Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long

Mục Lục

 

PHẦN I : BÁO CÁO CHUNG

ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CỦA CHI NHÁNH BẢO HIỂM PJICO THĂNG LONG .

 

1. Đặc điểm tình tình của chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long .

1.1. Giới thiệu về chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long – Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)

1.2. Chức năng và nhiệm vụ và hệ thống tổ chức bộ máy của chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long .

1.2.1. Chức năng của chi nhánh PJICO thăng long

1.2.2. Nhiệm vụ của chi nhánh PIJICO Thăng Long

1.3 . Đội ngũ cán bộ công chức , viên chức và lao động

2 . Những thuận lợi và khó khăn của chi nhánh PJICO Thăng Long

2.1 . Thuận lợi

2.2. Khã kh¨n .

II . Tình hình thực hiện bảo hiểm thương mại ở chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long.

2.1. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm ở chi nhánh PJICO Thăng Long

2.2. Công tác bồi thường năm 2009 của chi nhánh .

 

2.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long giai đoạn 2007-2009 .

III . Kiến Nghị .

 

 

 

 

 

PHẦN II : BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH VÀ BỒI THƯỜNG TỒN THẤT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN TẠI CHI NHÁNH BẢO HIỂM PJICO THĂNG LONG GIAI ĐOẠN 2007-2009

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN

1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm hoả hoạn

2. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn

2.1. Đối tượng bảo hiểm

2.2. Phạm vi bảo hiểm.

2.3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm

2.3.1. Giá trị bảo hiểm

2.3.2. Số tiền bảo hiểm

2. 4.Phí bảo hiểm hoả hoạn

2. 4.1. Các nhân tố làm ảnh hưởng đến phí bảo hiểm hỏa hoạn

2.4.2. Phương pháp xác định phí bảo hiểm:

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH VÀ BỒI THƯỜNG TỒN THẤT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN TẠI CHI NHÁNH BẢO HIỂM PJICO THĂNG LONG GIAI ĐOẠN 2007-2009

1. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long giai đoạn 2007-2009

2. Quy trình giám định và bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại chi nhánh PJICO

2.1. Quy trình giám định

2.2 . Qui trình bồi thường

3. Thực trạng công tác giám định và bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long giai đoạn 2007-2009

4. Đánh giá hiệu quả công tác giám định và bồi thường tổn thất bảo hiểm hoả hoạn tại chi nhánh PJICO giai đoạn 2007 - 2009

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH VÀ BỒI THƯỜNG TRONG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN TẠI CHI NHÁNH BẢO HIỂM PJICO THĂNG LONG

1 . Phương hướng và mục tiêu hoặt động của chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long trong những năm tới

2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thườngtrong nghiệp vụ bảo hiểm họa hoạn tại chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long

2.1. Đối với nguồn nhân lực

2.2. Về mặt trang thiết bị

2.3. Về mặt thông tin

KẾT LUẬN

 

