Chuyên đề Quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà kinh tế- Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ

MỤC LỤC

PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU

PHẦN II : THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ KINH TẾ-TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ 1

2.1. Vài nét khái quát về tranh chấp kinh tế, thương mại và giải quyết Tranh chấp Kinh tế, Thương mại tại Toà án 2

2.2. Khái niệm, ý nghĩa và ưu nhược điểm của phương

thức giải quyết tranh chấp tại Toà án 3

2.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương

mại của Toà kinh tế 4

PHẦN III : QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP

KINH TẾ, THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ KINH TẾ- TOÀ ÁN NHÂN

DÂN TỈNH PHÚ THỌ 5

3.1. Giới thiệu về Toà kinh tế-Toà án nhân dân Tỉnh

Phú Thọ 6

3.2. Thực tiễn qua gần 10 năm xét xử của Toà

kinh tế_Toà án nhân dân Tỉnh Phú Thọ 7

PHẦN IV : NHỮNG VẤN ĐỀ VƯỚNG MẮC TRONG

GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI

TẠI TOÀ KINH TẾ-TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ 8

4.1 . Vấn đề nhận dạng tranh chấp kinh tế, thương mại

với yêu cầu về kinh doanh, thương mại tại Toà án . 9

4.2. Vấn đề xác định thẩm quyền xét xử của

Toà Kinh tế trong giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại 10

4.3 .Vấn đề áp dụng chế tài khi vi phạm không thực

hiện Hợp đồng và chế tài buộc bồi thường thiệt hại. 11

PHẦN V: NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC VÀ NHỮNG

KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC THI TỐT CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT

CÁC VỤ VIỆC TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI TẠI

TOÀ KINH TẾ- TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ 12

5.1 . Những giải pháp khắc phục những thiếu sót,

tồn tại trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp kinh tế

tại Toà kinh tế 13

5.2. Một số kiến nghị nhằm thực thi hiệu quả công tác giải quyếtcác tranh chấp kinh tế, thương mại

tại Toà kinh tế 14

 

 

