Đề án Các loại hình công ty bảo hiểm thương mại ở Việt Nam hiện nay

I. Công ty bảo hiểm nhà nước.

Là loại công ty thuộc sở hữu Nhà nước về vốn cũng như phương thức quản lý, vì vậy trách nhiệm bảo tồn và phát triển về vốn của các công ty này rất nặng nề nhưng có ưu thế cạnh tranh.

II. Công ty bảo hiểm cổ phần.

Là loại hình doanh nghiệp thành lập do các cổ đông tham gia đóng góp vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu và có trách nhiệm hữu hạn.

III. Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam.

Là loại hình doanh nghiệp được thành lập dựa trên sự hợp tác đầu tư góp vốn của một bên là Việt Nam và một bên là các công ty bảo hiểm nước ngoài, hoạt động trên nguyên tắc cùng có lợi, tuy nhiên phải tuân thủ luật pháp Việt Nam.

IV. Công ty bảo hiểm chuyên ngành.

Là loại hình doanh nghiệp được thành lập do yêu cầu đặc thù của ngành kinh tế để đảm bảo khả năng ổn định xã hội, nhằm tăng cường chất lượng phục vụ và đa dạng hóa các dịch vụ bảo hiểm v.v.

 

doc41 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3948 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các loại hình công ty bảo hiểm thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng sản Cổ phiếu Trái phiếu TgNH Khác Bỉ 4,3 19,9 72,7 1,9 1,2 Đan Mạch 1,8 25,7 64,2 1,2 7,1 Pháp 8,0 15,7 73,6 1,3 1,3 Đức 5,0 20,9 72,5 1,0 0,7 Italia 11,9 15,2 69,9 2,8 0,0 Hà Lan 6,2 20,9 66,8 1,3 4,7 Na Uy 6,6 35,4 56,8 1,2 - Thụy Điển 12,5 17,1 63,3 1,3 5,7 Anh 6,7 50,1 35,0 2,2 6,0 Nguồn: FFSA (L'Assurance Francaise 1996) Với các vai trò trên, bảo hiểm phát huy tác dụng hết sức quan trọng đối với nền kinh tế, đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Tác dụng đó chính là: tập trung, tích tụ vốn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất (giản đơn và mở rộng) được thường xuyện và liên tục. Tác dụng này càng quan trọng đối với nước ta hiện nay khi mà nó có thể góp phần tích cực vào việc tăng số vốn đầu tư chính từ nội bộ của nền kinh tế, huy động và tận dụng một cách triệt để nhất các quỹ tiền tệ nằm rải rác trong dân cư. Chính vì những tác dụng tích cực nói trên, của bảo hiểm, mà ở bất kỳ quốc gia nào, dù đã phát triển hay đang phát triển, chính phủ luôn tìm nhiều cách khác để thúc đẩy, khuyến khích hoạt động bảo hiểm phát triển, tăng số lượng các loại hình bảo hiểm bắt buộc, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với người kinh doanh bảo hiểm hoặc miễn giảm thuế doanh thu đánh trên phí bảo hiểm, thuế thu nhập cá nhân đánh trên các khoản tiền bảo hiểm được nhận lương đối với người được bảo hiểm, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà bảo hiểm đầu tư. III. Đặc điểm của bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm thương mại là một bộ phận trong hệ thống bảo hiểm nói chung, là hoạt động bảo hiểm được thực hiện bởi các tổ chức kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm thương mại chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm đều doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trước trên hợp đồng. Nội dung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ngoài mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng của mình (gọi là người được bảo hiểm) còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa người bảo hiểm gốc và người nhận tái bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm và bao hàm các hoạt động của trung gian bảo hiểm như: môi giới, đại lý... Hoạt động bảo hiểm nói chung, bảo hiểm bảo hiểm thương mại nói riêng tạo ra được một "sự đóng góp của số đông vào rủi ro của số ít" trên cơ sở quy tụ nhiều người có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Số người tham gia càng đông, tổn thất càng phân tán rộng, rủi ro càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất thể hiện ở mức phí bảo hiểm mà người tham gia phải đóng là nhỏ nhất đủ để mỗi người đó không ảnh hưởng gì