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1943 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oạn tại chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm hoả hoạn Có rất nhiều khái niệm khác nhau về hỏa hoạn, tuy nhiên theo luật phòng cháy và chữa cháy hiện nay, hỏa hoạn được hiểu là trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát được có thể gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng đến môi trường. Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn, nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ USD. Các vụ cháy xảy ra ngày một tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng không chỉ ở những nước kém phát triển mà cả ở những nước có nền kinh tế và khoa học công nghệ phát triển như Anh, Pháp, Mỹ Con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp khác nhau để đối phó với cháy như các biện pháp phòng cháy chữa cháy, đào tạo nâng cao trình độ kiến thức, thông tin tuyên truyền về phòng cháy chữa cháy…Tuy nhiên, để đối phó với hậu quả do cháy gây ra thì bảo hiểm vẫn được coi là một trong các phương pháp hữu hiệu nhất. Bên cạnh đó khi tham gia bảo hiểm người được bảo hiểm còn có thể nhận các dịch vụ tư vấn về quản lí rủi ro, phòng cháy chữa cháy từ phía nhà bảo hiểm. Ở Việt Nam hàng năm, các vụ cháy xảy ra nhiều gây thiệt hại lớn cả người và tài sản. Có thể thấy rằng cháy có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, với bất cứ ai, mỗi loại tài sản khác nhau thì có khả năng xảy ra cháy khác nhau và tổn thất do cháy gây ra thường rất lớn, có khi mang tính thảm họa. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân đều phải tự chủ về tài chính. Hoạt động sản xuất, xây dựng, đầu tư, khai thác ngày một gia tăng, khối lượng hàng hóa, vật tư luân chuyển và tập trung rất lớn, công nghệ sản xuất đa dạng và phong phú. Nếu xảy ra cháy lớn, họ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn về tài chính, thậm chí có thể bị phá sản. Do đó, bên cạnh việc tích cực phòng cháy, chữa cháy thì bảo hiểm cháy thực sự là một giá đỡ, cứu cánh, lựa chọn tối ưu cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân tham gia bảo hiểm. Nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn được triển khai ở Việt Nam từ cuối năm 1989 sau khi có quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/1/1989 của Bộ trưởng Bộ tài chính ban hành quy tắc và biểu phí bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt. Luật kinh doanh bảo hiểm ( có hiệu lực từ ngày 01/4/2001) đã quy định bảo hiểm hỏa hoạn được triển khai dưới hình thức bắt buộc. Qua một số năm thực hiện, nghiệp vụ này ngày càng phát triển và ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường bảo hiểm hỏa hoạn, các sản phẩm bảo hiểm hỏa hoạn ngày càng đa dạng và phong phú. Tổng doanh thu phí của nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ năm 2003 đạt gẩn 350 tỷ VNĐ, chiềm khoảng 9% thị trường bảo hiểm phi nhân thọ cùng kỳ, đến năm 2005 các con số tương ứng là 527 tỷ đồng và 9,51%. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm họa hoạn 2.1. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm hỏa hoạn bao gồm các tài sản là bất động sản và động sản ( trừ phương tiện giao thông, vật nuôi, cây trồng và tài sản đang trong quá trình xây dựng, lắp đặt thuộc loại hình bảo hiểm khác) thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị, tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Cụ thể đối tượng bảo hiểm bao gồm: Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai) Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh. Sản phẩm vật tư, hàng hóa dự trữ trong kho. Nguyên vật liệu, sản phẩm làm dỡ, thành phẩm trên dây chuyền sản xuất. Các loại tài sản khác như: kho, bãi, chợ, cửa hàng, khách sạn… 2.2. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Trong bảo hiểm hỏa hoạn, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại và chi phí sau: Những thiệt hại do những rủi ro được bảo hiểm gây ra cho tài sản. Những chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất tài sản được bảo hiểm trong và sau khi xảy ra hỏa hoạn. Những chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi xảy ra hỏa hoạn 2.2.1. Rủi ro có thể được bảo hiểm Các đơn bảo hiểm hỏa hoạn đều có sự phân biệt giữa những rủi ro cơ bản, rủi ro phụ và những trường hợp loại trừ. Trong bảo hiểm hỏa hoạn, rủi ro được bảo hiểm bao gồm: A, Những rủi ro cơ bản: Rủi ro cỏ bản bao gồm: cháy, sét và nổ. + Cháy: Đơn bảo hiểm tiêu chuẩn không định nghĩa rõ thế nào là cháy. Theo nghĩa thông thường, cháy được hiểu là phản ứng hóa học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng. Hỏa hoạn là cháy xảy ra ngoài sự kiểm soát của con người, ngoài nguồn lửa chuyên dùng và gây thiệt hại về người tài sản. Hỏa hoạn sẽ được bảo hiểm nếu đủ các yếu tố sau: Phải thực sự có phát lửa. những thiệt hại do cháy đơn thuần không phát hỏa như cháy bỏng thuốc lá, quần áo cháy do bàn là, không được bảo hiểm. Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng. Bếp dầu, bếp ga, lò nung dùng trong sinh hoạt có yếu tố cháy nhưng là nguồn lửa chuyên dùng nên không gọi là hỏa hoạn. Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng. Bếp dầu, bếp ga, lò nung dùng trong sinh hoạt có yếu tố cháy nhưng là nguồn lửa chuyên dùng nên không gọi là hỏa hoạn. những tài sản được bảo hiểm bị thiệt hại trong nguồn lửa chuyên dùng, hoặc ngay cả những thiệt hại gây ra cho tài sản được bảo hiểm do bị rơi vào nơi đun nấu bình thường cũng không được đảm bảo. Tuy nhiên, nếu các nguồn lửa chuyên dùng này làm cháy một tài sản hay một vật nào đó và việc cháy từ vật này gây thiệt hại cho các tài sản được bảo hiểm thì sẽ phát sinh trách nhiệm của nhà bảo hiểm theo rủi ro này. Việc phát sinh nguồn lửa này phải là bất ngờ hay ngẫu nhiên đối với người được bảo hiểm, chứ không phải là do cố ý, có chủ định hoặc có sự đồng lõa của họ. Tuy nhiên, hỏa hoạn xảy ra do bất cẩn của người được bảo hiểm vẫn thuộc phạm vi bảo hiểm. Hỏa hoạn gây nên thiệt hại được bảo hiểm phải do yếu tố tác động từ bên ngoài. Cho dù có thể có yếu tố ngẫu nhiên nhưng những yếu tố nội tại, tự phát từ trong bản thân tài sản được bảo hiểm bất ngờ phát huy tác dụng và gây nên thiệt hại cũng không được coi là hỏa hoạn được bảo hiểm. Đơn bảo hiểm tiêu chuẩn đã loại trừ những thiệt hại do quá trình tự lên men, tự phát nhiệt của bản thân tài sản, hoặc tài sản phải trải qua bất kỳ quá trình nào liên quan tới việc sử dụng nhiệt. Chẳng hạn, thiệt hại của đồ gốm do nung nhiệt độ cao bị biến dạng hoặc mất màu, đều không được đảm bảo bởi rủi ro này Tuy nhiên, nhà bảo hiểm chỉ loại trừ đối với những thiệt hại của tài sản tự phát cháy, chứ không loại trừ đối với các hậu quả hỏa hoạn tiếp theo từ đám cháy. Ví dụ, một khi thức ăn gia súc bỗng nhiên bốc cháy, trước khi đội cứu hỏa kịp đến hiện trường, lửa đã lan và gió đã thổi lửa vào một kho chứa thóc bên cạnh. Loại trừ theo đơn bảo hiểm được áp dụng đối với kho thức ăn gia súc bởi vì nó tự động phát cháy nhưng kho chứa thóc vẫn nằm trong diện được tính bảo hiểm. Khi có đủ các điều kiện trên và có thiệt hại về vật chất của đối tượng bảo hiểm thì những thiệt hại đó sẽ được bảo hiểm bồi thường cho dù đó là do cháy hay do nhiệt hoặc khói. Như vậy những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm do hỏa hoạn bao gồm những thiệt hại về vật chất do bị hủy hoại vì hỏa hoạn ( đương nhiên là loại trừ những thiệt hại về thân thể) thiệt hại do khói mà nguồn