Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước giám
sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường
xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt các hoạt động của các
cơ quan hành chính khác cùng cấp. Qua việc giám sát này, các cơ quan quyền
lực nhà nước có thể phát hiện ra những yếu kém, khuyết điểm trong công tác
tổ chức và hoạt động cũng như những vướng mắc trong quá trình thực hiện
pháp luật và thực hiện những nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các
cơ quan hành chính nhà nước. Dựa vào những cơ sở đã đạt được cơ quan
quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những biện pháp thích hợp và thực hiện
trong thời gian cụ thể để khắc phục những khó khăn và tồn tại ấy. Cũng qua
hoạt động giám sát Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có dịp kiểm
nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản luật đã ban hành. Nếu các
văn bản luật đó có khuyết điểm về hình thức hay nội dung thì các cơ quan
quyền lực nhà nước đó phải đưa ra những biện pháp khắc phục. Và cũng
thông qua đó các cơ quan quyền lực nhà nước này cũng đưa ra những yêu
cầu và biện pháp để cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy nâng cao hiệu
quả quản lý của nhà nước. Nếu có những vi phạm pháp luật xâm phạm tới
trật tự và lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ nhà nước thì
cần phải phát hiện kịp thời và có những biện pháp xử lý nghiêm minh những
vi phạm đó để củng cố pháp chế. Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt
Nam nói chung và Tòa án nhân dân nói riêng đã phát huy được kết quả khả
quan
25 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 01/03/2022 | Lượt xem: 413 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự tại tòa án nhân dân tối cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về đổi mới tổ chức, hoạt động
thực hiện quyền tư pháp của Tòa án trong điều kiện cải cách tư pháp theo
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị, theo Hiến pháp năm 2013, BLDS, BLTTDS
năm 2015 [2].
- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận văn sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh - đối
7
chiếu, kết hợp lý luận và thực tiễn
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống, toàn
diện các vấn đề về trình tự thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự;
làm rõ những vấn đề về quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự tại TANDTC trong bối cảnh thi hành Hiến pháp 2013,
Luật TCTAND năm 2014 và BLTTDS năm 2015.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn giúp người đọc hình dung thực tiễn,
quy trình thủ tục GĐT, TT vụ án dân sự tại TANDTC; hiểu rõ quyền của
đương sự trong giai đoạn này cũng như thấy được những hạn chế, tồn tại và
nêu lên một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế về quyền của đương
sự trong giai đoạn GĐT, TT nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền của đương sự trong giám đốc
thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự.
- Chương 2: Thực trạng quyền của đương sự trong giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự tại tại Tòa án nhân dân tối cao
- Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực thiện hiệu quả quyền của đương
sự trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ
1.1. Khái niệm vụ việc dân sự.
1.1.1. Khái niệm việc dân sự
Khái niệm “vụ việc dân sự” lần đầu tiên được ghi nhận trong BLTTDS
năm 2004 và được kế thừa tại BLTTDS năm 2015. Theo quy định tại Điều 1
BLTTDS năm 2015 về phạm vi và nhiệm vụ của BLTTDS: “Bộ luật tố tụng
dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ
tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án
8
về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa
án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); ”. Để làm rõ khái
niệm “vụ việc dân sự”, trước tiên chúng ta cần làm rõ khái niệm “việc dân
sự” và “ vụ án dân sự” [16].
“Việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp nhưng
có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là
căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động”.
1.1.2 Khái niệm vụ án dân sự
“ Vụ việc dân sự là những vấn đề về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động, có yếu tố tranh chấp hoặc không tranh
chấp, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được Toà án thụ lý giải
quyết”.
1.2. Thủ tục giám đốc thẩm trong vụ việc dân sự
1.2.1 Khái niệm giám đốc thẩm:
Định nghĩa:Theo quy định tại Điều 325 BLTTDS “Giám đốc thẩm là
xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật này”.
Quy định tại Điều 326 của BLTTDS là những căn cứ, điều kiện để kháng
nghị giám đốc thẩm, đó là phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc giải quyết vụ án. Như vậy, giám đốc thẩm trong tố tụng dân
sự không phải là một cấp xét xử của Tòa án mà là thủ tục đặc biệt, xét lại bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị.
