Đại Thanh thực lục (Thanh sử) là bộ chính sử ghi chép theo lối biên niên
về toàn bộ lịch sử triều Thanh. Trong đó, một phần quan trọng là Những việc
bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thế kỷ XIX, ghi chép từ năm
1802 Gia Khánh thứ 7- triều Thanh (tương đương với Gia Long thứ 1- triều
Nguyễn) đến năm 1902 Quang Tự thứ 28- triều Thanh (Thành Thái thứ 14-
triều Nguyễn) đã được tổ phiên dịch của Khoa Lịch sử (Trường
ĐHKHXH&NV- Hà Nội) biên dịch và chú thích. Tư liệu này hiện đang lưu
giữ tại phòng tư liệu khoa, gồm có 4 quyển:
-Quyển 1: (Q.1, Ký hiệu LS-TL/ 00031)
-Quyển 2A: (Q.2A, Ký hiệu LS-TL/01492)
-Quyển 2B: (Q.2B, Ký hiệu LS-TL/01493)
-Quyển 3: (Q.3, Ký hiệu LS-TL/003300)
Một bộ tư liệu khác rất quan trọng là tác phẩm Trung- Pháp chiến tranh
(Nguyễn Trọng Hân dịch, Tập IX-XI, Tư liệu Viện thông tin khoa học xã
hội), đã cung cấp cho chúng ta những thông tin khá thú vị về một số hoạt
động của nhà Thanh đối với Pháp trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam mà
trong Đại Thanh có đề cập tới nhưng không chi tiết.
Như vậy, với những nguồn tư liệu trên, trong đó Đại Nam thực lục được
coi là nguồn tư liệu chính, chúng ta có thể nhìn nhận mối quan hệ Việt –
Trung thế kỷ XIX đặc biệt là dưới triều Tự Đức trên nhiều khía cạnh, từ cả
hai phía Việt Nam và Trung Quốc.
Bên cạnh các nguồn sử liệu đó, chúng tôi còn tham khảo nhiều công
trình, chuyên luận của các nhà nghiên cứu có đề cập đến vấn đề này.
14
Có thể nói, triều Nguyễn nói riêng và lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX nói
chung đã trở thành một trong những vấn đề lịch sử cận đại cuốn hút nhất đối
với các nhà sử học trong và ngoài nước. Trong đó chính sách ngoại giao của
triều Nguyễn là vấn đề hết sức quan trọng. Trong phạm vi của luận văn này,
chúng tôi chỉ cố gắng bước đầu tìm hiểu tới quan hệ ngoại giao giữa Việt
Nam – Trung Quốc và Việt Nam – Pháp dưới triều Tự Đức từ năm 1848 đến
năm 1883, từ đó góp phần để chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn về lịch
sử Việt Nam giai đoạn này.
5. Những đóng góp của luận văn
- Phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và
Pháp trong từng giai đoạn từ đầu thế kỷ XIX đến năm 1883, đặc biệt từ năm
1848 đến 1883, từ đó xác định những biến đổi trong mối quan hệ Việt –
Trung, Việt – Pháp qua mỗi thời kỳ.
- Phân tích, đánh giá tác động của mối quan hệ Trung – Pháp đối với
Việt Nam.
- Góp phần làm sáng tỏ chính sách ngoại giao của triều Nguyễn và
nguyên nhân triều Nguyễn để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp nửa cuối thế
kỷ XIX.
- Hệ thống lại những sự kiện lịch sử liên quan tới quan hệ giữa Việt Nam
– Trung Quốc và Việt Nam – Pháp qua các tư liệu lịch sử, đặc biệt là qua bộ
Đại Nam thực lục.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về chính sách ngoại giao từ
triều Nguyễn.