PHẦN VI: KẾT LUẬN 15

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2925 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà kinh tế- Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điểm của phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án Có 4 phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến: Thương lượng, Hoà giải, Trọng tài, Toà án. Trong đó giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án là phương thức quan trọng nhất. Bởi vì, Toà án là một cơ quan Nhà nước tiến hành theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ, nhằm ra một bản án hay quyết định về vụ tranh chấp và đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. d. Nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án Phương thức này mất nhiều thời gian (Từ sơ thẩm-phúc thẩm-tái thẩm- giám đốc thẩm) và phải xét xử công khai. Do đó, dễ bị lộ về bí quyết kinh doanh, uy tín bị giảm sút). 2.3 THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI CỦA TOÀ KINH TẾ Các vụ việc phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại đa dạng và phức tạp. Quyền lựa chọn của các đương sự trong vụ tranh chấp cũng rộng hơn, có thể thoả thuận với nhau lựa chọn con đường Toà án hoặc Trọng tài.Trong thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại. Bước đầu tiên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động tố tụng là việc khởi kiện của nguyên đơn . Sau khi nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn và các chứng cứ , tài liệu kèm theo thì Toà án phải vào sổ nhận đơn và xem xét. Sau đó cơ quan Toà án phải xem xét về điều kiện thụ lý vụ án kinh tế, nếu nó thuộc thẩm quyền của Toà kinh tế thì Toà sẽ nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn và thông báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi người khởi kiện nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án quyết định nhận giải quyết vụ án và vào sổ thụ lý vụ án kinh tế để giải quyết. Thời điểm thụ lý chính là mốc xác định các thời hạn tố tụng ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ của Toà. Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán phải triệu tập đương sự Toà án phải tuân thủ đúng các thời hạn luật định về chuẩn bị xét xử và mở phiên Toà, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Toà án sẽ trả lại đơn kiện nếu tranh chấp đó thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 168 của BLTTDS năm 2004. Điểm khác biệt của BLTTDS so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế là: Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế dùng khái niệm: “Tranh chấp về hợp đồng kinh tế”, còn BLTTDS năm 2004 dùng khái niệm “Tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại’’. Trong BLTTDS mới đã liệt kê các hành vi kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án đầy đủ hơn các quy định của Pháp lệnh. -Về chủ thể của tranh chấp kinh doanh, Thương mại: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định tranh chấp về hợp đồng kinh tế phát sinh giữa pháp nhân với pháp nhân, pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Còn BLTTDS quy định tranh chấp kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh. Như vậy, các tranh chấp mà không có sự tham gia của một bên là pháp nhân thì không được coi là tranh chấp kinh tế và như vậy không được giải quyết theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định Hợp đồng kinh tế phải có mục đích kinh doanh, còn Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế không quy định mục đích của các bên tranh chấp. Do đó, khi xảy ra tranh chấp nếu thoả mãn về mặt chủ thể và hình thức của hợp đồng kinh tế thì được giải quyết các tranh chấp kinh tế. Trong BLTTDS quy định các chủ thể trong hoạt động kinh doanh thương mại phải có mục đích lợi nhuận. Như vậy, điểm khác biệt giữa pháp lệnh cũ và BLTTDS về giải quyết tranh chấp là Bộ luật coi trọng vấn đề mục đích của các chủ thể ,vấn đề về hình thức và chủ thể của quan hệ tranh chấp. a. Thẩm quyền của Toà án các cấp Việc phân định thẩm quyền của Toà án các cấp dựa vào nhiều tiêu chí để đảm bảo việc giải quyết được chính xác, đúng pháp luật. Có thể căn cứ vào mức độ phức tạp của từng loại tranh chấp để phân định thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện hay Toà án cấp tỉnh. Pháp lệnh cũ quy định các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp (Điều 29 pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp). Còn Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định Toà án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế có giá ngạch dưới 50.000.000 triệu đồng trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài. Việc quy định giá ngạch tranh chấp để phân định thẩm quyền là không hợp lý. Bởi có rất nhiều vụ án có giá trị tranh chấp không lớn nhưng rất phức tạp. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều vụ án tuy có giá trị tranh chấp rất lớn nhưng việc giải quyết tranh chấp lại rất đơn giản. Khắc phục hạn chế đó, BLTTDS đã quy định dựa vào tính chất phức tạp của vụ việc để phân định thẩm quyền. Điều 29, Điều 35 của Bộ luật liệt kê các tranh chấp được giải quyết tại Toà án huyện: Mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diên, đại lý, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa. Trong trường hợp các tranh chấp nêu trên sẽ thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh nếu có một trong các yếu tố: - Có đương sự ở nước ngoài ; - Có tài sản tranh chấp ở nước ngoài; - Cần uỷ thác tư pháp, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài. Điều 29, Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự quy định các trường hợp thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh là các tranh chấp phát sinh trong hoạt động vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường biển, đường hàng không; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao công nghệ giữa các tổ chức, cá nhân với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến những vấn đề của công ty. b.Thẩm quyền theo lãnh thổ Là việc xác định cụ thể Toà nào có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ việc dân sự. Để bảo đảm cho việc giải quyết được nhanh chóng và đúng pháp luật, nguyên tắc chọn Toà án nơi bị đơn cư trú hoặc có trụ sở hoặc nơi làm việc của bị đơn. c. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn Để thuận lợi nhất cho nguyên đơn trong việc giải quyết vụ tranh chấp cũng như xác định thẩm quyền của Toà án cụ thể pháp luật giành cho nguyên đơn được quyền chọn Toà án để giải quyết vụ tranh chấp. Theo Điều 36 BLTTDS năm 2004, nguyên đơn được lựa chọn Toà án để giải quyết vụ tranh chấp về kinh doanh, thương mại. PHẦN III QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ KINH TẾ- TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ 3.1. GIỚI THIỆU VỀ TOÀ KINH TẾ-TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ Toà kinh tế- Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ được thành lập vào năm 1994 ( tỉnh Vĩnh Phú cũ) và được tách ra vào đầu năm 1997. Với vai trò là Toà chuyên trách của Toà án Tỉnh, trong cơ cấu gồm có sáu thành viên thì có ba thẩm phán chuyên trách và có ba thư ký . 3.2. THỰC TIỄN QUA GẦN 10 NĂM XÉT XỬ CỦA TOÀ KINH TẾ-TOÀ ÁN NHÂN TỈNH PHÚ THỌ Trong khoảng từ 1997 đến tháng 4 năm 2007 Toà kinh tế-Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã giải quyết 32 vụ án về tranh chấp kinh tế, thương mại. Trong đó tranh chấp về Hợp đồng kinh tế có 31 vụ bao gồm: -Tranh chấp về Hợp đồng mua bán hàng hoá 12 vụ chiếm 38.7%. Tranh chấp này tăng mạnh từ năm 1998 đến 2006 (số liệu thống kê từ năm 1998- đến năm 2000) -Tranh chấp về Hợp đồng xây dựng cơ bản là 14 vụ chiếm 45.1%.Trong những năm qua tranh chấp liên quan đến Hợp đồng xây dưng cơ bản tăng mạnh từ năm 1999 đến 2000 (số liệu thống kê từ năm 1999-2000) -Tranh chấp về Hợp đồng xuất nhập khẩu uỷ thác là 2 vụ chiếm 6.4 %.(một vụ năm 2002 giữa công ty DAELIM-CORPORATION và công ty TNHH TASCO-MATERIAL; và một vụ giữa Công ty xây dựng số 25 và Công ty TNHH KOR-VIPACK) -Về tranh chấp trong thành lập, hoạt động, giải thể Công ty có 1 vụ là về việc tranh chấp giữa thành viên Công ty là bà Đào Thị Phương với Công ty và Công ty cổ phần Hoà Thanh (chiếm tới 3,4%) -Về tranh chấp liên quan đến Mua bán Cổ phiếu, Trái phiếu không có vụ nào. -Về các tranh chấp kinh doanh thương mại khác không có vụ nào. Ÿ Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, em thấy về tranh chấp Hợp đồng kinh tế là có số vụ cao nhất là 31 vụ, trong đó hoà giải được 8 vụ chiếm tới 25% đưa ra xử là 23 vụ chiếm tới 71.8%. Các vụ án được hoà giải đều được cơ quan Toà án chấp nhận và dựa trên sự thoả thuận thuận tình của 2 bên. Các vụ án được đưa ra xét xử thì trong đó xét xử sơ thẩm thì có những vụ án đã xét xử sơ thẩm đến phúc thẩm và rồi lại được xét xử lại kéo dài nhiều năm. Tiêu biểu như vụ: về việc tranh chấp Hợp đồng mua bán trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa Công ty TNHH khai thác đá Hương Cần và công ty cổ phần xây dựng Hùng Vương. Với vụ án này Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên tại bản án sơ thẩm số 01/2001/ KDTM-ST , ngày 31/05/2001 . Thẩm phán- chủ toạ phiên toà ông Nguyễn Ngọc Triệu đã tuyên buộc Công ty Cổ phần Xây Dựng Hùng Vương phải thanh toán cho Công ty TNHH Khai thác Đá Hương Cần tiền nợ gốc là 304.000.000 đồng, tiền lãi chậm trả 1,5% /tháng tính đến ngày tuyên án sơ thẩm là 21 tháng 8 ngày , thành tiền là 96.236.000 đồng . Tổng số tiền Công ty Cổ phần Xây Dựng Hùng Vương phải thanh toán trả Công ty TNHH khai thác Đá Hương Cần là 400.236.000 đồng . Tại bản án phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội bản án số 159/2001 KTPT ngày 17/8/2001 với hội đồng xét xử thẩm phán- chủ toạ phiên toà Ông : Trần Đình Dần đã tuyên quyết định buộc Công ty Cổ phần Xây dựng Hùng Vương phải thanh toán cho Công ty TNHH thai thác Đá Hương Cần cả số tiền nợ gốc là 304 triệu đồng lãi chậm trả 1.5%/tháng tính đến ngày tuyên án sơ thẩm là 21 tháng 8 ngày, thành tiền là 96.236.000 triệu đồng. Tổng số tiền Công ty Cổ phần Xây dựng Hùng Vương phải thanh toán cho Công ty TNHH khai thác Đá Hương Cần là : 400.236.000 đồng. Trong tranh chấp về Hợp đồng kinh tế thì tranh chấp về Hợp đồng xây dựng cơ bản và Hợp đồng mua bán hàng hoá có số lượng lớn (hợp đồng xây dựng cơ bản là 14 vụ chiếm 45,1%, Hợp đồng mua bán hàng hoá :10 vụ chiếm 32,2%) Còn số vụ về tranh chấp Hợp đồng vận chuyển hàng hoá là 4 vụ chiếm 12,9%; tranh chấp về Hợp đồng xuất nhập khẩu uỷ thác là 2 vụ chiếm 6,4%. Tranh chấp các Hợp đồng có nhân tố Nước ngoài là :1 vụ chiếm 3,4 %. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, các tranh chấp về Hợp đồng vận chuyển hàng hoá; tranh chấp về xuất nhập khẩu uỷ thác; tranh chấp các Hợp đồng có nhân tố Nước Ngoài đều có số lượng ít. Tóm lại: các tranh chấp về Hợp đồng xây dựng cơ bản và Hợp đồng Mua bán hàng hoá có tỷ lệ cao. Đó là do sự phát triển của nền kinh tế thị trường; các tổ chức kinh tế(Doanh nghiệp; Hợp tác xã; Công ty) bước vào kinh doanh. Đây là quy luật tất yếu, dẫn đến các tổ chức kinh tế gặp nhiều sự bỡ ngỡ; chưa hiểu biết nhiều về pháp luật. Do đó, còn nhiều thủ tục chưa đúng pháp luật về đầu tư kinh doanh. -Số vụ án còn lại từ năm này sang năm khác không nhiều (chỉ chiếm tới 2%). Đặc biệt năm 2001 không có vụ án nào giải quyết -Số vụ án Tạm đình chỉ có 2 vụ chiếm tới 6,4% -Số vụ án còn lại không có -Số vụ án có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 2 vụ chiếm tới 6,2% -Số vụ án có người bảo vệ có quyền và lợi ích của đương sự chiếm tới 25% C. Quyết định của Toà án: + Di lý( chuyển vụ án lên Toà án có thẩm quyền) là 3 vụ chiếm tới 9,4% + Tạm đình chỉ, đình chỉ 2 vụ chiếm tới 6,2% + Số vụ án hoà giải thành là 8 vụ chiếm tới 40% + Số vụ án đã xét xử 25 vụ chiếm tới 78,1% + Số vụ án có kháng cáo, kháng nghị là 10 vụ chiếm tới 31,2% + Giá trị giải quyết: thường có giá trị lớn PHẦN IV : NHỮNG VẤN ĐỀ VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI ĐỊA PHƯƠNG 4.1. Thời điểm trước 1/1/2005 : - Các vụ án kinh doanh, thương mại là những loại án mới, phức tạp, nhạy cảm, khi giải quyết phải nghiên cứu, áp dụng nhiều loại văn bản pháp luật, ở nhiều thời điểm khác nhau nên Cán bộ Toà án được phân công làm công tác xét xử không khỏi có sự nhận thức không đầy đủ , không đúng tinh thần điều luật. - Kinh nghiệm nghiệp vụ của của một số đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết vụ án kinh doanh thương mại không đồng đều, trong khi việc bồi dưỡng đào tạo nghiệp vụ về công tác này của TANDTC còn rất hạn chế, chưa thường xuyên. -Việc tìm kiếm cũng như hệ thống hoá các văn bản pháp luật cần tra cứu và áp dụng khi giải quyết các vụ án kinh tế,thương mại chưa được quan tâm đầy đủ nên trong quá trình giải quyết các vụ án này, Toà kinh tế- Toà án nhân dân Tỉnh Phú Thọ thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, tra cứu văn bản pháp luật cần thiết cho quá trình giải quyết vụ án. Do đó, năng lực giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại còn nhiều hạn