MỤC LỤC3
LỜI CẢM ƠN.1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.   
PHẦN MỞ ĐẦU.5
1. Lý do nghiên cứu .5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .7
3. Mục tiêu nghiên cứu.9
4. Phạm vi nghiên cứu.9
5. Mẫu khảo sát .10
6. Vấn đề nghiên cứu.10
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết .12
9. Kết cấu luận văn.12
CHưƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.14
1.1. Các khái niệm liên quan.14
1.1.1 Khái niệm quản lý .14
1.1.2 Khái niệm quản lý nhà nước.14
1.1.3 Khái niệm quản lý hành chính nhà nước.15
1.1.4 Khái niệm thiết chế xã hội.16
1.1.5 Khái niệm cải cách hành chính.18
1.1.6 Khái niệm dịch vụ công và dịch vụ công trực tuyến.19
1.1.7 Khái niệm CNTT.21
1.1.8 Khái niệm HTTT .21
1.1.9 Khái niệm CPĐT .23
1.2 Tin học hoá quản lý nhà nước hướng tới "nền hành chính điện tử".24
1.3 Các nội dung ứng dụng CNTT phục vụ quản lý hành chính nhà nước.26
Kết luận Chương 1 .27
CHưƠNG 2. HIỆN TRẠNG, XU THẾ TRIỂN KHAI ỨNG DỤNG
CNTT TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VÀ ĐỊNH
HưỚNG HÌNH THÀNH CPĐT.29
2.1. Tình hình triển khai ứng dụng CNTT và CPĐT tại một số nước trên thếgiới.29
2.1.1 Tại Ấn Độ .30
2.1.2 Tại Hàn Quốc .31
2.1.3 Tại Singapore.31
2.1.4 Bàn luận về kết quả .334
2.2. Tình hình triển khai ứng dụng CNTT, định hướng hình thành CPĐT
trong các cơ quan nhà nước của Việt Nam.35
2.2.1 Các giai đoạn ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước .35
2.2.2. Ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, điều hành   define
2.2.3 Ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp   defin
2.2.4 Hạ tầng kỹ thuật CNTT .   
2.2.5. Nguồn nhân lực ứng dụng CNTT.   
2.2.6. Bàn luận về kết quả .   
2.3. Tình hình ứng dụng CNTT, triển khai CPĐT ở một số Bộ, ngành tiêubiểu .   
2.3.1. Tại Bộ Công Thương.   
2.3.2 Tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh   
2.4. Hiện trạng phát triển ứng dụng CNTT và CPĐT tại Bộ KH&CN 
2.4.1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT .   
2.4.2. Các phần mềm hệ thống và dịch vụ mạng   
2.4.3. Các ứng dụng CNTT phục vụ công tác quản lý, tác nghiệp, người
dân và doanh nghiệp.   
2.4.4. Nguồn nhân lực CNTT.   
2.4.5. Bàn luận về kết quả .   
Kết luận Chương 2 .   
CHưƠNG 3. CÁC GIẢP PHÁP ĐỂ THIẾT CHẾ QUẢN LÝ CÓ THỂ
THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG CNTT TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ
HÌNH THÀNH CPĐT TẠI BỘ KH&CN .   
3.1 Tính thích ứng của thiết chế quản lý đối với việc thúc đẩy ứng dụng
CNTT trong công tác quản lý và định hướng hình thành CPĐT tại BộKH&CN.  
3.1.1 Ảnh hưởng của các văn bản quản lý chung của nhà nước đối với
việc thúc đẩy ứng dụng CNTT, CPĐT tại Bộ KH&CN  
3.1.2 Ảnh hưởng của các văn bản quản lý do Bộ KH&CN đối với việc
thúc đẩy ứng dụng CNTT, CPĐT tại Bộ KH&CN .75
3.2. Các giải pháp thúc đẩy ứng dụng CNTT trong công tác quản lý và hình
thành CPĐT tại Bộ KH&CN.   
3.2.1. Nhóm giải pháp liên quan đến việc hoàn thiện môi trường pháp lý
đảm bảo việc ứng dụng CNTT phục vụ quản lý hành chính nhà nước và
định hướng hình thành CPĐT .   
3.2.2 Nhóm các giải pháp về phát triển nguồn nhân lực   
3.2.3 Nhóm giải pháp liên quan đến phương thức tổ chức điều hành thực
hiện các dự án CNTT.   
KẾT LUẬN.   
KHUYẾN NGHỊ .   
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
40 trang | 
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 691 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Tính thích ứng của thiết chế quản lý đối với việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin và hình thành chính phủ điện tử tại Bộ Khoa học và Công nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 minh giả thuyết 
Đề thực hiện các nội dung nghiên cứu, các phương pháp nghiên 
cứu sau đã được sử dụng: 
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đề tài đã thu thập và nghiên cứu 
các liệu liên quan như: các tài liệu giảng dạy lý thuyết về khoa học 
chính sách, kết quả nghiên cứu các đề tài, dự án liên quan đến việc triển 
khai ứng dụng CNTT vào công tác quản lý nhà nước, các bài báo khoa 
học, văn bản quy phạm pháp luật liên quan. 
Phương pháp điều tra: Để xác định thực trạng việc ứng dụng 
CNTT trong công tác quản lý nhà nước tại Bộ KH&CN, đề tài đã tiến 
hành điều tra khảo sát 29 đơn vị trực thuộc Bộ KH&CN thuộc các khối 
quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp. 
Đề tài cũng có tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh 
vực CNTT và trên cơ sở các nguồn thông tin để phân tích và đề xuất các 
giải pháp thúc đẩy ứng dụng CNTT và triển khai CPĐT tại Bộ KH&CN. 
 9. Kết cấu luận văn 
Bản Luận văn gồm những nội dung chính sau: 
Phần mở đầu; 
Chương 1: Cơ sở lý luận; 
1.1 Các khái niệm liên quan 
1.2 Tin học hóa quản lý nhà nước hướng tới “nền hành chính điện 
tử 
 13 
1.3 Các nội dung ứng dụng CNTT phục vụ quản lý hành chính nhà 
nước 
Kết luận Chương 1 
Chương 2: Hiện trạng, xu thế triển khai ứng dụng CNTT trong 
công tác quản lý nhà nước và định hướng high thành CPĐT; 
2.1 Tình hình triển khai ứng dụng CNTT, CPĐT tại một số nước 
trên thế giới 
2.2 Tình hình triển khai ứng dụng CNTT, CPĐT trong các cơ quan 
nhà nước của Việt Nam 
2.3 Tình hình triển khai ứng dụng CNTT, CPĐT ở một số Bộ, 
ngành tiêu biểu 
2.4 Hiện trạng triển khai ứng dụng CNTT, CPĐT tại Bộ KH&CN 
Kết luận Chương 2 
Chương 3: Các giải pháp để thiết chế quản lý có thể thúc đẩy ứng 
dụng CNTT trong công tác quản lý và hình thành CPĐT tại Bộ 
KH&CN; 
3.1 Tính thích ứng của thiết chế quản lý đối với việc thúc đẩy ứng 
dụng CNTT, CPĐT tại Bộ KH&CN 
3.2 Các giải pháp thúc đẩy phát triển ứng dụng CNTT, hình thành 
CPĐT tại Bộ KH&CN 
Kết luận; 
Khuyến nghị; 
 14 
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
1.1. Các khái niệm liên quan 
1.1.1 Khái niệm quản lý 
Theo cách quan niệm chung nhất thì “quản lý là việc đạt được 
mục tiêu thông qua người khác”. Nhu cầu quản lý gắn với tổ chức. Tổ 
chức có thể được xem là một tập hợp từ hai người trở lên, phải phối hợp 
với nhau theo một cách thức nhất định để đạt được mục tiêu chung đã 
đặt ra. Như vậy, tổ chức, cho dù đó là chính thức hay không chính thức, 
cho dù có thể rất khác biệt về quy mô, phạm vi tác động hay cách thức 
hành động, đều có chung một yếu tố căn bản, đó là mục tiêu. Mọi tổ 
chức đều cần phân công lao động một cách khoa học và tinh thần hợp 
tác cao để đạt được mục tiêu chung. Quản lý là một điều kiện không thể 
thiếu được để tạo nên các yếu tố đó. Điều này càng đúng hơn trong bối 
cảnh thay đổi hiện nay, khi thách thức về năng lực về năng lực khảng 
định diện mạo, uy tín và tính chuyên môn hóa của từng tổ chức càng trở 
nên cao hơn bao giờ hết 
Quản lý còn có thể hiểu là hoạt động nhằm tác động một cách có 
tổ chức và có định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng nhất 
định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi con người nhằm duy 
trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã 
định.[7, tr 7) 
1.1.2 Khái niệm quản lý nhà nƣớc 
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính 
quyền lực nhà nước, sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi 
hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, do 
các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu 
hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. [7, tr 8] 
 15 
1.1.3 Khái niệm quản lý hành chính nhà nƣớc 
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động quan trọng, chủ yếu 
của quản lý nhà nước. Đó là hoạt động thực thi quyền hành pháp của 
Nhà nước, là hoạt động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà 
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của các cá nhân 
do các cơ quan trong hệ thống hành chính từ chính quyền trung ương tới 
cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà 
nước, nhằm duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp 
luật, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây 
dựng và bảo vệ tổ quốc. [7, tr 9] 
Nội dung quy trình quản lý hành chính nhà nước 
- Lập kế hoạch 
Nhiệm vụ này liên quan đến việc xác định được các mục tiêu cần 
đạt được trong tương lai và các thức, lịch trình để đạt được mục tiêu đó. 
Nội dung và phạm vi kế hoạch được quy định theo thẩm quyền. 
- Xây dựng và vận hành cơ cấu tổ chức để thực hiện nhiệm vụ 
Nhiệm vụ này liên quan đến cả nhu cầu thành lập mới (hoặc điều 
chỉnh) các đơn vị, hay cơ quan và việc đưa chúng vào hoạt động. Chức 
năng, nhiệm vụ của cả tổ chức hay của từng đơn vị, thành viên và đặc 
biệt là mối quan hệ giữa chúng cần được quy định cụ thể, hợp lý và rõ 
ràng. Đây là cơ sở cho việc thực thi, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá (cán bộ, 
tổ chức và đặc biệt là các nhà quản lý) và điều chỉnh cơ cấu tổ chức. 
- Quản lý và phát triển đội ngũ công chức, viên chức 
Khâu này liên quan đến việc xây dựng và thực hiện một hệ thống chính 
sách có thể thu hút được những người tốt nhất về làm việc cho cơ quan 
hành chính nhà nước, hay cho Chính phủ nói chung. Quan trọng hơn, để 
có thể thu hút thêm nhân tài thì một đòi hỏi rõ ràng, trước mắt là phải sử 
dụng tốt đội ngũ mà chúng ta đang có. 
 16 
- Phối hợp hoạt động 
Khâu này liên quan đến nhiệm vụ tổ chức giao tiếp trong nội bộ 
cơ quan, hệ thống và bên ngoài. Ngoài điều kiện về chức năng, nhiệm 
vụ của từng đơn vị, thành viên và đặc biệt là mối quan hệ giữa chúng 
được quy định cụ thể, hợp lý và rõ ràng, còn đòi hỏi phải có một hệ 
thống hành chính, quy trình, thủ tục nội bộ. 
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (công sở, công sản, tài chính 
công) 
- Giám sát, kiểm tra và đánh giá 
Giám sát kiểm tra là yêu cầu không thể thiếu nhằm cho phép các 
nhà quản lý hành chính nhà nước đánh giá kịp thời và đầy đủ chính 
sách, các quyết định quản lý, năng lực của nhân viên và tổ chức cũng 
như tác động của môi trường 
1.1.4 Khái niệm thiết chế xã hội 
Thiết chế xã hội là một khái niệm xã hội học [16, tr 45] 
Theo J.H.Fichter, “Đó là một phần của văn hóa, một đoạn đã 
được khuôn mẫu hóa trong nếp sống của một dân tộc”, “Những khuôn 
mẫu tác phong công khai và tiềm ẩn tự biến thành những vai trò xã hội 
do những con người đảm nhiệm và nhiều loại tương quan khác nữa giữa 
những con người với nhau, đứng đầu những tương quan đó là những 
diến tiến xã hội.” 
Fichter còn viết: “Những tương quan xã hội và những vai trò xã 
hội hợp thành những yếu tố chủ yếu của thiết chế.” 
Fichter khảng định thiết chế là một “hình trạng hoặc một sự phối 
hợp giữa những khuôn mẫu tác phong được một đa số chấp nhận và tập 
chung vào sự thỏa mãn một nhu cầu cơ bản của cộng đồng: 
Gidden A, xác định rõ: “Thiết chế bao gồm những chuẩn mực và 
những giá trị”. 
 17 
Tóm lại, có thể hiểu thiết chế là một phần của văn hóa, bao gồm 
chuẩn mực và giá trị, tạo thành một hệ thống các quan hệ ổn định, một 
khuôn mẫu xã hội biểu hiện sự thống nhất được xã hội thừa nhận nhằm 
mục đích thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội. 
Chính sách làm một thiết chế xã hội, nó bao gồm những chuẩn 
mực và những giá trị được cấu trúc thành những khuôn mẫu tác phong, 
được xã hội thừa nhận, và đóng vai trò những công cụ nhằm thỏa mãn 
những nhu cầu cơ bản của xã hội. 
Trước đây, trong giới nghiên cứu ở Việt Nam, người ta sử dụng 
hệ thống khái niệm của khoa học quản lý của Liên Xô và các nước 
XHCN, trong đó có khái niệm “cơ chế” (mechanism) và được định 
nghĩa là “Hệ thống xác định một trật tự các dạng hoạt động.” 
Chúng ta hoàn toàn có thể nghĩ rằng, khái niệm này rất có thể có 
xuất phát từ lĩnh vực cơ học. Nó có thể đã ra đời sau những cuộc cách 
mạng kỹ thuật. Con người khi đó đã xem máy móc là một thành quả cao 
nhất trong tư duy của nhân loại, và những khái niệm cơ học đó đã được 
sử dụng để mô tả các hiện tượng xã hội, và thậm chí cả các hiện tượng 
sinh học, cũng được mô tả bằng khái niệm cơ học, chẳng hạn bộ máy 
hành chính, bộ máy tiêu hóa, cơ chế quản lý, v.v.. 
Với sự xuất hiện xã hội học, khái niệm mang bản chất xã hội về 
“thiết chế” của xã hội học hoàn toàn có thể thay thế khái niệm “cơ chế” 
của cơ học. Ý nghĩa của nó có thể sẽ mềm dẻo và linh hoạt hơn về mặt 
xã hội nhiều hơn, vì chính sách không phải là phạm trù mang bản chất 
cơ học, mà mang bản chất xã hội. 
Hệ thống thiết chế quản lý 
Thiết chế quản lý là phương thức tổ chức và nguyên tắc vận hành 
phân hệ chủ thể quản lý được thể hiện bởi hệ thống các vị thế, các vai 
trò, các chuẩn mực, các giá trị của hệ thống trong việc vận hành hệ 
 18 
thống nhằm đạt tới mục đích và mục tiêu đặt ra của hệ thống. Chức năng 
của thiết chế quản lý là nhằm thực hiện các nhiệm vụ quản lý đề ra, nó 
bao gồm các chức năng tổ chức, kiểm soát, và điều tiết toàn bộ các hoạt 
động của hệ thống. Đây cũng chính là chức năng của người đứng đầu và 
các cán bộ lãnh đạo trong quản lý. 
Thiết chế quản lý bao gồm: chính sách, chiến lược và pháp luật 
[16, tr 47 
1.1.5 Khái niệm cải cách hành chính 
Có nhiều cách tiếp cận về cải cách hành chính nhà nước nên có 
nhiều định nghĩa khác nhau về cải cách hành chính nhà nước. Có tác giả 
đưa ra định nghĩa nhấn mạnh tính kế hoạch, tính mục tiêu, tính tiến bộ 
của cải cách hành chính; lại có tác giả nhấn mạnh sự phù hợp giữa các 
mục tiêu cải cách với yêu cầu đất nước 
Cải cách hành chính nhà nước là cải cách nền hành chính nhà 
nước. Nhưng tùy thuộc vào từng quốc gia, tùy thuộc vào từng thời kỳ 
lịch sử, cải cách hành chính nhà nước có thể hướng tới việc hoàn thiện 
một hoặc một số nội dung của nền hành chính nhà nước. 
Theo các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, cải cách hành 
chính nhà nước ở nước ta là trọng tâm của công cuộc xây dựng và hoàn 
thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm những 
thay đổi có chủ định của Nhà nước, các cơ quan nhà nước nhằm hoàn 
thiện thể chế của nền hành chình nhà nước để nâng cao năng lực, hiệu 
lực, kết quả hoạt động của nền hành chính nhà nước phục vụ nhân 
dân.[7. trang 77] 
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 
2001-2010 xác định nội dung cải cách bao gồm: 
- Cải cách thể chế 
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính; 
 19 
- Cải cách hành chính công 
Theo chúng tôi, ngoài các tiêu chí nêu trên, việc cải cách hành 
chính còn phải định hướng ứng dụng được CNTT và truyền thông nhằm 
làm tốt hơn việc cung cấp dịch vụ hành chính công cho người dân và 
doanh nghiệp nhờ CNTT. 
1.1.6 Khái niệm dịch vụ công và dịch vụ công trực tuyến 
Dịch vụ công được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. 
Theo nghĩa rộng, dịch vụ công là những hàng hoá, dịch vụ mà 
Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công 
bằng. Theo đó, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện 
các chức năng vốn có của Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động bah 
hành chính sách, pháp luật, toà án cho đến những hoạt động y tế, giáo 
dục, giao thông công cộng 
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch 
vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ 
can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. 
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, khái niệm dịch vụ công 
được hiểu theo nghĩa hẹp [15, trang 125]. 
Các dịch vụ công có các đặc trưng cơ bản sau: 
Thứ nhất, đó là những hoạt động phục vụ cho lợi ích chung thiết 
yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân 
Thứ hai, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội (trực tiếp 
cung ứng hoặc uỷ nhiệm việc cung ứng). Ngay cả khi Nhà nước chuyển 
giao dịch vụ này cho tư nhân cung ứng thì Nhà nước vẫn có vai trò điều 
tiết đặc biệt nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ 
này, khắc phục các điểm khuyền khuyết của thị trường. 
 20 
Thứ ba, là các hoạt động có tính chất phục vụ trực tiếp, đáp ứng 
nhu cầu, quyền lợi hay nghĩa vụ cụ thể và trực tiếp của các tổ chức và 
công dân. 
Thứ tư, mục tiêu nhằm bảo đảm tính công bằng và tính hiệu quả 
trong cung ứng dịch vụ. 
Có thể hiểu dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ công được đưa lên 
mạng. Với dịch vụ công trực tuyến, công dân, doanh nghiệp có thể thực 
hiện giao nộp các Hồ sơ hành chính cho cơ quan chính quyền, sau đó có 
thể theo dõi tiến độ xử lý và nhận thông báo trả kết quả xử lý thông qua 
Cổng thông tin điện tử của chính quyền. 
Mô hình 4 mức độ phát triển của các dịch vụ công trực tuyến 
được áp dụng đối với Việt Nam , bao gồm: 
Mức độ 1: Cổng thông tin điện tử có đầy đủ thông tin về quy trình 
thủ tục thực hiện dịch vụ, các giấy tờ cần thiết, các bước tiến hành, thời 
gian thực hiện, chi phí thực hiện dịch vụ. 
Mức độ 2: Ngoài thông tin đầy đủ như mức độ 1, cổng thông tin 
điện tử cho phép người sử dụng tải về các mẫu đơn, hồ sơ để người sử 
dụng có thể in ra giấy, hoặc điền vào các mẫu đơn. Việc nộp lại hồ sơ 
sau khi hoàn thành được thực hiện qua đường bưu điện hoặc người sử 
dụng trực tiếp mang đến cơ quan thụ lý hồ sơ. 
Mức độ 3: Ngoài thông tin đầy đủ như ở mức độ 1 và các mẫu 
đơn, hồ sơ cho phép tải về như ở mức độ 2, cổng thông tin điện tử cho 
phép người sử dụng điền trực tuyến vào các mẫu đơn, hồ sơ và gửi lại 
trực tuyến các mẫu đơn, hồ sơ sau khi điền xong tới cơ quan và người 
thụ lý hồ sơ. Các giao dịch trong quá trình thụ lý hồ sơ và cung cấp dịch 
vụ được thực hiện qua mạng. Tuy nhiên, việc thanh toán chi phí và trả 
kết quả sẽ được thực hiện khi người sử dụng dịch vụ đến trực tiếp cơ 
quan cung cấp dịch vụ. 
 21 
Mức độ 4: Ngoài thông tin đầy đủ như ở mức độ 1, các mẫu đơn, 
hồ sơ cho phép tải về như ở mức độ 2, gửi trực tuyến hồ sơ và thực hiện 
các giao dịch qua mạng như ở mức độ 3, việc thanh toán chi phí sẽ được 
thực hiện trực tuyến, việc trả kết quả có thể thực hiện trực tuyến hoặc 
gửi qua đường bưu điện. 
1.1.7 Khái niệm CNTT 
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của tin học và vai trò ngày 
càng nổi trội của thông tin sau cuộc cách mạng về quản lý, từ hai thập 
kỷ nay, thế giới đã bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của CNTT. 
CNTT được định nghĩa là công nghệ tổng hợp của 3 lĩnh vực: máy tính 
(của Tin học), truyền thông (đặc biệt là viễn thông) và các nguồn lực 
đảm bảo và phục vụ cho hoạt động của hệ thống trang thiết bị máy tính 
và truyền thông [14, tr 443]. 
CNTT đã và đang tham gia đóng góp tích cực cho sự phát triển 
của tất cả các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, kinh tế - xã hội trên phạm vi 
toàn thế giới. Đồng thời bản thân CNTT cũng đã xây dựng nên một 
ngành công nghiệp mới, mà trên thực tế, tỷ trọng của ngành công nghiệp 
này ở các nước phát triển đã tăng lên rất nhanh, có khả năng vượt qua 
nhiều ngành công nghiệp truyền thống khác. 
1.1.8 Khái niệm HTTT 
 HTTT quản lý vừa là một công cụ không thể thiếu được để điều 
hành công sở hiệu quả, lại vừa là một sản phẩm của điều hành, trên cơ 
sở đó, người ta có thể đánh giá được năng lực điều hành của đội ngũ 
quản lý. 
 Khái niệm thông tin: “Thông tin là những gì có thể giúp cho con 
người hiểu được đối tượng mà mình quan tâm”. 
 Thông tin được thể hiện qua nhiều dạng khác nhau, bao gồm: văn 
bản, âm thanh, hình ảnh động. Thông tin là một trong những nguồn lực 
 22 
quan trọng nhất của tổ chức. Nó đồng thời cũng là công cụ không thể 
thiếu được của điều hành. Tuy nhiên, thông tin chỉ thực hiện tốt được 
vai trò của mình đối với quản lý khi chúng được tổ chức một cách có hệ 
thống, phù hợp với nhu cầu của các nhiệm vụ quản lý cụ thể. 
 Khái niệm HTTT quản lý: HTTT quản lý là một tập hợp các 
CSDL và dòng thông tin được hình thành, truyền đạt, lưu trữ và sử dụng 
nhằm cung cấp các thông tin chính xác và kịp thời cho quá trình ban 
hành và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý. [7, tr 159] 
Vai trò của HTTT quản lý trong điều hành công sở: 
 - Cung cấp cơ sở dữ liệu đầy đủ, thống nhất, chính xác, đáng tin 
cậy cho việc ban hành các quyết định hành chính. 
- Cung cấp cơ sở cho việc tổ chức thực hiện các quyết định hành 
chính 
 - Là công cụ đề xây dựng, duy trì và phát triển quá trình giao tiếp 
trong công sở được liên tục và hợp lý. 
 - Giúp cho các nhà quản lý, lãnh đạo thích ứng được với những 
thay đổi của quá trình xử lý thông tin. 
- Đảm bảo tính an toàn, toàn vẹn dữ liệu 
Ngày nay, máy tính đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây 
dựng các HTTT. Nói HTTT là nói đến HTTT có sử dụng máy tính. 
HTTT sử dụng máy tính trong các hoạt động nhờ các chương trình phần 
mềm thích hợp. 
Xây dựng HTTT bao gồm việc xây dựng bộ chương trình phần 
mềm và sử dụng phần mềm này để xử lý, chế biến các dữ liệu thành 
thông tin (tức là xây dựng HTTT) hỗ trợ cho các hoạt động nghiệp vụ. 
Việc xây dựng các HTTT phục vụ cho quản lý chính nhà nước là nội 
dung chủ yếu của quá trình tin học hoá quản lý" 
Các HTTT phục vụ QLHCNN có thể chia làm 2 nhóm chính: 
 23 
Nhóm 1: Các hệ thống phục vụ điều hành quản lý trong các 
CQNN 
Nhóm 2: Các HTTT phục vụ dịch vụ công 
1.1.9 Khái niệm CPĐT 
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau cho nên cũng có nhiều định 
nghĩa về CPĐT. Ta xem xét 2 cách tiếp cận sau: 
Cách tiếp cận 1: Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới: 
CPĐT là việc các cơ quan của Chính phủ sử dụng một cách có hệ 
thống CNTT và viễn thông để thực hiện các quan hệ với công dân, với 
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Nhờ đó, giao dịch của các cơ quan 
Chính phủ với công dân và các tổ chức sẽ được cải thiện, nâng cao chất 
lượng. Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính 
công khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí. [14, 
tr 455] 
Với cách tiếp cận này CPĐT bao hàm ba yếu tố: 
- Vận dụng CNTT và truyền thông 
- Nhằm cải thiện giao dịch giữa nhà nước với công dân và doanh 
nghiệp 
- Giảm chi phí và bớt tham nhũng thông qua tăng cường công 
khai và minh bạch 
Cách tiếp cận 2. CPĐT là sự tối ưu hoá liên tục việc chuyển giao 
các dịch vụ, sự tham gia của các thành phần và sự cai quản của nhà 
nước bởi việc chuyển đổi các quan hệ bên trong và bên ngoài thông qua 
công nghệ, Internet và các phương tiện mới [14, tr 456]. 
Các thành phần bên ngoài ở đây chỉ các dịch vụ trực tuyến (online 
services) đối với công dân hay doanh nghiệp; còn quan hệ bên trong để 
chỉ các hoạt động của chính phủ từ các công chức của bộ máy nhà nước. 
 24 
Cách tiếp cận thứ 3. Theo nhiều tài liệu kinh điển được các quốc 
gia chấp nhận, CPĐT gồm 2 vấn đề : 
- Đưa CNTT vào ứng dụng trong nội bộ các cơ quan công quyền 
và giữa cá cơ quan công quyền nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của 
nội bộ các cơ quan công quyền. 
- Ứng dụng CNTT trong việc cung cấp dịch vụ công, hình thành 
hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến nhằm nâng cao mối quan hệ 
giữa người dân, doanh nghiệp với chính phủ, và qua đó người dân có 
điều kiện tốt hơn tham gia vào ác hoạt động của CP nhất là việc hoạch 
định chính sách. 
Từ đó CPĐT hướng tới mục tiêu phục vụ và giải quyết các mối 
quan hệ: 
- Nội bộ các cơ quan chính phủ (G2G): Government to 
Government; 
- Chính phủ với doanh nghiệp, tổ chức (G2B): Government to 
Business; 
- Chính phủ với công dân (G2C): Government to Citizen và 
- Chính phủ với các nhân viên của mình (G2E): Government to 
Employee. 
Việc ứng dụng CNTT để dần hình thành CPĐT tại Bộ KHCN cũng 
phải tuân theo các định hướng chung này. 
 1.2 Tin học hoá quản lý nhà nƣớc hƣớng tới "nền hành chính 
điện tử" 
Quá trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước chính là quá 
trình hướng đến "nền hành chính điện tử". Đầu tiên tin học hoá quản lý 
hành chính nhà nước nhằm phục vụ việc nâng cao hiệu quả của các hoạt 
động bên trong của các cơ quan Chính phủ (tin học hoá hướng vào 
trong). Song tin học hoá không chỉ đơn giản là sử dụng CNTT để hỗ trợ 
 25 
và tự động hoá các quy trình đang tồn tại. CNTT tạo ra khả năng mới 
trong việc trao đổi và liên kết các tổ chức và các cá nhân lại với nhau và 
từ đó có thể hỗ trợ cho việc tổ chức lại các quá trình hoạt động. Như 
vậy, tin học hoá tạo điều kiện cho nhà nước tiến hành những thay đổi 
căn bản trong cấu trúc tổ chức và xây dựng các dịch vụ phục vụ dân 
chúng, nhằm hoàn thiện mối quan hệ của Chính phủ với cộng đồng bên 
ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp và nhân dân. Mục tiêu của tin học 
hoá không chỉ là dừng lại ở mức tin học hoá hướng vào trong các cơ 
quan nhà nước, mà điều quan trọng là nó sẽ mang lại một mô hình mới 
về cung cấp dịch vụ của Chính phủ hiệu quả hơn thông qua việc sử dụng 
CNTT (tin học hoá hướng ra ngoài). Tin học hoá hướng ra ngoài là mục 
tiêu của nhiều Chính phủ hiện nay và là con đường hướng tới nền "hành 
chính điện tử". Hành chính điện tử là cách thức qua đó các Chính phủ sử 
dụng công nghệ mới để làm cho người dân tiếp cận các thông tin và dịch 
vụ do Chính phủ cung cấp một cách thuận tiện hơn, để cải thiện chất 
lượng dịch vụ và mang lại các cơ hội tốt hơn cho người dân trong việc 
tham gia vào các thể chế và tiến trình dân chủ. Hành chính điện tử mang 
lại cho công dân những dịch vụ do Chính phủ cung cấp có chất lượng tốt 
hơn, chi phí phải chăng cũng như một mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa 
công dân và Chính phủ. 
Có thể sơ bộ hình dung tiến trình dẫn đến “CPĐT” trải qua 4 giai 
đoạn: Giai đoạn đầu tiên là các cơ quan chính phủ sử dụng Internet để 
giới thiệu về cơ quan mình, phục vụ nhu cầu tìm hiểu thông tin của các 
doanh nghiệp và của nhân dân nói chung. Nhiều chính phủ trên thế giới 
đang ở giai đoạn này. Có hàng nghìn Web site được xây dựng để phục 
vụ nhu cầu truyền thông “một chiều” này. 
Trong giai đoạn tiếp theo, những Web site này trở thành công cụ 
để trao đổi “hai chiều”, cho phép nhân dân thông báo cho chính phủ về 
 26 
những thay đổi của bản thân họ, chẳng hạn như thay đổi địa chỉ, chuyển 
chỗ làm v.v... mà không cần phải gọi điện thoại hay ra trình báo ở công 
an. Nhiều Web site đã thực hiện được chức năng này, tuy nhiên đa phần 
trong số đó vẫn phụ thuộc vào email. 
Trong giai đoạn thứ ba, các Web site cho phép thực hiện được 
những trao đổi chính thức hoá và có giá trị cao hơn, đó là việc cung cấp 
các dịch vụ công qua mạng, chẳng hạn như việc đăng ký kinh doanh, xin 
cấp một loại giấy phép,.... Những Website này thay thế một phần công 
việc trước đây do các nhân viên chính phủ thực hiện. Chúng bắt đầu 
thách thức qui trình và thói quen làm việc truyền thống. 
Trong giai đoạn thứ tư, một cổng duy nhất kết hợp tất cả các loại 
hình dịch vụ của chính phủ được xây dựng. Cổng này dựa trên nhu cầu 
và chức năng chứ không phụ thuộc vào phòng ban nào cả. Một đăng 
nhập và mật khẩu duy nhất cho phép người dân liên lạc được với bất kỳ 
bộ phận nào của chính phủ để yêu cầu giải quyết công việc. 
Trong các giai đoạn cao của CPĐT, quá trình xây dựng đồng thời 
cũng là quá trình cải biển, tổ chức lại toàn bộ Chính phủ và các cơ quan 
quản lý nhà nước cho phù hợp. 
 1.3 Các nội dung ứng dụng CNTT phục vụ quản lý hành chính 
nhà nƣớc 
Ứng dụng CNTT phục vụ quản lý hành chính nhà nước là một 
lĩnh vực tổng hợp gồm nhiều nội dung có quan hệ mật thiết qua lại với 
nhau, không thể tách rời, mỗi nội dung đều là yếu tố quyết định đến tính 
hiệu quả và sự thành công. Các nội dung chính của ứng dụng CNTT 
trong quản lý hành chính nhà nước là: 
Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT: bao gồm các mạng máy 
tính và truyền thông, các thiết vị ngoại vi để các ứng dụng tin học hoá 
hoạt động trên đó. 
 27 
Chuẩn bị nguồn nhân lực: cả năng lực quản lý, năng lực chuyên 
môn nghiệp vụ lẫn kỹ năng sử dụng mạng máy tính và các phần mềm 
ứng dụng để có thể tham gia vận hành các quy trình đã được tin học hoá 
Chuẩn hoá thông tin và nội dung thông tin: Rà soát, sắp xếp lại tổ 
chức một cách hợp lý; chuẩn hoá các nội dung thông tin, các quy trình 
quản lý, quy trình nghiệp vụ, dịch vụ hành chính công; chuẩn hoá các 
phương thức tích hợp, trao đổi thông tin để làm cơ sở cho việc xây dựng 
và triển khai các ứng dụng tin học hoá đạt được hiệu quả cao. 
Xây dựng và triển khai các HTTT để tin học hoá các quy trình 
quản lý hành chính, quy trình nghiệp vụ, các quy trình dịch vụ hành 
chính công... Xây dựng các CSDL cung cấp thông tin phục vụ quản lý. 
Ban hành các văn bản về cơ chế, chính sách liên quan đến ứng 
dụng CNTT, các quy định vận hành và sử dụng các quy trình quản lý, 
quy trình nghiệp vụ, dịch vụ đã được tin học hoá, các quy định về cung 
cấp, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin dữ liệu điện tử trong hệ thống 
các cơ quan Nhà nước. 
 Kết luận Chƣơng 1 
Chương 1 đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về thiết 
chế quản lý và các nội dung tin học hóa quản lý hành chính nhà nước 
liên quan đến Luận văn, đặc biệt là các vấn đề làm nền tảng để phát triển 
ứng dụng CNTT phục vụ công tác quản lý nhà nước và phát triển 
CPĐT. 
Những nghiên cứu trong chương này sẽ là cơ sở cho việc phân 
tích những ảnh hưởng của các th
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
v_l2_01834_7604_2003123.pdf