1.2.2 Thủ tục giám đốc có những nội dung sau:
a) Căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
b) Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
c) Đơn đề nghị giám đốc thẩm
d) Thủ tục nhận đơn đề nghị giám đốc thẩm
đ) Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm
e) Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm
g) Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
9
h) Thẩm quyền giám đốc thẩm
i) Phiên tòa giám đốc thẩm
k) Phạm vi giám đốc thẩm
1.3 Thủ tục tái thẩm trong vụ việc dân sự
1.3.1: Khái niệm thủ tục tái thẩm
Theo quy định tại Điều 351 BLTTDS, tái thẩm là xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được
phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa
án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó. Như
vậy, tái thẩm trong tố tụng dân sự không phải là một cấp xét xử của Tòa án
mà là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện. Tình tiết mới này có
thể làm thay đổi nội dung vụ án mà Tòa án và các đương sự không thể biết
được khi Tòa án ra bản án, quyết định. Tình tiết mới phải thỏa mãn 3 điều
kiện sau đây: Một là, tình tiết mới đó phải là tình tiết đã có vào lúc Tòa án
giải quyết vụ án mà cả Tòa án và đương sự đã không biết được; Hai là, tình
tiết mới đó phải là những tình tiết quan trọng liên quan đến vụ án có thể làm
thay đổi nội dung vụ án, làm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó
trở nên không có căn cứ và không hợp pháp; Thứ 3, tình tiết mới đó cần được
Tòa án xác định qua thủ tục tái thẩm.
1.3.2: Thủ tục tái thẩm có những nội dung sau:
a) Căn cứ kháng nghị tái thẩm
b) Thông báo và xác minh tình tiết mới được phát hiện
c) Thẩm quyền kháng nghị tái thẩm
d) Thời hạn kháng nghị tái thẩm
đ) Thẩm quyền của Hội đồng xét xử tái thẩm
e) Phiên tòa tái thẩm
1.4 Quyền của đƣơng sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ
việc dân sự
1.4.1 Khái niệm quyền của đương sự
Vậy, đương sự trong vụ việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân tham
gia vào quá trình tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước do có quyền, nghĩa vụ liên
10
quan đến vụ việc dân sự.
Đương sự tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, người
yêu cầu, người bị yêu cầu, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong
việc dân sự.
Quyền của đương sự là những quy định của pháp luật cho phép đương
sự được thực hiện những hành vi hoặc quyết định liên quan đến việc giải
quyết vụ việc dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.4.2 Khái niệm quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm
Quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự là một bộ
phận trong tổng thể quyền của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định
của pháp luật, cho phép đương sự được thực hiện những hành vi hoặc quyết
định liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục GĐT, TT nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.4.3 Ý nghĩa của việc quy định quyền đương sự trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền của đƣơng sự trong
giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
2.1.2 Giai đoạn từ năm 2005- 2011 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 có hiệu lực cho đến trước khi sửa đổi, bổ sung năm 2011)
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2012-2015 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự
sửa đổi, bổ sung năm 2011 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015)
2.1.4 Giai đoạn từ 1/7/2016 đến nay (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự
11
năm 2015 có hiệu lực đến nay)
2.2. Những quyền cơ bản của đƣơng sự trong giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự theo pháp luật hiện hành.
2.2.1 Quyền đương sự phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm.
Điều 327 BLTTDS năm 2015 quy định cụ thể về phát hiện bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm như sau:
1) Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết
định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm
quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của BLTTDS để xem xét kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm.
2) Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm
quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của BLTTDS.
3) Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh kiến nghị Chánh án Tòa án nhân
dân cấp cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân
dân cấp cao kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật nếu phát hiện có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 326 của
BLTTDS.
Như vậy, có 3 nhóm chủ thể có thể phát hiện vi phạm pháp luật trong
bản án, quyết định của Tòa án và 3 phương thức khác nhau để thể hiện
quyền, trách nhiệm trong việc chuyển tải những thông tin đó đến những
người có thẩm quyền kháng nghị GĐT,TT để xem xét và quyết định việc
kháng nghị. Thứ nhất, đối với đương sự thì có quyền đề nghị bằng văn bản;
Thứ hai, đối với Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
thì phải thông báo bằng văn bản; Thứ ba, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao thì kiến nghị. Trong 3 nhóm chủ thể đó,
chúng ta thấy chỉ có đương sự được pháp luật ghi nhận có quyền trực tiếp đề
nghị bằng văn bản đến những người có thẩm quyền kháng nghị GĐT,TT.