lửa gây ra, thiệt hại do nước dùng để chữa cháy, thiệt hại do phá vỡ để ngăn chặn đám cháy lây lan, thiệt hại do việc thực hiện nhiệm vụ chữa cháy, thiệt hại mà người được bảo hiểm phải gánh chịu do việc bảo vệ tài sản và kiểm soát sự phát triển của ngọn lửa, thiệt hại do mất mát những tài sản được bảo hiểm xảy ra trong hỏa hoạn ( trừ việc đánh cắp do công ty bảo hiểm phát hiện ra) Hỏa hoạn do nổ hay bất kỳ nguyên nhân nào khác đều được nhà bảo hiểm đảm bảo. Tuy nhiên bên cạnh việc loại trừ những thiệt hại của tài sản do tự phát hoặc chịu tác động của một qua trình xử lý nhiệt, bảo hiểm cũng loại trừ trường hợp hỏa hoạn do động đất, núi lửa phun hoặc các biến động khác của thiên nhiên như cháy ngầm ở mỏ than hay giếng dầu và những thiệt hại gây nên do hậu quả của việc đốt rừng, bụi cây đồng cỏ, hoang mạc, rừng nhiệt đới hoặc đốt cháy với mục đích làm sạch đồng ruộng, đát đai dù là ngẫu nhiên. Những trường hợp loại trừ này, nếu người được bảo hiểm yêu cầu, vẫn có thể được bảo hiểm bởi những rủi ro phụ hoặc những điều khoản bố sung. + SÉT Nhà bảo hiểm sẽ bồi thường khi tài sản bị phá hủy trực tiếp do sét, hoặc do sét gây ra hỏa hoạn. Như vậy khi sét đánh mà không phá hủy hoặc gây hỏa hoạn cho tài sản được bảo hiểm thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm. Cần lưu ý khi tia sét phá hủy trực tiếp hoặc làm phát lửa gây hỏa hoạn đối với các thiết bị điện thì được bảo hiểm bồi thường. Nếu tia sét chỉ làm thay đổi dòng điện mà không gây ra hỏa hoạn dẫn đến thiệt hại cho thiết bị điện thì không được bồi thường theo rủi ro này. + NỔ Nổ là hiện tượng cháy xảy ra rất nhanh tạo ra một áp lực lớn kèm theo tiếng động mạnh, phát sinh do sự giãn nở đột ngột của chất lỏng, rắn hoặc khí. Các trường hợp nổ gây ra hỏa hoạn đã nghiễm nhiên được bảo hiểm với điều kiện là nổ không phải do các nguyên nhân bị loại trừ. Như vậy, chỉ còn lại những thiệt hại do nổ mà không gây ra hỏa hoạn. Nổ trong rủi ro cơ bản chỉ giới hạn ở các trường hợp nổ do nồi hơi hoặc hơi đốt được sử dụng với mục đích duy nhất là phục vụ sinh hoạt( như thắp sáng sưởi ấm) loại trừ những thiệt hại gây ra do động đất, núi lửa phun hoặc các biến động khác của thiên nhiên. Trương hợp thiệt hại do nổ xuất phát từ hỏa hoạn thì thiệt hại ban đầu do hỏa hoạn thì thiệt hại ban đầu do hỏa hoạn được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không được bồi thường. b, Những rủi ro phụ Bên cạnh những rủi ro chính còn có những rủi ro phụ, các rủi ro này không được bảo hiểm riêng mà chỉ có thể được bảo hiểm cùng với những rủi ro cơ bản ( hỏa hoạn, sét và nổ nồi hơi và hơi đốt phục vụ sinh hoạt) và chỉ được bảo hiểm khi khách hàng yêu cầu với điều kiện đóng thêm phí và phải dược ghi rõ trong giấy yêu cầu và giấy chứng nhận bảo hiểm. Rủi ro phụ bao gồm: Máy bay và các phương tiện hàng không khác hoặc các thiết bị trên các phương tiện đó rơi vào. Nhà bảo hiểm chỉ bồi thường những thiệt hại của tài sản được bảo hiểm do các phương tiện hay thiết bị rơi xuống và chuyển động với vận tốc âm thanh hoặc siêu âm thanh đều bị loại trừ Gây rối, đình công, bãi công, sa thải Hành động ác ý Động đất, núi lửa phun, bao gồm cả lụt và nước biển tràn lan do hậu quả của động đất và núi lửa phun. Đây là rủi ro mở rộng của rủi ro cơ bản. Trong rủi ro hỏa hoạn và rủi ro nổ (nồi hơi và hơi đốt phục vụ sinh hoạt), người bảo hiểm đã loại trừ thiết hại do động đất hoặc núi lửa phun. Để được bảo hiểm, người được bảo hiểm phải mua bảo hiểm thêm rủi ro này. Giông, bão, lụt. Vỡ hay tràn nước từ các bể chứa nước, thiết bị chứa nước hoặc đường ống dẫn nước. Va chạm bởi xe cộ hay động vật. 2.1.2.. Rủi ro loại trừ Trong các nghiệp vụ bảo hiểm đều có những rủi ro loại trừ. Trên thực tế có những loại rủi