15
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm có 3 chương. Cấu trúc cụ thể của luận văn như sau:
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG (gồm 3 chương)
Chương 1: Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc dưới thời
Tự Đức (1848 – 1883)
Trước hết, luận văn phác họa một vài nét về mối quan hệ ngoại giao
giữa Việt Nam với Trung Quốc từ thời vua Gia Long đến Thiệu Trị, sau đó
tìm hiểu sâu mối quan hệ này dưới thời Tự Đức. Luận văn cố gắng thể hiện
lại mối quan hệ truyền thống với những thi thức bang giao Thiên triều –
Thuộc quốc giữa triều Nguyễn – triều Thanh qua từng thời kỳ. Đặc biệt luận
văn đi vào phân tích những biến đổi của mối quan hệ truyền thống đó dưới
triều Tự Đức, nhất là sau năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước
ta. Kỳ vọng cũng như sai lầm của triều vua Tự Đức trong mối quan hệ ngoại
giao với nhà Thanh là gì, mối quan hệ đó tác động như thế nào đến cuộc chiến
đấu chống thực dân Pháp của triều đình sẽ được luận văn làm rõ.
Chương 2: Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp dưới thời Tự Đức
(1848 – 1883)
Trong chương này, luận văn sẽ điểm qua một vài nét nổi bật về quan hệ
giữa Việt Nam và Pháp từ thời vua Gia Long đến Thiệu Trị. Đường lối ngoại
giao với Pháp được đặt nền móng từ thời Gia Long, được vua Minh Mạng và
Thiệu Trị kế thừa, củng cố sẽ phát triển như thế nào dưới thời Tự Đức. Khi
âm mưu thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam trở thành nguy cơ thực sự, triều
Nguyễn đã có những chính sách ngoại giao như thế nào với Pháp? Khi thực
16
dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, triều Nguyễn đã lần lượt ký với Pháp
các hiệp ước đầu hàng trong khi cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của
nhân dân ta vẫn diễn ra mạnh mẽ ở khắp nơi. Chính sách ngoại giao thỏa hiệp
của triều đình Huế đã phần nào đẩy nhanh quá trình đánh chiếm nước ta của
thực dân Pháp.
Từ việc phân tích chính sách ngoại giao của triều Nguyễn với Pháp,
luận văn góp phần đánh giá về trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để
nước ta rơi vào tay thực dân Pháp.
Chương 3: Việt Nam trong mối quan hệ Trung - Pháp
Chương này luận văn sẽ làm rõ mối quan hệ Trung – Pháp đã ảnh
hưởng tới Việt Nam như thế nào, những cố gắng của Pháp trong việc hạn chế
ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam, và những phản ứng của nhà
Thanh trước cuộc xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp. Trung Quốc và
Pháp đều ra sức tranh quyền ảnh hưởng của mình đối với Việt Nam. Và khi
cuộc tranh giành đó bất phân thắng bại thì hai bên đã phân chia Việt Nam mà
không cần biết tới phản ứng của Việt Nam là gì. Điều này cũng chính là hệ
quả tất yếu từ đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc và
Pháp.
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. PHỤ LỤC
17
B. NỘI DUNG
Chương 1
QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
DƯỚI THỜI TỰ ĐỨC (1848 – 1883)
1.1 Vài nét về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ thời Gia
Long đến Thiệu Trị
Đã có khá nhiều tác giả khi nghiên cứu về các vấn đề lịch sử Việt Nam,
hay về lịch sử ngoại giao Việt Nam với Trung Quốc đã ít nhiều đề cập đến
quan hệ Việt - Trung nửa đầu thể kỷ XIX. Nhưng hầu hết các tác giả đều tập
trung phân tích ý nghĩa của việc sắc phong và triều cống giữa triều Nguyễn
và triều Thanh để tìm hiểu bản chất mối quan hệ giữa hai nhà nước phong
kiến Việt Nam và Trung Quốc.