quan trọng đến hoạt động sinh hoạt sản xuất của mình. Hoạt động theo qui luật số đông, đó là nguyên tắc cơ bản nhất của bảo hiểm. Bên cạnh đó, đám đông tham gia vào cộng đồng càng lớn thể hiện nhu cầu bảo hiểm càng tăng theo đà phát triển của nền kinh tế - xã hội, những người được bảo hiểm không thể và cũng không cần biết nhau họ chỉ biểu người quản lý cộng đồng (doanh nghiệp bảo hiểm) là người nhận phí bảo hiểm và cam kết sẽ bình thường cho họ khi có rủi ro tổn thất xảy ra. Hoạt động bảo hiểm thương mại tạo ra một sự hoán chuyển rủi ro từ những người được bảo hiểm qua người bảo hiểm trên cơ sở một văn bản pháp lý: Hợp đồng bảo hiểm. Điều này đã tạo ra một rủi ro mới đe dọa mối quan hệ giữa hai bên trên hợp đồng. Dịch vụ bảo hiểm thương mại là một lời cam kết, liệu lúc xảy ra tổn thất, doanh nghiệp bảo hiểm có thực hiện hoặc có khả năng thực hiện cam kết của mình hay không trong khi phí bảo hiểm đã được trả theo "nguyên tắc ứng trước". Ngược lại các rủi ro, tổn thất được bảo hiểm được minh thị rõ ràng trên hợp đồng, liệu có sự man trá của phía người được bảo hiểm này không để nhận lượng tiền bảo hiểm. Như vậy, mối quan hệ mối quan hệ giữa hai bên trên hợp đồng bảo hiểm gắn liền với sự tin tưởng lẫn nhau và điều này đoì hỏi phải đảm bảo nguyên tắc cơ bản thứ hai là nguyên tắc "trung thực tuyệt đối". Nhìn chung, bảo hiểm thương mại có một số đặc điểu sau: - Trước tiên, hoạt động bảo hiểm thương mại là một hoạt động thỏa thuận (còn gọi là bảo hiểm tự nguyện). - Hai là, sự tương hỗ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong "cộng đồng có giới hạn" một "nhóm đóng". - Ba là, bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho các rủi ro bản thân mà còn cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm. IV. Phân loại bảo hiểm thương mại. 1. Phân loại theo đối tượng bảo hiểm. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm thì toàn bộ các loại hình nghiệp vụ được chia thành 3 nhóm. + Bảo hiểm tài sản. + Bảo hiểm con người. + Bảo hiểm trách nhiệm dân sự. (1) Bảo hiểm tải sản: là loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro tổn thất về tài sản như mất mát, hủy hoại về vật chất, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào giá trị thiệt hại thực tế và mức độ bảo đảm thuận tiện hợp đồng. (2) Bảo hiểm con người: đối tượng của các loại hình này chính là tính mạng, thân thể, sức khỏe của con người. Người ký hợp đồng bảo hiểm nộp phí bảo hiểm để thực hiện mong muốn nếu như rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người được bảo hiểm thì họ hoặc một người thụ hưởng hợp pháp khác sẽ nhận được khoản tiền do người bảo hiểm trả. (3) BHTNDS: (Bảo hiểm trách nhiệm dân sự). BHTNDS có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm phát sinh do ràng buộc của các qui định phát sinh trong luật dân sự. Theo đó, người được bảo hiểm phải bồi thường bằng tiền cho người thứ 3 những thiệt hại gây ra do hành vi của mình hoặc do sự vận hành của tài sản thuộc sở hữu của chính mình. 2. Phân loại bảo hiểm theo kỹ thuật bảo hiểm. Đây là cách phân loại của các chuyên gia Pháp và châu Âu. + Phân loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật "phân bổ". + Phân loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật "tồn tích vốn". (1) Các loại bảo hiểm dự trên kỹ thuật phân bổ: là các bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất ổn định (tương đối) theo thời gian và thường độc lập với tuổi thọ con người (nên gị là bảo hiểm phi nhân thọ. Hợp đồng bảo hiểm loại này thường ngắn hạn (1 năm). (2) Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật tồn tích vốn: là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất thay đổi (rõ rệt) theo thời gian và đối tượng, thường gắn liền với tuổi thọ con người (nên gọi là bảo hiểm nhân thọ) các hợp đồng loại này thường là trung và dài hạn. 3. Phân loại theo tính chất của khoản bồi