ro không thể bảo hiểm được. Vì thế trong bảo hiểm hỏa hoạn, các loại trừ được áp dụng như sau: Thiệt hại do hành động cố ý hoặc đồng lõa của người được bảo hiểm gây ra Những thiệt hại gây ra do: + Gây rối, quần chúng nổi dậy, bãi công,sa thải công nhân trừ khi rủi ro này được ghi nhận là được bảo hiểm trong giấy chứng nhận bảo hiểm nhưng chỉ với phạm vi bảo hiểm đã quy định tại rủi ro đó. + Chiến tranh,xâm lược, hành động thù địch của nước ngoài, chiến sự ( dù có tuyên chiến hay không tuyên chiến) Nổi loạn, nội chiến, khởi nghĩa,cách mạng, binh chiến, bạo động, đảo chính, lực lượng quân sự tiếm quyền… Những hành động khủng bố Binh chiến, dấy binh,bạo loạn, khởi nghĩa cách mạng bạo động, đảo chính lực lượng quân sự, phong tỏa, giới nghiêm hoặc những biến cố hoặc nguyên nhân đẫn đến việc tuyên bố và duy trì tình trạng khẩn cấp hoặc giới nghiêm. Những tổn thất (dù là tổn thất tài sản trực tiếp haychi phí có liên quan hay tổn thất có tính chất hậu quả) trực tiếp hay gián tiếp mà nguyên nhân gây ra có liên quan đến. Nguyên liệu vũ khí hạt nhân. Phóng xạ ion hóa hay nhiễm phóng xạ từ nhiên liệu hạt nhân hoặc từ chất thải hạt nhân do bốc cháy nguyên liệu hạt nhân. Những thiệt hại xảy ra đối với bất kỳ máy móc, khí cụ điện hay bất kỳ bộ phận nào của thiết bị điện do chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, rò điện hay do bất kỳ nguyên nhân nào( kể cả sét) Tuy nhiên, điểm loại trừ này chỉ áp dụng đối với chính những máy móc, khí cụ điện hoặc những bộ phận của thiết bị điện khác bị phá huỷ, hư hại do cháy phát sinh từ các máy móc, thiết bị nói trên. + Những thiệt hại gây ra do ô nhiễm, nhiễm bẩn, ngoại trừ những thiệt hại đối với tài sản được bảo hiểm xảy ra do: Ô nhiễm, nhiễm bẩn phát sinh từ những rủi ro được bảo hiểm. Bất kỳ rủi ro nào phát sinh từ ô nhiễm hay nhiễm bẩn ( trừ khi có những điểm loại trừ khác) + Hàng hóa nhận ủy thác hay nhận bảo quản, vàng bạc và đá quý, tiền (Giấy hay tiền kim loại), séc, thư bảo lãnh, tín phiếu, tem, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh doanh, hệ thống dữ liệu máy tính, hàng mẫu, vật mẫu, quần áo mẫu, tượng sơ đồ, bản vẽ hay tài liệu thiết kế, chất nổ trừ khi được xác định cụ thể là chúng được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm + Tổn thất về người, động vật và thực vật sống + Thiệt hại xảy ra đối với những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất, được bảo hiểm hay lẽ ra được bảo hiểm thêo đơn bảo hiểm hàng hải, trừ phần thiệt hại vượt quá số tiền được bồi thường hoặc lẽ ra được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải và dù có hay không bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt + Những thiệt hại mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào, trừ thiệt hại về tiền thuê nhà nếu tiền thuê nhà được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm. Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba và những thiệt hại trong phạm vi mức miễn bồi thường. 2.3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm 2.3.1. Giá trị bảo hiểm Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế của tài sản được bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm là cơ sở để nhà bảo hiểm và người được bảo hiểm thỏa thuận số tiền bảo hiểm. -Đối với nhà cửa, vật kiến trúc, giá trị bảo hiểm được xác định trên chi phí nguyên vật liệu và xây lắp tài sản đó ( Giá trị xây dựng mới) trừ khấu hao trong thời gian đã sử dụng. Giá trị xây dựng mới có thể xác định dựa trên cơ sở thiết kế và bản dự toán, quyết toán xây dựng ban đầu hoặc xác định giá trị mới cho từng phần như nền móng, sàn nhà, giường, trần, mái, trang trí nội thất. + Đối với máy móc, thiết bị và các bất động sản khác, giá trị bảo hiểm được xác định dựa trên cơ sở giá cả thị trường, chi phí vận chuyển và lắp đặt của loại máy móc thiết bị cùng chủng loại, công suất, tính năng kỹ thuật, nơi sản xuất… hoặc xác định trên cơ sở giá mua mới tài sản tương đương trừ đi khấu hao đã sử dụng. + Đối với vật tư, hàng hóa, đồ dùng trong kho trong dây chuyền sản xuất, trong cửa hàng, văn phòng, nhà ở, giá trị bảo hiểm được xác định theo giá trị bình quân hoặc giá trị tối đa của các loại vật tư, hàng hóa có mặt trong thời gian bảo hiểm. 2.3.2. Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm là giá trị tài sản được người bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm, đó là giới hạn bồi thường tối đa của người bảo hiểm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Số tiền bảo hiểm còn là căn cứ để xác định phí bảo hiểm.Vì thế xác định chính xác số tiền bảo hiểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cơ sở xác định số tiền bảo hiểm có thể được xác định theo giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa. Nếu bảo hiểm theo giá trị trung bình: người được bảo hiểm tính trước và thông báo cho người bảo hiểm giá trị của số hàng hóa trung bình có trong kho, trong cửa hàng…theo số dư thực tế của từng tháng hoặc từng quý trong thời gian bảo hiểm. Giá trị trung bình này được coi là số tiền bảo hiểm.Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị trung bình.Khi tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm bảo hiểm, người bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trị trung bình đã khai báo. Nếu bảo hiểm theo giá trị tối đa ( hay còn gọi là giá trị điều chỉnh): người được bảo hiểm ước tính và thông báo cho người bảo hiểm giá trị của số lượng vật tư, hàng hóa tối đa có thể đạt vào một thời điểm nào đó trong thời hạn bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính theo giá trị tối đa này, song chỉ tạm nộp một phần. Đầu mỗi tháng hoặc quý, người được bảo hiểm thông báo cho nhà bảo hiểm số vật tư, hàng hóa tối đa thực có trong tháng trong quý trước đó.Cuối thời hạn bảo hiểm trên cơ sở các giá trị được thông báo, nhà bảo hiểm tính giá trị số vật tư, hàng hóa tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại phí bảo hiểm.Nếu trong thời hạn bảo hiểm, xảy ra rủi ro thuộ phạm vi bảo hiểm và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân tính được thì phí bảo hiểm được tính dựa vào số tiền bồi thường đã trả.Trong trường hợp này số tiền bồi thường được coi là số tiền bảo hiểm.Bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người được bảo hiểm xuất trình sổ sách kế toán để kiểm tra các số liệu được thông báo. Nếu vật tư hàng hóa mua về để kinh doanh, nếu có thỏa thuận còn được bảo hiểm cả lãi kinh doanh. Lãi kinh doanh được xác định bằng tỷ lệ lãi bình quân của người được bảo hiểm thu được đối với vật tư, hàng hóa trước khi xảy ra tổn thất. Việc áp dụng bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp, đòi hỏi nhà bảo hiểm phải biết giá trị hàng hóa được bảo hiểm, theo dõi chặt chẽ số hàng háo đó trong suốt thời gian bảo hiểm. Những tài sản có giá trị lớn công ty bảo hiểm khó có thể tái bảo hiểm vì tính phức tạp và khó khăn. Ngược lại, bảo hiểm theo giá trị trung bình lại đơn giản, dễ theo dõi. Nếu một loại hàng hóa được bảo hiểm giá trị biến động trên thị trường thì việc áp dụng phương pháp này rất thuận tiện. Phí bảo hiểm . Các nhân tố làm ảnh hưởng đến phí bảo hiểm họa hoạn Có rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến biếu phí và đối tượng bảo hiểm hỏa hoạn đa dạng về chủng loại , giá trị và mực độ rủi ro . Bởi vậy không thể áp dụng một biểu phí cố định . Trên thực tế , một số yếu tố cơ bản làm ảnh hưởng đến biểu phí : Ngành nghề kinh doanh chính của người được bảo hiểm khi sử dụng