Chúng ta không phủ nhận rằng ở nửa đầu thế kỷ XIX, trong mối quan hệ
giữa Việt Nam và Trung Quốc, thì một trong những nét quan trọng nhất là
vấn đề sắc phong và triều cống- đặc trưng căn bản của quan hệ ngoại giao
Việt –Trung trong lịch sử phong kiến. Đề cập đến đặc trưng căn bản này, các
nhà nghiên cứu đều tập trung vào một số điểm:
- Lý giải nguyên nhân vì sao các triều đại phong kiến Việt Nam thường
xuyên phải xin cầu phong và chịu triều cống đối với Trung Hoa. Việt Nam là
một nước nhỏ, ở cạnh Trung Quốc lớn hơn nhiều lần và là một đế chế luôn
nuôi ý đồ thôn tính Việt Nam. Để tồn tại độc lập và sống hoà mục, các triều
đại Việt Nam đều phải chịu “thần phục” Trung Hoa. Điều này, Phan Huy Chú
cũng đã từng viết ở thế kỷ XIX: “Nước Việt ta cõi đất ở phương Nam mà
18
thông hiếu với Trung Quốc, tuy nuôi dân dựng nước có quy mô riêng, nhưng
ở trong thì xưng đế mà đối ngoại thì xưng vương vẫn chịu phong hiệu, xét lý
thực phải như thế”[7; 135]. Mặt khác, các triều đại phong kiến Việt Nam đặc
biệt là từ triều Lê trở đi, hầu hết đều chịu ảnh hưởng sâu sắc học thuyết
Khổng Mạnh, với hệ tư tưởng cốt lõi là Thiên mệnh, trong đó Thiên tử thay
trời trị dân, thống trị các nước chư hầu và thuộc quốc, cho nên các triều đại
Việt Nam đều coi Trung Quốc là Thiên triều.
- Xin phong vương và triều cống Trung Hoa là một dạng quan hệ đặc
biệt giữa nước nhỏ với nước lớn. Việc được Trung Quốc sắc phong có ý nghĩa
khẳng định tính chính thống của một ông vua, hay một triều đại mới được
thiết lập. Đồng thời nó còn khẳng định sự hợp pháp của triều đại đó đối với
Thiên triều, Thiên triều có nghĩa vụ bảo vệ an ninh, toàn vẹn lãnh thổ cho
quốc gia được phong vương, không thể vô cớ tự đem quân sang xâm chiếm.
- Nhận Trung Quốc là Thiên triều và chịu sự thần phục, nhưng điều đó
chỉ trên danh nghĩa, còn thực tế, các triều đại Việt Nam đều giữ vững quyền
tự trị độc lập của mình.
- Đây là sự thể hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo,“lấy nhu thắng
cương”của Việt Nam mà triều đại phong kiến nào cũng áp dụng trong ứng xử
với Trung Quốc.
Đến đầu thế kỷ XIX, trong mối quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, có thể
nói những biểu hiện trên vẫn còn nguyên giá trị của nó.
Trong Hội điển của triều Nguyễn đã quy định rất chặt chẽ, cụ thể những
nghi thức trong quan hệ bang giao với nhà Thanh. Cho đến trước năm 1858
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các vua Nguyễn đều thực hiện rất đầy đủ
các nghi thức trong việc xin phong và triều cống các triều đình phong kiến
Trung Hoa.
19
Dưới triều Nguyễn, mối quan hệ truyền thống với Trung Quốc vẫn được
thực hiện chủ yếu thông qua các đoàn sứ bộ. Ghi chép trong chính sử triều
Nguyễn cho biết các đoàn sứ bộ dưới ba triều vua Gia Long, Minh Mệnh và
Thiệu Trị diễn ra như sau:
Bảng 1: Các đoàn Sứ bộ được cử sang Trung Hoa từ năm 1802 đến 1847
Năm Sứ bộ Mục đích đi sứ
Nhâm Tuất
(1802)
Chánh sứ: Trịnh Hoài Đức
Phó sứ: Ngô Nhâm Tĩnh
Huỳnh Ngọc Uẩn
Mang dấu ấn vàng và sắc phong
mà nhà Thanh phong cho triều
Tây Sơn sang trả. Báo tin Nguyễn
Ánh chiến thắng Tây Sơn lập triều
đại mới
Giao nộp cho nhà Thanh 3 tên
cướp biển người Tàu [48; 495]
Chánh sứ: Lê Quang Định
Phó sứ: Lê Chánh Lộ
Nguyễn Gia Cát
Xin phong vương cho vua Gia
Long và xin đổi tên nước ta thành
Nam Việt. Vua nhà Thanh chuẩn
cho tên nước là Việt Nam.
[78; 306]
Giáp Tý
(1804)
Chánh sứ: Lê Bán Khâm
Phó sứ: Trần Minh Nghĩa
Nguyễn Đăng Đệ
Tạ ơn việc nhà Thanh cử Tề Bố
Sâm sang phong vương cho vua
Gia Long [78; 306]
Kỷ Tỵ
(1809)
Chánh sứ: Nguyễn HữuThiện
Phó sứ: Ngô Vị
Lê Đắc Tần
Tuế cống theo lệ[48; 748]
Chánh sứ: Vũ Trịnh
Phó sứ: Nguyễn Đình Chất
Nguyễn Văn Thinh
Mừng lễ ngũ Tuần Đại khánh của
vua Gia Khánh [78; 307]
20
Quý Dậu
(1813)
Chánh sứ: Nguyễn Du
Phó sứ: Trần Văn Đại
Nguyễn Văn Phong
Tuế cống theo lệ [78; 307]
Đinh Sửu
(1817)
Chánh sứ: Hồ Công Thuận
Phó sứ: Nguyễn Huy Trinh
Phan Huy Thực
Tuế cống theo lệ
[78; 307]
Kỷ Mão
(1819)
Chánh sứ: Nguyễn XuânTình
Phó sứ: Đinh Phiên
Nguyễn Hựu Bổng
Mừng lễ lục tuần Đại Khánh của
vua Gia Khánh [78; 307]
Canh Thìn
(1820)
Chánh sứ: Ngô Vị
Phó sứ: Trần Bá Kiên
Hoàng Văn Thịnh
Báo tang vua Gia Long và xin
phong vương cho vua Minh
Mạng[78; 307]
Ất Dậu
(1825)
Chánh sứ: Hoàng Kim Hoán
Phó sứ: Phan Huy Chú
Trần Chẩn
Tạ ơn việc nhà Thanh cử tổng đốc
Quảng Tây là Phan Cung Thân
sang phong vương cho Minh Mạng
năm 1821[51;91]
Chánh sứ: Hoàng Văn Quyền
Phó sứ: Nguyễn Trọng Vũ
Nguyễn Hựu Nhân
Tuế cống theo lệ[51;91]
Kỷ Sửu
( 1829)
Chánh sứ Nguyễn Trọng Vũ
Phó sứ: Nguyễn Đình Tân
Đặng Văn Khải
Tuế cống theo lệ[78;308]
Tân Mão
(1831)
Chánh sứ: Hoàng Văn Đản
Phó sứ: Trương Hảo Hợp
Phan Huy Chú
Mừng lễ Ngũ Tuần đại khánh Vua
Đạo Quang
[78;308]
21
Quý Tỵ
(1837)
Chánh sứ: Trần Văn Trung
Phó sứ: Phan Thanh Giải
Nguyễn Huy Chiểu
Tuế cống theo lệ[78;309]
Đinh Dậu
(1840)
Chánh sứ: Phạm Thế Trung
Phó sứ: Nguyễn Đức Hoạt
Nguyễn VănNhượng
Tuế cống theo lệ[78;309]
Tân Sửu
(1841)
Chánh sứ: Lý Văn Phức
Phó sứ: Nguyễn Đức Hoạt
Bùi Phụ Phong
Báo tang vua Minh Mạng và xin
phong cho vua Thiệu Trị [78;309]
Ất Tỵ
(1845)
Chánh sứ: Trương Hảo Hợp
Phó sứ: Phạm Chi Hương
Vương Hữu Quang
Tạ ơn việc nhà Thanh cử Bảo
Thang sang tuyên phong cho vua
Thiệu Trị vào năm 1842 [78;310]
Như vậy, vua Nguyễn nào lên ngôi, việc làm trước hết cũng là cử một
đoàn sứ bộ sang Trung Hoa xin được sắc phong. Theo cách đánh giá của một
giám mục phương Tây: “Lễ phong sắc đem lại uy quyền cho vua An Nam.