thường. + Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi thường. + Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi khoán. (1) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc khoán: theo nguyên tắc này, số tiền mà người bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không bao giờ vượt quá giá trị thiệt hại thực tế. Các loại bảo hiểm này gồm có: bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự (gọi chung là bảo hiểm thiệt hại), tuy nhiên ngày nay người ta có xu hướng đưa cả bảo hiểm tai nạn và bệnh tật vào loại này - bảo hiểm IARN. (2) Các loại bảo hiểm có số tiền trả theo nguyên tắc khoán: người được bảo hiểm sẽ nhận được số tiền khoán theo đúng mức mà họ đã thỏa thuận trước trên hợp đồng bảo hiểm với người bảo hiểm tùy thuộc và phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng đóng phí. Đây chính là các loại bảo hiểm Nhân thọ và một số trường hợp của bảo hiểm tai nạn bệnh tật. 4.Phân loại theo phương thức quản lý. + Bảo hiểm tự nguyện. + Bảo hiểm bắt buộc. (1) Bảo hiểm tự nguyện: là những loại bảo hiểm mà hợp đồng được kết lập dựa hoàn toàn trên sự cân nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của Bảo hiểm thương mại khi nó có vai trò như là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt con người. (2) Bảo hiểm bắt buộc: được hình thành trên cơ sử luật định nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Các hoạt động nguy hiểm có thể dẫn đến tổn thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề nghiệp thường là đối tượng của bảo hiểm bắt buộc này. V. Quá trình phát triển bảo hiểm thương mại ở Việt Nam. Lịch sử ra đời và phát triển bảo hiểm ở Việt Nam có thể khái quát thành 3 giai đoạn chính. + Giai đoạn trước 1975. + Giai đoạn từ sau 1975 đến trước 18/12/1993. + Giai đoạn từ 18/12/1993 đến nay. 1. Trước 1975. Trước 1975 hoạt động kinh doanh bảo hiểm khá phát triển ở miền Nam, đã có trên 52 công ty (trong nước, ngoài nước). Các công ty trong nước được thành lập với hình thức hội vô danh và hội tương hỗ, các công ty nước ngoài thành lập ở Việt Nam dưới hình thức công ty chi nhánh, hầu hết các công ty đều đặt trụ sở ở Sài Gòn, là trung tâm kinh tế lúc ở miền Nam lúc bấy giờ. Ở miền Bắc giai đoạn này Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) ra đời theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/12/1964 duy nhất đại diện cho ngành Bảo hiểm Việt Nam. Trong thời gian này do đất nước có chiến tranh nên hoạt động của Bảo Việt ở miền Bắc chưa phát triển, với 2 chi nhánh ở Hà Nội và Hải Phòng, thực hiện chủ yếu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển. 2. Giai đoạn từ 30/4/75 - 18/12/93. Sau giải phóng miền Nam, việc quốc hữu hóa các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam đã dẫn đến thành lập công ty Bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam (BAVINA). Năm 1976 sau khi thống nhất đất nước BAVINA được chuyển thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh (BAO VIET/HCM). Như vậy thời gian này Bảo Việt là công ty bảo hiểm duy nhất của Nhà nước hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam theo chế độ hạch toán kinh tế thống nhất toàn ngành, điều này đã gây nên tình trạng độc quyên của Bảo Việt. Bảo Việt đã nghiên cứu triển khai các nghiệp vụ mới, đối nội lẫn đối ngoại, nâng cấp lên thành Tổng công ty có chi nhánh ở khắp các địa phương trên cả nước. 3. Giai đoạn sau 18/12/93. Ngày 18/12/93 trước nhu cầu cần thiết phải đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế đang chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 100/CP qui định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Với qui định này, thế độc quyền của Bảo Việt đã được phá vỡ, các tổ chức bảo hiểm theo nhiều hình thức pháp lý khác thuộc nhiều thành phần kinh tế có thể tham gia thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm ở Việt Nam, và do đó