những tài sản được bảo hiểm vào kinh doanh . Mỗi ngành nghề sử dụng một loại nguyên vật liệu , máy , móc , thiết bị , nguồn động lực riêng để sản xuất ra những sản phẩm khác nhau . Những yếu tố trên có độ bén và đọ chịu lửa khác nhau vì vậy nguy cơ tổn thất cũng khác nhau Độ bền vững và kết cấu cảu nhà xưởng , vật kiến trức : việc đánh giá độ bền vững và kết cấu của nhà xưởng , vật kiến trúc dựa trên các yếu tố : khung nhà tường nhà , sàn nhà , số lượng từng và độ cao của tòa nhà , mái nhà , trang trí nội thất bên trong . Tổng hợp kết quả phân loại của từng yếu tố được kết quả phân loại của nhà cửa , vật kiến trúc . Tùy theo các yếu tố kết hợp vật liệu xây dựng có thể chịu đựng được lâu dài hay không đối với sức nóng người ta chia làm ba loại ( theo độ chịu lửa ) + Vật liệu nặng khó bắt lửa và có khả năng chịu lửa tốt như bê tong , cốt thép , đá , loại này được sử dụng để xây dựng công trình loại D + Vật liệu trung gian : là vật liệu nhiều chất hóa học trộn với vật liệu thiên nhiên , khả năng chịu lửa không tốt bằng vật liệu nặng , loại này được sử dụng để xâu dựng công trình loại N + Vật liệu nhẹ : loại này dễ bắt lửa và không có sức chịu lửa , loại nàu được sử dụng để xây dựng công trình loại L Vị trí của tài sản : trường hợp những tài sản được bảo hiểm ở trong cùng một tòa nhà , kho tàng gần nhau và không có bức tường chống lửa giữa các tòa nhà , kho tàng . Khi xảy ra hỏa hoạn , hơi lửa hoặc hơi nóng sẽ được truyền lên qua các tầng nhà , qua các cầu thanh lên xuống , qua lỗ hổng hoặc qua các cửa sổ làm cho các tầng nhà có thể bị sâph kéo theo các thiệt hại bên trong . Đó là các yếu tố làm tăng thêm mức trầm trọng của rủi ro , ảnh hưởng đến phí bảo hiểm Phòng cháy chữa cháy : đây là một yếu tố quan rọng ảnh hưởng đến việc tính phí . Công tác phòng cháy chữa cháy là một yếu tố để điều chỉnh phí bảo hiểm . Nếu công tác phòng cháy chữa cháy được trang bị tốt để hạn chế thấp nhất rủi ro xảy ra thì phí bảo hiểm được tính thấp hơn Vị trí nguồn nước gần hay xa nguồn nước , đội cứu hỏa , cũng ảnh hưởng đến một phần phí bảo hiểm Phương pháp xác định phí bảo hiểm Phí bảo hiểm họa hoạn được tính theo công thức : P = Sb ´ R Trong đó: P - Phí bảo hiểm. Sb - Số tiền bảo hiểm. R - Tỷ lệ phí bảo hiểm. Tỷ lệ phí bảo hiểm cháy thường được chia làm hai bộ phận là tỷ lệ phí thuần và tỷ lệ phí phụ R = R1 + R2 Trong đó: R1 - Tỷ lệ phí thuần R2 - Tỷ lệ phí phụ Có hai phương pháp xác định tỷ lệ phí thuần : theo phân loại và theo danh mục + Xác định tỷ lệ phí thuần theo phân loại : Đây là cách kết hợp các đơn vị có thể so sánh với nhau cùng một loại , sau đó tính tỷ lệ phí mỗi loại phản ánh số tổn thất và các chi phí khác của loại đó . Phương pháp này phù với với những tài sản tương đối đồng nhất với nhau như nhà ở dân cư , các nhà thờ + Xác định tỷ lệ phí thuần theo danh mục : theo phương pháp này tỷ lệ phí bảo hiểm được xác định theo ba bước : Bước 1: Rà xét lại các danh mục tài sản tham gia bảo hiểm cháy rồi phân loại tài sản theo các danh mục tài sản khách nhau. Bước 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để chọn một tỷ lệ phí thích hợp trong bảng tỷ lệ có sẵn. Bước 3: Điều chỉnh tỷ lệ phí đã chọn theo các yếu tố tăng giảm. CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH VÀ BỒI THƯỜNG TỒN THẤT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN TẠI CHI NHÁNH BẢO HIỂM PJICO THĂNG LONG GIAI ĐOẠN 2007-2009 Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long giai đoạn 2007 – 2009 Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh PJICO Thăng Long giai đoạn 2007 - 2009 Năm Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Doanh thu (tỷ đồng) 13.48 19.86 29.27 Chi phí(tỷ đồng) 4.45 7.25 9.32 Lợi nhuận(tỷ đồng) 