Trước khi phong sắc, vua An Nam chỉ mang tên quốc trưởng (người đứng đầu
trong nước) hay là (thủ lĩnh của nước) hay cũng chỉ là vương, hay vua là
cùng. Khi đã được phong sắc các vua ở Huế tự xưng là Hoàng Đế”[88; 311]
Khác với các vương triều trước đó thường thiết lập sau khi giành được
thắng lợi trong công cuộc chống giặc ngoại xâm hay phong trào giải phóng
dân tộc, nhờ đó khẳng định được tính chính thống của mình trước nhân dân,
còn triều Nguyễn đã vấp phải lòng trung thành của hầu hết các nho sĩ cũng
như nhân dân Bắc Hà đối với triều Lê. Bởi vậy, để khẳng định tính chính
thống của mình, việc được Thiên triều Trung Hoa sắc phong như các triều đại
trước càng trở nên có ý nghĩa và cần thiết. Ở một mặt nào đó, việc sắc phong
này cũng có nghĩa là công nhận sự sụp đổ hoàn toàn của triều đại Tây Sơn.
22
Ghi chép của L.Cadierè trong Hội truyền giáo Paris cho biết: “Năm 1802, khi
chiếm được Huế, thì vua tóm ngay được các ấn tín và sắc vàng của Tây Sơn
vì hấp tấp chạy mà bỏ sót lại. Gia Long gửi cho Bắc Kinh. Kết quả cuộc vận
động này rất nhanh: Tây Sơn đã bị tuyên bố thất bại”[88;307]. Trong Đại
Nam cũng cho biết, năm 1802 “vua đã cùng bầy tôi bàn việc thông sứ với
nước Thanh. Vua cho rằng: Nước ta tuy cũ nhưng mệnh đã đổi mớiNay bắt
được ấn sách của giặc Tây Sơn là do nhà Thanh phong chota có thể sai
người đưa sang trả trước và đem việc Bắc phạt báo cho họ biết, đợi khi bình
định được Bắc Hà sẽ nối lại việc bang giao cũ thì khéo hơn”[48; 495]. Cũng
trong năm 1802, nhà vua đã cử hai đoàn sứ thần sang nhà Thanh để trao trả
quốc ấn, sắc phong của Tây Sơn trước kia và để xin phong vương cho mình.
Hai đoàn sứ thần có nhiệm vụ quan trọng vì “còn yêu cầu Hoàng đế Trung
Hoa đặt tên cho nước đã được vua thống nhất” [88; 307]. Kết quả là, vua
Thanh đã ra chỉ dụ đổi tên nước ta từ An Nam thành Việt Nam, sai làm sắc
phong và khắc khuôn dấu bạc mạ vàng có khắc hình lạc đà, rồi cử quan án sát
tỉnh Quảng Tây sang Việt Nam để phong vương cho Nguyễn Phúc Ánh. Lễ
sắc phong vua Gia Long, sau này cả Minh Mệnh và Thiệu Trị đều diễn ra ở
Thăng Long- Hà Nội. Sau lễ sắc phong, các vua Nguyễn chính thức trở thành
“phiên thần” của nhà Thanh, thể hiện sự thần phục của mình bằng việc thực
hiện triều cống theo định kỳ.
Đến triều vua Minh Mệnh, năm 1839, vua Thanh đã ra chỉ dụ, quy định
triều Nguyễn 4 năm sang Thiên triều triều cống 1 lần và chỉ phải nộp một nửa
số cống vật ngày trước”[10; 81].