một số doanh nghiệp bảo hiểm đã ra đời: VINARE, BAOMINH, PJICO... Các văn phòng đại diện của các tổ chức bảo hiểm ngoại quốc được mở cửa nhằm tiến đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (INCHIBROK, VIA, PRUDENTIAL...). Như vậy sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo ra động lực cạnh tranh, tạo điều kiện để mạng lưới phân phối sản phẩm bảo hiểm ra đời một cách rộng khắp (đại lý, chi nhánh). Người được bảo hiểm đã có thể lựa chọn cho mình doanh nghiệp bảo hiểm phục vụ tốt nhất thay vì chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm như trước đây. PHẦN II CÁC LOẠI HÌNH CÔNG TY BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI. I. Công ty bảo hiểm nhà nước. Là loại công ty thuộc sở hữu Nhà nước về vốn cũng như phương thức quản lý, vì vậy trách nhiệm bảo tồn và phát triển về vốn của các công ty này rất nặng nề nhưng có ưu thế cạnh tranh. II. Công ty bảo hiểm cổ phần. Là loại hình doanh nghiệp thành lập do các cổ đông tham gia đóng góp vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu và có trách nhiệm hữu hạn. III. Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam. Là loại hình doanh nghiệp được thành lập dựa trên sự hợp tác đầu tư góp vốn của một bên là Việt Nam và một bên là các công ty bảo hiểm nước ngoài, hoạt động trên nguyên tắc cùng có lợi, tuy nhiên phải tuân thủ luật pháp Việt Nam. IV. Công ty bảo hiểm chuyên ngành. Là loại hình doanh nghiệp được thành lập do yêu cầu đặc thù của ngành kinh tế để đảm bảo khả năng ổn định xã hội, nhằm tăng cường chất lượng phục vụ và đa dạng hóa các dịch vụ bảo hiểm v.v... PHẦN III CÁC LOẠI HÌNH CÔNG TY BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VÀ CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT BAN HÀNH QUI ĐỊNH SỰ THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI. 1. Thị trường bảo hiểm. Theo thuật ngữ bảo hiểm, thị trường bảo hiểm là nơi mua và bán các dịch vụ bảo hiểm. Thị trường gắn liền với các hình thức tổ chức bảo hiểm, ở đó người mua (khách hàng - người tham gia) có thể mua các dịch vụ bảo hiểm thích hợp. Các dịch vụ bảo hiểm gắn liền các nghiệp vụ bảo hiểm, người mua bảo hiểm là cá nhân hay tập thể có nhu cầu bảo hiểm về sức khỏe, tài sản hay trách nhiệm dân sự. Đến thị trường bằng cách trực tiếp hay thông qua môi giới (đại lý) để mua các dịch vụ bảo hiểm mà mình mong muốn từ người bán. 2. Khung pháp lý cho hoạt động bảo hiểm thương mại ở Việt Nam. - Nghị định 100 CP ngày 18/12/1993 và Nghị định 74/CP ngày 14/5/1997 của Chính phủ ban hành về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. - Các Thông tư hướng dẫn thực hiện: + Thông tư 46/TC/CĐTC ngày 30/5/94 của Bộ Tài chính qui định chế độ quản lý tài chính với doanh nghiệp bảo hiểm. + Thông tư số 26/1998/TT - BTC ngày 4/3/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm. + Thông tư số 27/1998/TT - BTC ngày 4/3/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn hoạt động khai thác bảo hiểm và quản lý phí bảo hiểm. - Quyết định số 1235 - TC/QĐ/TCNH ngày 9/12/95 của Bộ tài chính về việc tái bảo hiểm bắt buộc. - Quyết định số 1296/QĐ/CĐKT ngày 31/12/96 của Bộ trưởng Tài chính về việc ban hành hệ thống chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp bảo hiểm. - Bộ Luật dân sự phần 3 chương II mục 11 (từ điều 571 - 584) qui định Hợp đồng bảo hiểm. - Quyết định số 927 - TC/QĐ/TCHH ngày 18/08/95 của Bộ trưởng bộ Tài chính về việc sửa đổi phạm vi áp dụng các qui tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm. - Bộ luật Hàng hải, chương XVI từ điều 200 - 240 qui định về Hợp đồng bảo hiểm hàng hải. - Quyết định 314/CP - HĐCP ngày 1/10/90 của Hội đồng Chính phủ về chế độ bảo hiểm tai nạn hành khách. - Điều 52, điều lệ quản lý đầu tư xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 177/CP ngày 20/10/94 của Chính phủ qui định về bảo hiểm bắt buộc xây lắp. - Luật hàng không dân dụng Việt Nam điều 72 - 93 qui định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực hàng không. II. CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM. 1. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam là doanh nghiệp bảo hiểm đầu tiên hoạt động trên thị trường Việt Nam sau cách mạng tháng 8/1945. Được thành lập ngày 17/12/1964, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước được xếp hạng đặc biệt, trực thuộc Bộ tài chính và doanh nghiệp bảo hiểm lớn nhất Việt Nam hiện nay và còn tiếp tục duy trì vị thế này trong một thời gian dài sau này. Với hoạt động trong cả hai lĩnh vực Nhân thọ và phi nhân thọ, Bảo Việt luôn đi đầu trong các nghiệp vụ bảo hiểm với tổng doanh thu phí bảo hiểm vượt xa các công ty bảo hiểm khác, luôn khẳng định được lợi thế mạnh của mình trong việc đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, đồng thời với số vốn lớn, Bảo Việt đảm bảo khả năng tài chính trong mọi tình huống. Là chỗ dựa vững chắc cho khách hàng. Mặc dù kể từ sau Nghị định 100 CP ra đời, Bảo Việt dần mất đi vị thế độc quyền trên thị trường, thị phần có bị thu hẹp lại nhưng nếu tiến đến tổng doanh thu phí bảo hiểm thì bảo hiểm vẫn tiếp tục đã tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước. Chỉ từ nghiệp vụ bảo hiểm hàng không, Bảo Việt luôn là người dẫn đầu trong việc bảo hiểm cho các công trình lớn của đất nước trên mọi lĩnh vực. Với kinh nghiệm và uy tín sẵn có, Bảo Việt đang tạo được một thế đững vững chắc trong hoạt động cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Hiện nay, Bảo Việt đã thiết lập được mạng lưới đại lý, các chi nhánh trên tất cả 61/61 tỉnh thành phố trong cả nước với trên 4000 cán bộ, nhân viên và đại lý bảo hiểm. Chính nhờ mạng lưới đại lý rộng khắp này nên Bảo Việt đã và đang trở thành cái tên quen thuộc không chỉ đối với khách hàng ở các tỉnh, thành phố lớn, mà còn vươn tới những vùng miền đang sản phẩm của đất nước. Điều mà không phải bất cứ một công ty bảo hiểm nào khác có thể làm được trong một vài năm tới. Năm 1997 Bảo Việt tiếp tục đảm nhận cho hầu hết các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, các nhà máy lớn như Cầu Bắc Mỹ Thuận, Công trình thuỷ điện Hàm Thuận - Đami, Nhà máy đóng tàu Huyndai - Khánh Hòa, Tòa nhà Central Building Hà Nội... Vì vậy, trong lĩnh vực ảo hiểm phi hàng hải của Bảo Việt, đặc biệt là những nghiệp vụ liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng cao. So với năm 1996, số phí bảo hiểm thu được của nghiệp bảo hiểm cháy tăng hơn 30%, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu và vận chuyển nội địa tăng 10%. Các đơn vị thành viên lớn của Tổng Công ty như Bảo Việt Sài Gòn, Hà Nội, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Khánh Hòa... vẫn thực sự là các mũi chủ công hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao, một số đơn vị như Bảo Việt Hà Tây, Khánh Hòa không những hoàn thành kế hoạch từ tháng 10 mà còn có mức tăng trưởng cao so với năm 1996. Hoạt động bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt cũng thu được những kết quả khả quan. Nếu năm 1996, Bảo Việt mới chỉ bán được 1000 hợp đồng, thì sang năm 1997, con số hợp đồng phát hành đã đạt gần 30.000 hợp đồng. Năm 1999, Bảo Việt có thêm các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mới để phục vụ tốt hơn nhu cầu khách hàng. Song song với việc đa dạng hóa, phát triển sản phẩm phục vụ khách hàng Bảo Việt luôn chú trọng nâng cao chất lượng công tác giải quyết bồi thường. Năm qua, Bảo Việt đã giải quyết nhanh chóng trên 400.000 vụ tổn thất, tai nạn, trong đó có các vụ tổn thất lớn đáng chú ý như: Vụ tổn thất toàn bộ 7.000 tấn bột mỳ nhập khẩu từ Ấn Độ và 5.000 tấn phân bón nhập từ Inđônêsia thiệt hại 3,3 triệu USD; Vụ cháy kho lông vũ của xí nghiệp Viva tại khu chế xuất Tân Thuận và cháy xí nghiệp giầy của Công ty NNHH Thái Bình - Sông Bé (cũ) với số tiền bồi