9.03 12.61 19.95 Dự phòng(tỷ đồng) 5.3 7.9 13.1 (Nguồn : chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long ) Đối với năm 2007 doanh thu phí bảo hiểm đạt 13.4 tỷ đồng , chi phí bồi thường là 4.4 tỷ , lợi nhuận đạt 9 tỷ đồng Năm 2008 các chỉ tiêu doanh thu , chi bồi thường bảo hiểm có sự thay đổi . Nhìn trên bảng số liệu ta thấy doanh thu năm 2008 đạt 19.86 tỷ đồng tăng 6.3 tỷ so với năm 2007 tuy nhiên chi phí cũng có tăng lên 7.2 tỷ đồng tăng 2.8 tỷ so với năm 2007 . Nhưng ta thấy lợi nhuận năm 2008 chỉ đạt 12,6 tỷ đồng tăng 3.6 tỷ đồng so với năm 2007 , điều này đòi hỏi chi nhánh phải có các chiến lược cụ thể để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh hơn . Cùng với sự tăng lên của lợi nhuận thì dự phòng nghiệp vụ cũng tăng lên so với năm 2007 điều này cũng là động lực giúp cho chi nhánh có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh trong năm 2009 Năm 2009 nhìn vào bảng số liệu có thể nói các chỉ tiêu đã được khắc phục đáng kể, với tổng doanh thu tăng lên mạnh đạt 29.27 tỷ , tổng chi phí cũng tăng lên nhưng với mức độ tăng chậm hơn so với mức độ tăng trưởng của tổng doanh thu, đạt 9.3 tỷ chỉ tăng 2.1 tỷ so với chi phí năm 2008 . Đây là một dấu hiệu đáng mừng chứng tỏ chi nhánh ngày càng kinh doanh có hiệu quả hơn, tính chính xác, chuyên nghiệp hơn. II . Thực trạng công tác giám định và bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm họa hoản tại chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long giai đoạn 2007 – 2009 . 1. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại chi nhánh bảo hiểm PJICO Thăng Long giai đoạn 2007-2009 Bất cứ doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động kinh doanh đều nhằm mục đích lợi nhuận, nhưng để có được lợi nhuận thì công ty bảo hiểm không thể chỉ tính trong vài năm mà là theo cả cuộc đời của hợp đồng bảo hiểm. Quá trình hoạch toán của bảo hiểm là quá trình hoạch toán ngược, có nghĩa là tính đến chi phí trước khi tính doanh thu. Lợi nhuận được hình thành trên doanh thu và chi phí. Để thấy rõ kết quả đạt được của chi nhánh ta xem xét bảng sau: Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại PJICO giai đoạn 2007 - 2009 Chỉ tiêu Đơn vị 2007 2008 2009 Số hợp đồng Đơn vị 113 186 294 Doanh thu Đồng 332.847.127 478.638.729 781.106.009 Chi phí Tr.Đồng 183.000.000 205.000.000 335.000.000 Lợi nhuận Đồng 149.847.127 273.638.729 446.106.009 Phân tích số liệu qua bảng trên, ta thấy số hợp đồng tăng theo chiều hướng thuận lợi. Cụ thể năm 2007 số hợp đồng là 113 hợp đồng bảo hiểm. Cho đến năm 2008 là 186 tăng 73 hợp đồng so với năm 2007. Năm 2009 số lượng hợp đồng mà chi nhánh khai thác tăng lên đáng kể , số hợp đồng tăng lên 108 hợp đồng so với năm 2008 , cụ thể là 294 hợp đồng. Đây là một điều đáng mừng khi mà trong điều kiện cạnh tranh gay gắt mà chi nhánh vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng về hợp đồng một cách ổn định. Doanh thu phí cũng biến động theo số hợp đồng tham gia bảo hiểm. Năm 2007 doanh thu phí bảo hiểm đạt 332 triệu đồng và tăng lên 478 triệu đồng vào năm 2008,. Đến năm 2009 doanh thu đạt 781 triệu đồng . Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng chi phí của nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn năm sau vẫn tăng hơn so với năm trước. Cụ thể là năm 2007, chi phí là 183 triệu . Năm 2008 cùng với sự tăng trưởng của số hợp đồng thì chi phí cho năm 2008 tăng 22 triệu đồng so với năm 2007 , cụ thể chi phí là 205 triệu đồng . Năm 2009 cùng với sự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng công tác giám định và bồi thường tồn thất nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại chi nhánh bảo hiểm pjico thăng long giai đoạn 2007-2009.doc
Tài liệu liên quan