Trong trường hợp phát hiện tình tiết mới là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục
12
tái thẩm thì đương sự có quyền thông báo đến người có thẩm quyền kháng
nghị biết (Kh. 1, Đ.353 BLTTDS). Tuy nhiên, để bảo đảm tính ổn định trong
việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án,
BLTTHS cũng quy định thời hạn cho việc phát hiện vi phạm pháp luật trong
bản án, quyết định đối với đương sự cũng như các chủ thể khác là một năm.
Sau thời hạn một năm, nếu đương sự phát hiện ra bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án có vi phạm pháp luật, là căn cứ để kháng nghị
thì cũng không có quyền đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục GĐT,TT.
Đương sự phát hiện vi phạm pháp luật, tình tiết mới là những căn cứ của
kháng nghị GĐT,TT bằng nhiều hình thức khác nhau như nghiên cứu bản án,
quyết định, thông qua người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người đại
diện, nhân chứng để thu thập tài liệu, chứng cứ v.v [10].
2.2.2 Quyền làm đơn, nộp đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và
nhận thông báo tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự;
Quyền làm đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật theo thủ tục GĐT,TT là quyền tố tụng đầu tiên của đương sự để
khởi động tiến trình GĐT,TT vụ việc dân sự. Đơn đề nghị của đương sự phải
bảo đảm đúng về hình thức, nội dung theo quy định tại Điều 328 BLTTDS.
2.2.3 Quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm
Để chứng minh cho đề nghị kháng nghị của mình là có căn cứ, giúp
cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục GĐT,TT căn cứ vào đó ban
hành kháng nghị, BLTTDS quy định đương sự có quyền cung cấp, bổ sung
chứng cứ, tài liệu trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự tại Điều 330. Việc
cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu được đương sự thực hiện ngay khi nộp
đơn đề nghị hoặc trong cả quá trình xem xét đơn đề nghị GĐT,TT và tại
phiên tòa GĐT,TT. Đương sự có thể tự thu thập chứng cứ hoặc có đơn đề
nghị Tòa án thu thập chứng cứ.
2.2.4. Quyền nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Trường hợp người có thẩm quyền kháng nghị sau khi nghiên cứu đơn
đề nghị của đương sự thấy có đủ căn cứ, điều kiện kháng nghị thì ra quyết
định kháng nghị GĐT,TT và theo quy định tại Điều 336 BLTTDS về gửi
quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, thì quyết định kháng nghị giám đốc
13
thẩm phải được gửi ngay cho Tòa án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền, người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị.
2.2.5. Quyền được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi
được triệu tập
Được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi được triệu tập là quyền của
đương sự được quy định tại Điều 338 BLTTDS, theo đó, phiên tòa giám đốc
thẩm, tái thẩm ngoài sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp thì trường hợp
xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người đại diện hợp pháp,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố
tụng khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc
thẩm
2.2.6. Quyền trình bày ý kiến tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
khi được yêu cầu
Được quy định tại Điều 341 BLTTDS về thủ tục xét xử tại phiên tòa
giám đốc thẩm, theo đó, đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác
được Tòa án triệu tập đến phiên tòa giám đốc thẩm trình bày ý kiến về những
vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu. Trường hợp họ vắng mặt nhưng
có văn bản trình bày ý kiến thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm công bố ý
kiến của họ. Quyền của đương sự trình bày ý kiến tại phiên tòa có ý nghĩa
quan trọng trong toàn bộ nội dung quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT
vụ việc dân sự. Trình bày ý kiến tại phiên tòa GĐT,TT giúp cho đương sự
được trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong việc giải quyết vụ
việc dân sự ở trình tự GĐT,TT, qua đó, trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Quyền của đương sự trình bày ý kiến tại phiên tòa được pháp
luật bảo đảm triệt để, thể hiện ở quy định, cả trong trường hợp đương sự vắng
mặt nhưng có văn bản trình bày ý kiến thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
công bố ý kiến của họ.
2.3 Thực tiễn thực hiện quyền của đƣơng sự trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ở Tòa án nhân dân tối cao
2.3.1 Tổ chức bộ máy và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao
trong tiếp nhận, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc
dân sự
14
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao gồm:
a) Hội đồng Thẩm phán TANDTC;
b) Bộ máy giúp việc;
c) Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
Trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao, trực tiếp giải
quyết theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự là Vụ giám đốc
kiểm tra II (Vụ giám đốc kiểm tra về dân sự - kinh doanh thương mại).
2.3.2 Kết quả đạt đƣợc của việc thực hiện quyền của đƣơng sự
trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân
dân tối cao.
Nhìn tổng thể, TANDTC hàng năm tiếp nhận hàng nghìn đơn liên quan
đến vụ việc dân sự đề nghị kháng nghị GĐT,TT, đã nhanh chóng, kịp thời
giải quyết nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tỷ lệ giải
quyết thường chiếm trên 80% và không có khiếu nại, đề nghị tiếp theo. Hội
đồng thẩm phán TANDTC hàng năm đã xét xử GĐT,TT hàng trăm vụ việc
dân sự do có kháng nghị của Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC
hoặc có yêu cầu của Ủy ban thường vụ quốc hội, Ủy ban tư pháp quốc hội,
Mặt trân tổ quốc Việt Nam. Các vụ việc dân sự do Hội đồng thẩm phán
TANDTC xét xử GĐT,TT đã bảo đảm đúng pháp luật, giải quyết được những
mâu thuẫn, tranh chấp mà các bản án, quyết định của các tòa án trước đã xét
xử còn chưa giải quyết triệt để. Qua đó, quyền của đương sự cũng như lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân được
bảo đảm
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HIỆU QUẢ
QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
VỤ VIỆC DÂN SỰ
3.1 Một số khó khăn, vướng mắc trong thực hiện quyền của đương
sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân
dân tối cao.
3.1.1 Khó khăn, vướng mắc từ những quy định của pháp luật
15
3.1.2 Khó khăn, vướng mắc từ tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng và
các biện pháp bảo đảm
3.1.3 Khó khăn vướng mắc từ phía đương sự
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của
đƣơng sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa
án nhân dân tối cao.
3.2.1 Giải pháp về hoàn thiện pháp luật
Theo quy định hiện hành, đương sự không có quyền kháng cáo đối với
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, mà chỉ có quyền gửi
đơn đề nghị kháng nghị GĐT,TT. Quy định này có mặt tích cực là giữ được
tính ổn định của các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
nhưng mặt không tích cực là quyền của đương sự trong việc tự bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình không được triệt để, không được chủ động, bị hạn chế.
Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề xuất chỉnh sửa quy định của BLTTDS
theo hướng cho phép đương sự được quyền có đơn kháng cáo GĐT,TT đối
với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi có những
chứng cứ, tài liệu xác định rõ ràng bản án, quyết định đó có sai lầm, vi phạm
pháp luật nghiêm trọng. Tuy nhiên, để hạn chế việc mở phiên tòa GĐT,TT
khi có kháng cáo, cần quy định một quy trình chặt chẽ xem xét căn cứ kháng
cáo để quyết định việc mở phiên tòa hay không mở phiên tòa, do vậy, đơn
kháng cáo không phải là căn cứ bắt buộc để mở phiên tòa GĐT,TT.
Qua nghiên cứu pháp luật nước ngoài thì thấy một số nước có quy định
về việc đơn kháng cáo của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự.
Pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp có quy định: quyền kháng cáo
phá án thuộc về tất cả các bên có lợi ích trong bản án (Đ. 609 BLTTDS); đơn
kháng cáo GĐT phải được hai luật sư bên cạnh Tòa án ký tên; hoặc tại Hoa
Kỳ, đơn kháng cáo GĐT phải được một số lượng thẩm phán nhất định thuộc
TANDTC đồng ý thì mới mở phiên tòa giám đốc thẩm.
Theo pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Liên bang Nga1, từ Điều
380 đến Điều 382 đã quy định chi tiết về việc xem xét tính có căn cứ của đơn
kháng cáo, đề nghị GĐT để xác định có chuyển lên Tòa án cấp giám đốc
thẩm xét xử hay không? Cụ thể, trong thời hạn 10 ngày, Thẩm phán được
phân công sẽ trả lại đơn kháng cáo của đương sự, đề nghị giám đốc thẩm của
1
Xem Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Nga.
16
KSV nếu những đơn này không tuân thủ quy định về nội dung đơn được quy
định tại Điều 378 của Bộ luật; đơn được gửi bởi người không có quyền; quá
thời hạn kháng cáo; có yêu cầu trả lại hoặc thu hồi đơn kháng cáo, đề nghị
giám đốc thẩm trước khi bắt đầu xét xử; đơn kháng cáo, đề nghị giám đốc
thẩm vi phạm thẩm quyền xét xử. Sau đó, nếu không trả lại đơn thì trong thời
hạn 01 tháng ở Tòa án cấp giám đốc thẩm và 02 tháng ở Tòa án tối cao sẽ tiến
hành giải quyết đơn và ra một trong hai quyết định: chuyển vụ án lên xem xét
nếu nghi ngờ về tính hợp pháp của bản án, quyết định hoặc từ chối chuyển vụ
án lên xem xét nếu các lý lẽ trong đơn hoặc trong đề nghị không dẫn đến việc
hủy bỏ bản án, quyết định của Tòa án. Sau khi vụ án được chuyển lên, trong
thời hạn 02 tháng (hoặc 04 tháng đối với Tòa án tối cao), một Thẩm phán sẽ ra
quyết định từ chối đưa vụ án ra xét xử hoặc đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, một
vụ án dân sự có được đưa ra xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hay không phụ
thuộc vào việc xem xét, đánh giá theo một quy trình rất cụ thể và nhiều giai
đoạn, nhằm bảo đảm quyền lọi của đương sự, đồng thời hạn chế việc mở phiên
tòa giám đốc thẩm đối với những đơn kháng cáo, đề nghị kháng nghị thiếu căn
cứ pháp luật.
Tuy nhiên, theo xu hướng phát triển chung, trong pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam, việc trao quyền kháng cáo cho đương sự là cần thiết nhưng
đồng thời phải đặt ra những quy định phù hợp để hạn chế hiện tượng kháng
cáo tràn lan của đương sự2 [14].
Để bảo đảm tính công khai của phiên tòa GĐT,TT, cần sửa đổi, bổ sung
BLTTDS theo hướng có những quy định về việc chuyển giao quyết định đưa
vụ án ra xét xử cho đương sự trong một thời hạn nhất định trước khi mở phiên
tòa, phải triệu tập đương sự đến tham gia phiên tòa, phải có phần tranh tụng
tại phiên tòa. Với những quy định như vậy, phiên tòa GĐT,TT sẽ bớt đi tính
chất khép kín, tăng thêm sự công khai, minh bạch và việc tiếp tục tranh tụng
tại phiên tòa sẽ giúp cho HĐXX xem xét, nắm bắt được đầy đủ các tình tiết
của vụ việc, qua đó giúp cho phán quyết của HĐXX thêm đúng đắn và khách
quan, khắc phục tình trạng tiếp tục khiếu nại sau phiên tòa.
Đối với phía Viện kiểm sát tham gia phiên tòa GĐT,TT, cần sửa đổi bổ
sung theo hướng tăng quyền hạn cho KSV VKSNDTC, như tăng thời hạn
nghiên cứu hồ sơ vụ việc, quy định về thẩm quyền kiểm sát hoạt động tư pháp
2
Xem Chu Thị Hồng Nhung, Luận văn Thạc sỹ luật học, tr.45.
17
tại phiên tòa, trường hợp VKS kháng nghị thì phải quy định về việc tranh tụng
của KSV với đương sự. Đối với hồ sơ GĐT,TT việc dân sự thì thời hạn nghiên
cứu hồ sơ của VKS có thể 15 ngày là đủ để đánh giá, nhưng đối với vụ án dân
sự thì thời hạn này cần tăng thêm mới bảo đảm cho việc nghiên cứu, nắm vững
nội dung, tình tiết vụ án và tính có căn cứ của kháng nghị.
3.2.2. Tổng kết thực tiễn công tác xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
đƣa ra văn bản hƣớng dẫn pháp luật áp dụng thống nhất trong toàn hệ
thống; xây dựng hệ thống án lệ.
Hàng năm, Hội nghị tổng kết công tác TANDTC được tổ chức để đánh
giá công tác chuyên môn và tổng kết kinh nghiệm xét xử ở TANDCC và
TANDTC. Bản án GĐT, TT có chất lượng và giá trị cao hơn hẳn bản án sơ
thẩm, phúc thẩm vì nó mang tính định hướng cho việc áp dụng pháp luật
trong việc xét xử . Việc thường xuyên tổng kết thực tiễn công tác xét xử là
một nhiệm vụ quan trọng để nhìn nhận , đánh giá chất lượng xét xử, kịp thời
xây dựng văn bản hướng dẫn nghiệp vụ. Văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cũng
là một kênh hữu hiệu để công luận và xã hội giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt
động của TAND. Từ những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, những vụ án
điểm, TANDTC phát triển thành án lệ để phục vụ tốt hơn cho công tác xét xử
các loại án nói chung và án Dân sự nói riêng.
3.2.3 Giải pháp về tổ chức và bảo đảm thực hiện
Đối với Cơ quan tham mưu ở TANDTC, như Vụ giám đốc kiểm tra II,
với những khó khăn như đã phân tích ở phần trên nên chúng tôi đề xuất kiến
nghị giải pháp khắc phục, hoàn thiện như sau: Bộ máy hành chính cần tổ
chức lại theo hướng phân công các Thẩm phán TANDTC trong Hội đồng
Thẩm phán TANDTC phụ trách từng mảng việc dân sự, kinh doanh thương
mại, hành chính, lao động có thẩm quyền ký ban hành các văn bản trả lời
đơn, còn những vụ việc có đề xuất kháng nghị thì báo cáo Hội đồng Thẩm
phán TANDTC họp, xét và Chánh án TANDTC ban hành kháng nghị.
Đối với khó khăn từ phía Hội đồng thẩm phán TANDTC và từ phía
Kiểm sát viên VKSNDTC, chúng tôi đề xuất cần tăng thêm một số lượng
nhất định Thẩm phán TANDTC và Kiểm sát viên VKSNDTC để bảo đảm
không bị quá tải trong công tác xét xử GĐT,TT. Có thể là 21 người ở cả
TANDTC và VKSNDTC. Đồng thời cần phân công có tính chất ổn định
Thẩm phán, Kiểm sát viên vào các Hội đồng xét xử theo từng loại án dân sự,
kinh doanh thương mại, lao động, hành chínhphù hợp với chuyên môn
18
chuyên sâu của từng Thẩm phán, Kiểm sát viên. Những Thẩm phán
TANDTC, KSV VKSNDTC hằng năm cũng cần phải tham gia các khóa đào
tạo ngắn hạn, chuyên sâu để tăng cường nắm chắc các quy định của pháp luật
và kinh nghiệm thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự. Trên cơ sở tăng cường
chất lượng đội ngũ Thẩm phán, KSV sẽ nâng cao được chất lượng xét xử, từ
đó tăng cường bảo đảm quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc
dân sự.
Tăng cường công tác quản lý và điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân
dân tối cao trong việc giải quyết văn bản đề nghị Giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Căn cứ vào nhiệm vụ công tác thường xuyên, lãnh đạo đơn vị cần đề
ra chỉ tiêu cụ thể cho từng cán bộ, công chức trong công tác nghiên cứu hồ sơ
vụ án, đưa ra quan điểm giải quyết đơn đề nghị có hay không có căn cứ. Theo
quy chế hiện hành của Vụ Giám đốc kiểm tra II, thì mỗi công chức bình quân
5 vụ /tháng. Trong đó có những vụ việc đơn giản, vụ việc phức tạp, nhiều vụ
kéo dài do thời gian báo cáo án quá lâu, báo cáo nhiều lần, nhiều nội dung
cần làm rõ, xác minh thực tế.
- Thẩm tra viên cần nâng cao ý thức tự giác trong công tác chuyên
môn. Bời đặc thù của công tác GĐT, TT là khi có đơn yêu cầu thì TANDTC
sẽ thụ lý vụ án, phân công người nghiên cứu đề xuất. CBCC trực tiếp nghiên
cứ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quyen_cua_duong_su_trong_xet_xu_giam_doc_th.pdf