thường gần 2 triệu USD. Đặc biệt, khi cơn bão số 5 (Linda) đổ bộ vào khu vực phía Nam, gây thiệt hại nghiêm trọng đến người và của cải, ngay lập tức không chỉ cán bộ của Bảo Việt ở các địa phương mà cả đoàn cán bộ từ Văn phòng Tổng Công ty đã tới từng vùng bị bão lụt, cùng cơ quan địa phương xem xét, giải quyết hậu quả và bồi thường cho các chủ tàu sông, tàu cá ở những vùng bị thiệt hại với số tiền gần 35 tỷ đồng. Có thể nói, đây là thiệt hại lớn nhất từ trước đến nay mà Bảo Việt phải gánh chịu mà không có sự tham gia của các nhà nhận tái bảo hiểm trên thế giới. Nhưng cũng có thể nói, qua thiệt này đã bộc lộ khả năng giải quyết sự cố và bồi thường của hệ thống Bảo Việt trong cả nước - do có quỹ dự phòng bồi thường tổn thất lớn, nên Bảo Việt hoàn toàn có đủ khả năng chi trả cho các khách hàng. Bên cạnh khoản tiền bồi thường kể trên, Bảo Việt còn hỗ trợ, ủng hộ cho các tỉnh bị thiệt hại 150 triệu đồng để khắc phục hậu quả cơn bão. Trong năm qua, với trên 750 tỷ đồng trích lập dự phòng thiệt hại, bồi thường cho khách hàng Bảo Việt đã kịp thời góp phần ổn định hoạt động kinh doanh và đời sống cho các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm không may bị tổn thất, thiệt hại, được các doanh nghiệp, cá nhân cám ơn và khen ngợi. 2. Công ty tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam. Công ty tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE) là doanh nghiệp nhà nước được thành lập ngày 27/9/1994 với số vốn ban đầu được nhà nước cấp là 40 tỷ VNĐ, công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam đã thực hiện kinh doanh nhận tái bảo hiểm trong nước và quốc tế, với tổng phí nhận tái bảo hiểm cho đến nay đã đạt trên 945 tỷ VNĐ, trong đó tổng phí giữ lại cho thị trường trong nước đạt gần 400 tỷ VNĐ. Sau 5 năm hoạt động từ 1995 - 2000, công ty đã nâng tổng số vốn chủ sở hữu và kết dư quỹ dự phòng nghiệp vụ đạt trên 165 tỷ VNĐ, nộp ngân sách nhà nước trên 31 tỷ VNĐ. Toàn bộ vốn nhàn rỗi đã được đầu tư cho nền kinh tế thông qua các hình thức góp vốn liên doanh, cổ phần với các tập đoàn kinh tế trong nước, mua trái phiếu, tín phiếu xây dựng tổ quốc. Ngoài nhiệm vụ kinh doanh, công ty tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ đầu mối điều tiết dịch vụ bảo hiểm cho thị trường bảo hiểm trong nước, tạo điều kiện cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam được tham gia nhận các dịch vụ bảo hiểm trên thị trường nhằm giảm thiểu tình trạng chuyển phí bảo hiểm bằng ngoại tệ ra ngoài nước. Đồng thời Công ty cũng là đầu mối giúp thị trường trên các lĩnh vực: kỹ thuật tái bảo hiểm, khai thác, bồi thường, đề phòng hạn chế tổn thất, cung cấp thông tin - đào tạo, đánh giá, nhận xét xu hướng của thị trường, giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cườngchất lượng dịch vụ đối với khách hàng. Trong hoạt động bảo hiểm dầu khí, ngoài vai trò của hai công ty bảo hiểm gốc là Bảo Việt và PVIC, VINARE cũng là một nhân tố nổi bật trên thị trường bảo hiểm dầu khí. Với chức năng nhận tái bảo hiểm dầu khí, VINARE còn có nhiệm vụ điều tiết thị trường bằng cách chuyển nhượng lại một phần dịch vụ bảo hiểm dầu khí cho các công ty bảo hiểm khác trong nước, chính nhờ đó mà một lượng lớn ngoại tệ được giữ lại trong nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp khác càng kinh doanh và phát triển. Trong hoạt động bảo hiểm kỹ thuật, VINARE đã có nhiều đóng góp trong việc chuyển nhượng một phần phí bảo hiểm cho các nhà bảo hiểm trong nước, trước khi chuyển phí ra nước ngoài. Mức phí nhượng lại từ Vinare cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước không ngừng tăng lên trong 5 năm qua. Trong giai đoạn gần đây VINARE đã có sự tư vấn cho Việt Nam Airlines mua bảo hiểm hàng không dài hạn để tránh sự tăng phí quá cao do tình hình tổn thất luôn ở mức cao, đồng thời tranh thủ sự hợp tác lâu dài, đôi bên cùng có lợi. Khi có tổn thất xảy