chế . -Hệ thống văn bản pháp luật của Nhà Nước dùng để điều chỉnh các mối quan hệ kinh doanh, thương mại trong đời sống xã hội chưa thật đầy đủ, đồng bộ, kịp thời ,có khi còn chồng chéo. Một số văn bản pháp luật không còn phù hợp nhưng chậm được huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung như Điều 13 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế qui định thẩm quyền giải quyết vụ án kinh tế của Toà án cấp huyện là những tranh chấp có giá trị 50 triệu đồng ; qui định này không còn phù hợp với đời sống kinh tế xã hội trong những năm qua dẫn đến việc dồn lên Toà kinh tế, hoặc nhiều loại việc mới phát sinh theo tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nhưng không được cơ quan có thẩm quyền bổ sung kịp thời, vào các văn bản pháp luật những qui định về thẩm quyền giải quyết của Toà án, gây khó khăn cho Toà trong việc thụ lý giải quyết tranh chấp. - Vai trò của Toà Kinh tế, Chánh toà kinh tế, Thư ký Toà án kinh tế trong tố tụng kinh doanh, thương mại chưa được các văn bản pháp luật quy định rõ ràng, cụ thể gay khó khăn cho Toà trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật qui định . -Trình độ nhận thức của một số bộ phận công dân, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức kinh tế-xã hội còn có nhiều hạn chế dẫn đến việc ký kết, thực hiện các hợp đồng kinh tế còn có nhiều thiếu sót, không đúng qui định của pháp luật nên dễ xảy ra tranh chấp và khi xảy ra tranh chấp cơ quan tiến hành tố tụng khó tìm được căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại. 4.2. Từ thời điểm 1/1/2005 đến nay Khi BLTTDS bắt đầu có hiệu lực thi hành thì nghĩa vụ, quyền hạn của Toà án khi thực hiện công tác giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại có những thay đổi so với các quy định của Luật Tổ Chức Toà án năm 2002. Mặt khác, một số thẩm phán ở Toà kinh tế trình độ còn chưa cạp nhật với tinh thần của điều Luật mới.Cho nên khi giải quyết còn gặp rất nhiều khó khăn. Dẫn đến nhiều vụ án giải quyết tranh chấp còn sai sót về trình tự, thủ tục, tố tụng. Khi bị kháng cáo, kháng nghị lên Toà án cấp trên thì bị huỷ do vi phạm trình tự thủ tục tố tụng. Các vụ việc này tương đối mới, Toà kinh tế chưa có những kinh nghiệm giải quyết (Trong tổng số 32 vụ thì có 3 vụ bị huỷ, sửa do lỗi chủ quan của Hội Đồng Xét Xử). Nguyên nhân chủ yếu là do vi phạm thủ tục tố tụng và áp dụng pháp luật thiếu chính xác, đánh giá chứng cứ chưa sát, thu thập tài liệu chưa đầy đủ. Nguyên nhân của thiếu sót là do tinh thần trách nhiệm công tác của một số ít Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án chưa cao, phương pháp làm việc chưa khoa học, chưa giành nhiều thời gian tự học tập, nghiên cứu văn bản mới. Các yêu cầu nguyên đơn đưa ra trong đơn khởi kiện như trên đều mang tính chất của các yêu cầu về kinh doanh, thương mại phát sinh từ hoạt động Công ty. Có thể là yêu cầu không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ cuẩ Cổ đông, yêu cầu Toà án công nhận về quyền kinh doanh, thương mại. Thực tế cho thấy, có Toà án vẫn còn nhầm lẫn khi giải quyết vụ việc kinh doanh, thương mại này và thường vào sổ thụ lý tranh chấp kinh doanh, thương mại. Trong khi đó rõ ràng là hai, thủ tục giải quyết tranh chấp và yêu cầu giải quyết tranh kinh doanh, thương mại là khác nhau. Ví dụ: quy định về thời hiệu yêu cầu; thành phần giải quyết việc kinh doanh, thương mại, thủ tục tiến hành phiên họp xét yêu cầu. PHẦN V : MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC THI HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC KINH DOANH, THƯƠNG MẠI CỦA TOÀ KINH TẾ Ở ĐỊA PHƯƠNG 5.1. Một số giải pháp khắc phục những thiếu sót, tồn tại trong thực tiễn xét xử của Toà án Toà kinh tế đã đề cao trách nhiệm cá nhân và nâng cao hiệu quả công tác, tiếp theo bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn và ý thức trách nhiệm đối với đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra nghiệp vụ xét xử, công tác thi hành án kinh tế, thương mại và việc chuyển giao bản án, chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong áp dụng pháp luật. Rà soát lại những trường hợp có án bị huỷ, sửa nghiêm trọng. Yêu cầu Thẩm phán phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm bằng văn bản, kiên quyết xử lý đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng về thủ tục. 5.2. Một số kiến nghị nhằm thực thi hiệu quả công tác giải quyết của Toà án Điều quan tâm duy nhất của đương sự là liệu vụ việc có được giải quyết một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật hay không, liệu bản án, quyết định của toà án có được thực hiện nghiêm túc trong thực tế hay không? Khi giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại cần phải phân biệt tranh chấp về Dân sự. Nếu không được coi là tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì sẽ được coi là tranh chấp về Dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án như một vụ án Dân sự. Cách làm này sẽ loại bỏ được những vướng mắc khi phải xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ nằm ngoài các nhóm tranh chấp về Dân sự qui định tại Điều 25 và tranh chấp về kinh doanh, thương mại qui định tại Điều 29 BLTTDS Điều quan tâm duy nhất của đương sự là liệu vụ việc có được giải quyết một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật hay không, liệu bản án, quyết định của Toà án có được thực hiện nghiêm túc trong thực tế hay không? Khi giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại cần phải phân biệt tranh chấp về dân sự. Nếu không được coi là tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì sẽ được coi là tranh chấp về dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà dân sự. Cách làm này sẽ loại bỏ được những vướng mắc khi phải xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ nằm ngoài các nhóm tranh chấp về dân sự qui định tại Điều 25 và tranh chấp về kinh doanh, thương mại qui định tại Điều 29 BLTTS. Nêu định nghĩa một cách khái quát và đưa ra các dấu hiệu cụ thể để nhận biết các hoạt động được coi là hoạt động kinh doanh, thương mại cụ thể bởi không văn bản pháp luật nào có thể liệt kê hết được các hoạt động kinh doanh thương mại được tiến hành trên thực tế. Các dấu hiệu nhận biết hoạt động kinh doanh, thương mại có thể là: a. Mọi hoạt động từ đầu tư, sản xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ trên thị trường b. Do các chủ thể kinh doanh (những tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh) tiến hành c. Được tiến hành để phục vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận của mình. d. Cần thống nhất các tiêu chí để xác định khi nào các chủ thể tham gia quan hệ được coi là mục đích lợi nhuận. Trong thời gian qua, việc phân biệt mục đích lợi nhuận hay mục đích sinh hoạt, tiêu dùng khi các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế là rất khó khăn hay và hay nhầm lẫn, nhất là khi chủ thể là các cá nhân có đăng ký kinh doanh. Ví dụ: Một cá nhân có đăng ký kinh doanh ký hợp đồng bằng văn bản để sử dụng điện thoại di động. Cá nhân này có thể dùng điện thoại để liên lạc với bạn hàng của mình (vì mục đích lợi nhuận) mà cũng có thể dùng điện thoại để liên lạc với bạn bè, người thân (vì mục đích sinh hoạt tiêu dùng). Vậy tranh chấp hợp đồng sử dụng dịch vụ điện thoại này là tranh chấp kinh doanh, thương mại hay tranh chấp dân sự? Theo em, để đơn giản cho việc áp dụng pháp luật và nhằm mở rộng phạm vi những tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế, thương mại cần quan niệm mục đích lợi nhuận theo nghĩa rộng với các xu hướng sau: - Mọi hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện để phục vụ một cách trực tiếp( ví dụ: hành vi mua hàng về để bán lại của một công ty thương mại) hay gián tiếp(ví dụ: Mua máy tính để lưu giữ các thông tin, soạn thảo văn bản phục vụ cho hoạt động bán hàng của mình) đều phải được suy đoán là có mục đích kinh doanh. Thậm chí cả những hành vi tưởng như thuần tuý sinh hoạt, tiêu dùng như Công ty thương mại ký hợp đồng với một Công ty điện tử để mua ti vi cho Cán bộ, Công nhân viên xem cũng phải được coi là mục đích lợi nhuận, nếu Hợp đồng được ký với danh nghĩa của Công ty thương mại đó và tiền thanh toán tính vào chi phí kinh doanh của Công ty. - Trường hợp bên tham gia quan hệ Hợp đồng là cá nhân có đăng ký kinh doanh, nếu trong văn bản hợp đồng nêu rõ các thông tin về đăng ký kinh doanh thì phải được suy đoán là Hợp đồng được ký trên danh nghĩa của một chủ thể kinh doanh và nhằm mục đích lợi nhuân. Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A được Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để tiến hành các hoạt động kinh doanh với tư cách là cá nhân có đăng ký kinh doanh. Nếu trong văn bản Hợp đồng ghi rõ: Nguyễn Văn A, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số… thì phải suy đoán là ông A có mục đích lợi nhuận khi tham gia quan hệ hợp đồng này. - Cần quan niệm mọi tranh chấp phát sinh từ việc thành lập, tổ chức quản lý và tổ chức hoạt động của doanh nghiệp nói chung và Công ty nói riêng là tranh chấp về kinh doanh, thương mại để được Toà án giải quyết như một vụ án kinh tế mà không bắt buộc các bên tranh chấp phải là thành viên Công ty hoặc Công ty. Cụ thể: + Các tranh chấp giữa Công ty hoặc thành viên Công ty với người được Công ty thuê làm Giám đốc điều hành( không phải là thành viên Công ty) + Các tranh chấp phát sinh ngay trong giai đoạn tiền lập Công ty( khi tư cách Công ty và thành viên Công ty chưa hình thành) + Các tranh chấp phát sinh trong quá trình chuyển nhượng vốn của thành viên Công ty cho người ngoài, ngay cả khi người nhận vốn chuyển nhượng chưa được xác lập tư cách thành viên Công ty hoặc khi người chuyển nhượng vốn đã chấm dứt tư cách thành viên công ty. + Các tranh chấp giữa các xã viên Hợp tác xã với nhau; tranh chấp giữa xã viên Hợp tác xã, tranh chấp giữa Hợp tác xã, xã viên với người được thuê là chủ nhiệm Hợp tác xã( Theo Luật Hợp tác xã 2003) liên quan đến việc thành lập họat động và giải thể Hợp tác xã. Chủ nhiệm Hợp tác xã(theo Luật Hợp tác xã 2003) liên quan đến việc thành lập họat động và giải thể Hợp tác xã. Để phù hợp với quy định của BLTTDS , Toà án Nhân Dân Tối Cao có thể hướng dẫn các tranh chấp nói trên là các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại như quy định mang tính dự phòng tại khoản 4 điều 29 BLTTDS. - Cần xây dựng và ban hành hệ tiêu chí cụ thể minh bạch để xác định tiêu chí cụ thể, minh bạch để xác định tính chất phức tạp của tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại và nhu cầu uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở Nước ngoài hoặc do Toà án Nhà nước nhằm phân định chính xác thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh, qua đó hạn chế tình trạng chuyển vụ án từ huyện lên tỉnh và từ tỉnh xuống huyện một cách tuỳ tiện. - Cần hướng dẫn theo hướng mở rộng quyền thoả thuận của các bên để lựa chọn Toà án thích hợp giải quyết các tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh. BLTTDS mới quy định một trường hợp các bên tranh chấp được quyền thoả thuận lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại. theo Điểm b khoản 1 Điều 35 thì các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án, nơi nguyên đơn có trụ sở hoặc cư trú giải quyết tranh chấp. Nhưng trên thực tế có rất nhiều trường hợp các bên tham gia quan hệ thoả thuận trước với nhau lựa chọn Toà án của một địa phương cụ thể giải quyết tranh chấp; ví dụ: Toà án nơi thực hiện Hợp đồng, Toà án nơi một bên có chi nhánh… thì thoả thuận đó có giá trị ràng buộc các bên hay không? - Cần hướng dẫn theo hướng mở rộng quyền thoả thuận của các bên để lựa chọn Toà án thích hợp giải quyết các tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh. BLTTDS mới quy định một trường hợp các bên tranh chấp được quyền thoả thuận lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại. theo Điểm b khoản 1 Điều 35 thì các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án, nơi nguyên đơn có trụ sở hoặc cư trú giải quyết tranh chấp. Nhưng trên thực tế có rất nhiều trường hợp các bên tham gia quan hệ thoả thuận trước với nhau lựa chọn Toà án của một địa phương cụ thể giải quyết tranh chấp; ví dụ: Toà án nơi Thực hiện Hợp đồng, Toà án nơi một bên có chi nhánh… thì thoả thuận đó có giá trị ràng buộc các bên hay không? - Cần hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền giải quyết những yêu cầu về kinh doanh, thương mại của Toà án với các vấn đề đã được lưu ý như sau: + Toà kinh tế chỉ nên sử dụng tính kinh doanh, thương mại trong các bản án, quyết định của Toà án hoặc Trọng tài nhà nước như một trong các tiêu chí để phân công việc giải quyết yêu cầu cho Toà Dân sự hay Toà Kinh tế chứ không nên coi là căn cứ để thụ lý (hoặc không thụ lý) yêu cầu lại càng không thể coi đây là căn cứ để công nhận (hoặc không công nhận) bản án, quyết định này. + Hướng dẫn bổ sung các yêu cầu phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý và hoạt động của cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctranh_chap_thuong_mai_o_toa_an_2104.doc