Ngoài ra, triều đình còn quy định rất tỉ mỉ về công văn dâng cho hoàng
đế Trung Hoa, cho các tỉnh biên giới đón tiếp sứ thần, về sứ quán, sứ thuyền
...đón rước đoàn sứ thần của Trung Quốc sang làm lễ sắc phong.
23
Tất cả những quy định đó đã nói lên nghi lễ sắc phong và triều cống
được chuẩn bị cẩn thận và có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với triều
Nguyễn. Nó tỏ rõ thái độ “thần phục” nhà Thanh của triều Nguyễn. Song
đúng như nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, dù Việt Nam thần phục nhưng
đó chỉ là trên danh nghĩa, còn thực tế Việt Nam không hề bị bó buộc vào mối
quan hệ với Thiên triều.
Mặt khác, có lẽ Mãn Thanh cũng chỉ cần duy trì mối quan hệ với các
nước phiên thuộc xung quanh bằng việc sắc phong và triều cống. Trong nửa
đầu thế kỷ XIX, nhà Thanh đã thi hành chính sách không can thiệp vào công
việc đối nội và đối ngoại của Việt Nam. Năm 1820, khi Gia Long mất, nội bộ
triều đình Huế có sự tranh giành việc nối ngôi, vua Thanh Gia Khánh đã dụ
các quân cơ đại thần: “Trước nghe Nguyễn Nguyên tâu rằng tự vương nước
Việt Nam sai sứ dâng biểu cáo phó. Rồi viên ấy lại tâu rằng nghe nói nước ấy
chú cháu tranh nối ngôi. Trẫm xét việc ấy là việc nội bộ của nước ấy, họ
muốn làm gì thì làm, thiên triều không hề can thiệp đến, làm ngơ như là
không biết đến. Các viên đốc thần biên cương chỉ nên nghiêm sức các viên
chức văn võ diên biên bí mật thăm dò tình hình nước ấy và canh phòng các
biên giới cẩn mật là được”[10; 28]. Điều này cho thấy, dù sắc phong của
Thiên triều là một nghi lễ không thể thiếu nhưng thực sự không đóng vai trò
quyết định trong việc nối ngôi của các vua triều Nguyễn, bởi triều đình Mãn
Thanh sẵn sàng tuyên phong cho bất cứ một vua Nguyễn nào mà không quan
tâm đến việc ai là người nối ngôi.
Việt Nam dự hàng phiên thuộc nên Thiên triều phải có nhiệm vụ giúp đỡ
phiên thuộc những lúc khó khăn. Nhưng trên thực tế, triều Thanh đã tìm mọi
cách để không phải can dự vào công việc của Việt Nam hay nói cách khác tìm
mọi cách để chối từ sự giúp đỡ Việt Nam (nếu Việt Nam có yêu cầu). Năm
1837, trước tình hình nổi loạn của các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình ở
24
Việt Nam đặc biệt là khởi nghĩa Nông Văn Vân, vua Thanh đã dụ các đại thần
phải canh phòng biên giới Việt – Trung hết sức cẩn mật để quân nổi loạn ở
Việt Nam không chạy sang được Trung Quốc, đồng thời căn dặn quan quân
“nếu Việt Nam không đủ sức càn quét mà xin Thiên triều viện trợ, thì phải lấy
lời lẽ nghiêm chính từ chối”[10;79]. Đến năm 1840, vua Thanh lại tiếp tục ra
lệnh quan quân phải canh giữ nghiêm ngặt biên giới Việt – Trung để “Tuyệt
đối không cho một người lính hay một người dân nước ấy vào nội địa, và
cũng không để nhân dân nội địa sang nước ấy làm càn”[10;82]
Tuy Việt Nam chịu hàng phiên thuộc, nhưng không phải Trung Quốc
không có những kiêng nể đối với Việt Nam. Trung Quốc cũng từng có ý định
nhờ vào sự giúp đỡ của Việt Nam. Năm 1841 qua lời một người lái buôn Việt
Nam ở Trung Quốc nói rằng: “Việt Nam chế được các thứ súng bắn nhanh đi
xa, và tinh tế hơn súng của nước Anh” thì vua Quang Tự đã có ý định nhờ
đến Việt Nam giúp đỡ. “Nếu thiên triều đưa thư cho nước ấy (Việt Nam) thì
nước ấy tất phải hết sức giúp đỡ. Nhưng có phải người Anh vẫn ghê sợ nước
Việt Nam hay không? Các thứ hoả khí của Việt Nam có chế ngự được người
Anh không? Việt Nam giúp ta là tự lòng thành hay còn có ý gì khác? Việc này
rất hệ trọng không nên hàm hỗn, đừng có tiết lộ”[10; 83] và triều Thanh đã
mật sai người đi dò xét. Một năm sau, vua Thanh nhận được một bản tường
trình về tình hình thuyền, súng của Việt Nam và được biết “Việt Nam đã
không thể chống cự được người Anh”. Như vậy, nhà Thanh có thể nhờ vào
mối quan hệ thuộc quốc- Thiên triều với Việt Nam, nhưng không thể bắt Việt
Nam hoàn toàn phụ thuộc vào mình, hơn nữa nhà Thanh cũng thực sự có
những lo lắng, không phải là không có những đề phòng khi có ý định dựa vào
sự giúp đỡ của Việt Nam.
Như vậy, một mặt triều Thanh chỉ chú ý tới việc sắc phong và triều cống
của Việt Nam thể hiện sự thần phục đối với mình, mặt khác triều Thanh,
25
ngoài việc duy trì mối quan hệ truyền thống này, đã tỏ ra rất e dè trong việc
đặt các quan hệ khác với Việt Nam.
Đối với triều Huế, ngoài mối liên hệ với Thiên triều bằng việc chịu nhận
sắc phong và triều cống, hầu như cũng không có mối quan tâm nào khác.
Nhưng đến những năm 40, 50 của thế kỷ XIX, những biến động của Trung
Quốc đã tác động không nhỏ đến triều Nguyễn.
Như chúng ta đã biết, ngay trong nửa đầu thế kỷ XIX, Trung Quốc đã
phải đối diện trực tiếp với sự xâm lược của các nước tư bản phương Tây, mà
trước hết là cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất (1839-1842) do Anh
gây ra. Những biến động này không phải là “triều đình Huế mù tịt không biết
một tí gì”[82; 30], mà ngược lại đã thực sự rất quan tâm. Trong những năm
cuối đời, Minh Mệnh đã liên tiếp cử các đoàn công cán sang Quảng Đông,
Hương Cảng (Trung Quốc) mượn tiếng là đi mua hàng hoá nhưng thực chất là
để dò xét tình hình nước Thanh. Ngay năm 1839, phái viên thuyền Nam Hưng
sang Quảng Đông công cán về cho biết tình hình nước Thanh là “tổng đốc
Lâm Tắc Từ kháng cự với quân Hồng mao (Anh), hai bên đều có người chết,
người bị thương, chưa biết rõ bên nào được”. Minh Mệnh cho rằng: “binh
thuyền của Hồng mao bất quá mấy chiếc, Lâm Tắc Từ đem quân toàn tỉnh
đánh sao lại không đánh nổi. Hơn nữa quân Hồng mao vượt biển mà đến,
trông lương thực vào đâu mà có thể đánh với nhà Thanh lâu được? Chẳng
qua chúng giở cái thói ngoan ngạnh, kiệt hiệt ấy ra để tỏ ý khinh nhờn đó
thôi. Nước Đại Thanh trước kia 1 lữ quân (1 lữ là 500 người) lấy được thiên
hạ, binh lực lúc đó sao hùng thế, mà bây giờ sao lại hèn yếu thế. Lòng trẫm
thực lấy làm bất bình cho nước Thanh”[64;295]. Đến năm 1840, tình hình
nước Thanh ngày càng phức tạp, vua bảo với đình thần: “Gần đây nghe nói
nước Thanh đánh nhau với nước Hồng mao đã 5, 6 tháng mà chưa thắng
được. Kể ra nước Thanh đường đường là một nước lớn, thiên hạ trông vào
26
mà lúc trước thất tín để gây chiến, còn ra thể thống gì nữa?..Người nước
Thanh cũng thật hèn yếu. Năm trước nước Hồng mao ở các hòn đảo thuộc
Quảng Đông mà chẳng nghe thấy người nhà Thanh vạch ra một kế hoạch gì,
đem một cái thuyền ra để đánh”[65;114]. Khi nhà Thanh buộc phải ký hiệp
ước Nam Kinh với Anh, Minh Mệnh nhận xét: “Người nước Thanh lợi về bạc
thuế trước mắt, cho người Tây dương lên bờ, mở 13 cửa biển để thông thương
là thất sách. Gần đây lại nhân thuốc phiện thịnh hành, thế khó ngăn
cấmCòn như bản triều ta đối với người Tây dương, họ đến cũng không cự,
họ đi cũng không theo, chỉ đối đãi coi như người di địch thôiKể ra biết tự
trị thì mạnh, có phòng bị thì không lo”[65;294]. Minh Mệnh đã cho đặt thêm
pháo đài hải phòng ở cửa biển Đà Nẵng, xây pháo đài Hổ Ky ở cửa biển Thị
Nại, còn tại đảo Côn Lôn- Vĩnh Long, đảo Phú Quốc- Hà Tiên đều đặt thêm
đồn, chia binh lính tuần phòng nghiêm ngặt.
Như vậy, trước những biến động của tình hình Trung Quốc, triều
Nguyễn không chỉ tỏ rõ thái độ rất quan tâm, mà đặc biệt còn lo phòng bị khá
chu đáo. Nhưng điều đáng nói là, việc Trung Quốc, vốn được coi là trung
tâm văn minh của thế giới, là “một nước lớn, thiên hạ trông vào”, phải chịu
thất bại trước những kẻ xâm lược vốn bị coi là man di, mọi rợ đã làm Minh
Mệnh cảnh giác cao độ, nhưng vẫn không làm thay đổi chính sách đối ngoại
của triều Nguyễn. Trong con mắt của triều Nguyễn, dù nhà Thanh có yếu
kém, có thất bại nhưng vẫn là Thiên triều, vẫn là trung tâm của văn minh. Có
lẽ vậy, nên quan hệ truyền thống với Mãn Thanh sau này vẫn rất quan trọng
đối với các vua Nguyễn. Lễ sắc phong vẫn diễn ra long trọng và việc triều
cống vẫn thực hiện hết sức đều đặn dưới các triều vua kế tiếp là Thiệu Trị và
Tự Đức.
Có thể nói, điểm nổi bật nhất trong mối quan hệ Việt Nam và Trung
Quốc nửa đầu thế kỷ XIX là quan hệ bang giao truyền thống giữa hai nhà
27
nước phong kiến diễn ra khá ổn định. Điều này chính là một nhu cầu xuất
phát từ cả hai phía.
Đối với Trung Quốc, ngay từ đầu thế kỷ XIX, tình trạng đất nước đã bộc
lộ rõ sự suy yếu, khủng hoảng và nhất là phải đối đầu trực tiếp với sự xâm
lược của các nước tư bản phương Tây. Trong hoàn cảnh đó triều đình Mãn
Thanh đã tìm cách duy trì quan hệ hữu nghị với Việt Nam, và thực hiện một
chính sách không can thiệp hay như cách gọi của nhiều nhà nghiên cứu là
“nguyên tắc cai trị mà không cai trị”.
Trong nửa đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đang ra sức xây dựng và củng
cố nhà nước phong kiến theo chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền cao độ.
Hơn nữa, cả trong chính sách đối nội và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l2_01828_3332_2003118.pdf