ra, cùng với các công ty bảo hiểm gốc, VINARE đã nhanh chóng nắm bắt thông tin, đồng thời tiến hành các biện pháp nghiệp vụ xác định nguyên nhân và nhanh chóng hoàn tất thủ tục trả tiền bồi thường cho khách hàng không may gặp rủi ro. Chẳng hạn với vụ tai nạn máy bay TU 134 tại Capachia năm 1997, VINARE đã ngay lập tức tạm ứng cho Việt Nam Airlines 800.000 USD và sau đó đã tích cực, nhanh chóng giải quyết bồi thường cho người thân của các nạn nhân xấu số, cho đến nay vụ việc đã được cơ bản giải quyết với số tiền bồi thường lên tới 18 triệu USD. Chính nhờ đó uy tín của VINARE ngày càng nâng cao thị trường ngày càng lớn dần. 3. Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh). Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) là doanh nghiệp bảo hiểm được tách từ công ty bảo hiểm Sài Gòn (thực thuộc tổng công ty bảo hiểm Việt Nam). Được thành lập từ ngày 28/11/1994, công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh hoạt động trong cả hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ với số vốn điều lệ là 40 triệu VNĐ, mặc dù là một công ty được tách ra từ Bảo Việt nhưng Bảo Minh ngày càng phát triển với tốc độ nhanh chóng và ddang giữ vị trí "Á quân" trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam. Với cách thức phục vụ khách hàng tiên tiến và mạng lưới rộng khắp đất nước, Bảo Minh đã đạt được những thành tựu đáng kể trên mọi mặt và có ảnh hưởng tích tới thị trường bảo hiểm của quốc gia. Tính đến nay, công ty đã có 21 chi nhánh, 3 văn phòng đại diện và hơn 50 tổng đại lý trên toàn quốc với hơn 500 cán bộ, công nhân viên. Bảo Minh đang ăng dần thị phần của mình từ 21,33% năm 1997 lên tới 24,37% năm 1999 và dự kiến đạt 25% năm 2000. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, ổn định, đồng nghĩa với việc tăng thị phần là việc doanh thu phí bảo hiểm gốc cũng không ngừng tăng lên. Đặc biệt hiện nay ở Việt Nam, trong lĩnh vực bảo hiểm hàng không, Bảo Minh hiện là công ty bảo hiểm dẫn đầu trong dịch vụ bảo hiểm hàng không, đồng thời cũng là nhà bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu lớn thứ hai tại Việt Nam (sau Bảo Việt). Chúng ta có thể nhận thấy tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm gốc của Bảo Minh ngàycàng đi lên, thể hiện qua đồ thị sau: 4. Công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí PVIC: - Công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí PVIC được thành lập ngày 23/011996 trên cơ sở quyết định 330/TTg ngày 25/9/1995 của Thủ tướng chính phủ cho phép thành lập Tổng công ty dầu khí Việt Nam và quyết định số 1396/HĐBT ngày 14/10/1995 của Hội đồng quản trị tổng công ty dầu khí Việt Nam. Tiền thân của công ty bảo hiểm dầu khí là bảo hiểm y tế dầu khí. Một đơn vị hành chính sự nghiệp phục vụ chăm sóc sức khỏe cho cán bộ công nhân viên công tác trong ngành dầu khí. PVIC là doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực bảo hiểm dầu khí, một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam hiện nay. Với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng. Công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí đã tham gia bảo hiểm cho hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong đó có khá nhiều công trình lớn bao gồm bảo hiểm các giàn khoan thăm dò dầu khí. Các tàu chở dầu các giếng khí và các nhà máy điện chạy bằng khí đốt. Với thuận lợi là hoạt động trong môi trường có sự giúp đỡ của tổng công ty dầu khí, PVIC đã và đang được tham gia các hạng mục bảo hiểm, có giá trị tài sản cao, đồng thời có khả năng đàm phán để giữ lại một phần lớn dịch vụ cho các công ty bảo hiểm trong nước, trước khi chuyển nhượng tái bảo hiểm ra nước ngoài. Theo thống kê những năm qua, hàng năm có khoảng từ 90% - 95% giá trị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác loại hình công ty Bảo hiểm thương mại ở Việt Nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan