Luận văn 'Đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương

MỤC LỤC

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI HẢI DƯƠNG VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 5

1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng 5

1.1.1. Một số vấn đề chung về FDI và vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam 5

1.1.2. Hải Dương và vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh 12

1.2. Các nhân tố cơ bản tác động đến quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương 20

1.2.1. Các nhân tố bên ngoài 20

1.2.2. Các nhân tố bên trong 24

Chương 2: THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA HẢI DƯƠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP BÁCH ĐẶT RA 31

2.1. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương thời gian qua 31

2.1.1. Phân tích thực trạng FDI trên các mặt 31

2.1.2. Đánh giá kết quả thu hút FDI 36

2.2. Những vấn đề cấp bách đặt ra 45

2.2.1. Những vấn đề thuộc về môi trường đầu tư của tỉnh 45

2.2.2. Những vấn đề thuộc môi trường đầu tư của nước ta ảnh hưởng đến thu hút FDI của tỉnh 51

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG 56

3.1. Mục tiêu và phương hướng cơ bản thu hút đầu tư nước ngoài của tỉnh Hải Dương 56

3.1.1. Mục tiêu và nhu cầu về vốn đầu tư của Hải Dương giai đoạn 2001 - 2010 56

3.1.2. Phương hướng cơ bản thu hút FDI của Hải Dương 65

3.2. Các giải pháp chủ yếu 71

3.2.1. Thực hiện việc xây dựng qui hoạch tổng thể 72

3.2.2. Xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật 74

3.2.3. Tăng cường công tác quản lý - điều hành 76

3.2.4. Chăm lo đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và đội ngũ người lao động 78

3.2.5. Xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp nước ngoài 81

Kết luận và kiến nghị 84

Danh mục tài liệu tham khảo 86

 

doc89 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1987 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn 'Đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đạt 150 triệu USD, riêng năm 1999 thực hiện vốn FDI đạt 15 triệu USD, 6 tháng đầu năm 2000 đạt 18 triệu USD. Nhìn chung, các dự án FDI đã góp phần tăng nguồn vốn đầu tư phát triển của tỉnh, tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn có sự đóng góp mỗi năm một tăng của thành phần kinh tế có vốn FDI, năm 1996 là 33 tỷ đồng, 1997 là 106 tỷ đồng, 1998 là 192 tỷ đồng, 1999 là 168 tỷ đồng. Về cơ cấu % của sản phẩm doanh nghiệp có vốn FDI trong GDP của tỉnh đã chiếm một tỷ lệ nhất định. Năm 1996 là 0,73 % thì năm 1999 là 2,88% (bảng 16). Bảng 16: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế Đơn vị tính: Tỷ đồng 1996 1997 1998 1999 Tổng số 4.511 4.830 5.694 5.979 Khu vực kinh tế trong nước 4.487 4.724 5.502 5.811 Nhà nước 1.681 1.967 2.310 2.226 Trung ương 1.327 1.557 1.746 1.699 Địa phương 354 410 564 527 Ngoài nhà nước 2.797 2.757 3.192 3.585 Khu vực kinh có vốn ĐTNN 33 106 192 168 Nguồn: [33, 22] Riêng trong sản xuất công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng khá nhanh (bảng 17). Bảng 17: Tổng hợp sản xuất công nghiệp 1996 - 2000 Đơn vị tính: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 Dự báo 2000 Tăng bình quân (%) Giá trị sản xuất (giá 94) 2.734,9 3.399,4 3.749,8 3.556,7 4.000,0 14,0 a- Quốc doanh Trung ương 2.003,5 2.547,9 2.728,7 2.416,6 2.416,6 10,8 b- Công nghiệp địa phương 686,6 793,7 880,9 745,2 945,2 14,9 + Quốc doanh địa phương 293,3 283,4 320,4 344,7 344,7 21,8 + Ngoài quốc doanh 447,3 510,3 560,5 600,5 600,5 11,6 c- Đầu tư nước ngoài 44,9 57,8 140,0 194,9 194,9 53,3 Nguồn: [33, 116] Về lĩnh vực công nghiệp, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có những đóng góp đáng kể trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Năm 1996 kinh tế có vốn FDI đạt 44,9 tỉ đồng, đến năm 1999 đạt 194,9 tỉ đồng, tỷ lệ bình quân hàng năm tăng là 53,3 % / năm. Nhìn chung, tỷ lệ giá trị sản xuất công nghiệp do các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra qua các năm một gia tăng, đóng góp một phần trong giá trị sản xuất công nghiệp và cũng từng bước khẳng định vai trò không thể thiếu được của vốn đầu tư nước ngoài trong phát triển công nghiệp của tỉnh. Đồng thời cũng chứng tỏ rằng FDI cũng phát huy tác dụng đối với sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hải Dương. Thứ hai: Kết quả xuất nhập khẩu, thu ngân sách Nhà nước qua các doanh nghiệp có vốn FDI. Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng từ 36.853 USD năm 1997 lên đến 45 triệu USD năm 1999, tăng 30,5% so với năm 1998, trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có số lượng như sau: Bảng18: Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh (1997 - 1999). Đơn vị tính: 1.000 USD 1997 1998 1999 - Tổng giá trị xuất khẩu 36.853 34.469 45.037 - Trung ương 5.027 6.304 456 - Địa phương 21.838 18.366 37.288 - Đầu tư nước ngoài 9.988 9.799 7.293 Nguồn: [33, 130] Bảng 19: Kim ngạch nhập khẩu của tỉnh (1997 - 1999) Đơn vị tính: 1.000 USD 1997 1998 1999 Tổng giá trị nhập khẩu 32.926 26.348 33.546 Trung ương 1.169 427 161 Địa phương 10.412 10.594 13.845 Đầu tư nước ngoài 21.345 15.327 19.540 Nguồn: [33, 131] Qua số lượng nhập khẩu cho thấy tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu của tỉnh chiếm khoảng 60 % chủ yếu là nhập tư liệu sản xuất. Ngoài phát huy tác dụng đối với tăng trưởng kinh tế của tỉnh, FDI còn đóng góp một phần vào nguồn ngân sách của tỉnh. Với các dự án đã đi vào hoạt động, dự án đều có doanh thu và nộp ngân sách, mặc dù tỷ lệ nộp ngân sách không lớn và không đều qua các năm. Năm 1997 dự án chế tác Kim cương (100% vốn nước ngoài) doanh thu đạt 287.000 USD, nộp ngân sách đạt 17.800 USD. Dự án Công ty tơ lụa hữu nghị Việt - Triều doanh thu 466.800 USD nộp ngân sách Nhà nước 22.255 USD (Công ty này hiện nay cũng đang gặp khó khăn) nên sản xuất chưa có hiệu quả. Một số công ty khác: như công ty Venture, công ty phát triển nông nghiệp Việt Hưng, công ty tắcxi Hồng Hà, công ty thức ăn gia súc Hoa Kỳ đều có doanh thu nộp vào ngân sách Nhà nước. Thứ ba: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm. Các dự án FDI của Hải Dương được đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng trên địa bàn tỉnh gia tăng qua các năm. Do vậy, cùng với quá trình tác động của FDI trong tăng trưởng của GDP, cơ cấu kinh tế cũng có sự chuyển dịch và biến đổi đáng kể. Tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp có chiều hướng giảm đi từ 40,6% năm 1995 xuống còn 36,6% năm 1999 và dự kiến năm 2000 là 35,6%.Tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP cũng tăng lên từ 24,5% năm 1995 đến năm 2000 là 28% Trong những năm qua, kinh tế Hải Dương có nhiều chuyển biến. Tỷ lệ thất nghiệp giảm: từ trên 9% (1994-1995) xuống 4,26% (1997) và đến tháng 8/1998 xuống còn 4%, trong đó ở thành thị từ 6,52% năm 1997 xuống còn 5,81% năm 1998. Đi đôi với việc đầu tư phát triển một số ngành nghề mới, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng tạo điều kiện cho một số người lao động có việc làm. Như đã phân tích, tính đến cuối năm 1999 lao động đang làm việc trong các xí nghiệp, văn phòng công ty có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 1.800 người. Đặc biệt 2 trong 6 dự án đầu tư vào nông nghiệp đã tác động tới việc làm của gần 10 nghìn lao động trong nông nghiệp. Tiền lương tối thiểu của người lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 35 USD...Do vậy đã góp một phần quan trọng giải tỏa những bức xúc về việc làm và ổn định cuộc sống của người lao động. Bên cạnh những thành tựu bước đầu trong việc thu hút nguồn FDI, so với tiềm năng, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cũng như so với các địa phương khác trong phạm vi cả nước thì việc thu hút FDI còn có những hạn chế tồn tại: - Do các ngành kinh tế phải chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, thị trường trong nước và quốc tế thu hẹp. Vốn đầu tư nước ngoài giảm và triển khai chậm, vốn trong nước hạn chế và luôn thiếu hụt, cơ sở hạ tầng tuy được cải thiện nhưng nhiều nơi trong tỉnh còn gặp khó khăn nên chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc thu hút FDI. - Công tác quản lý chỉ đạo điều hành thiếu chặt chẽ, chậm đổi mới, trình độ đội ngũ quản lý doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu năng động, hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại kém hiệu quả. Bên cạnh nhiều dự án đầu tư đã triển khai tốt, tại Hải Dương trong thời gian qua, còn một số dự án triển khai rất chậm, thậm chí không triển khai mà các nhà đầu tư không báo cáo rõ nguyên nhân. Song hiện nay nổi lên một số những hạn chế trong lĩnh vực này như sau: - Việc giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn giữa địa phương có đất với các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân là do sự phối hợp giải quyết giữa tỉnh, huyện, xã thiếu chặt chẽ, đôi lúc chưa thống nhất với mục đích chính là kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài. Sự đền bù giữa các dự án thiếu thống nhất, dự án trước gây khó khăn cho dự án sau, có dự án nhận đất xây hàng rào nhưng để quá lâu không xây dựng theo giấy phép đầu tư, mặt khác đối tác nước ngoài mặc dù đã cố gắng nhưng vẫn còn trì trệ do khủng hoảng tiền tệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm khó khăn dẫn đến tiến độ triển khai chậm. Việc giải quyết đền bù ở một vài dự án chưa quan tâm đến bối cảnh chung, gây khó khăn cho việc đàm phán, hoặc giải quyết đền bù với các dự án khác. - Một số dự án, sau khi nhận giấy phép, triển khai chậm. Có công ty nhận đất để quá lâu không xây dựng theo giấy phép đầu tư, (chẳng hạn như Công ty may quốc tế Venture, văn phòng của công ty Việt Hưng), còn dự án xi măng Phúc Sơn, do vốn của các bên Việt Nam ít, dẫn đến tiến độ chậm v.v... Trong hầu hết các dự án liên doanh, phía Việt Nam thường góp vốn bằng giá trị đất. Ví dụ: Tỷ lệ góp vốn pháp định giữa Công ty xi măng Hải Dương và tập đoàn xi măng Lucky Đài Loan là 30% và 70%, phía Công ty xi măng Hải Dương vốn góp chủ yếu là bằng giá trị đất, còn tiền mặt không đáng kể. - Việc tuyển lao động của nhiều Công ty nước ngoài chưa theo đúng quy định của luật lao động và những quy định của tỉnh, do đó gây ra tình trạng lộn xộn trong quản lý lao động, không tôn trọng quyền được lao động trong Công ty của những người dân sở tại, đặc biệt là những người có đất trong diện giải phóng mặt bằng. Khi bước vào sản xuất chưa có nội dung quy chế trên cơ sở của Luật lao động giữa chủ và thợ. Không tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập các tổ chức đoàn thể của người lao động trong doanh nghiệp (duy nhất chỉ Công ty tơ lụa Việt - Triều có chi bộ Đảng). - Về phía Việt Nam các cơ quan chức năng thiếu sự phối hợp nên chưa giúp tỉnh quản lý chặt chẽ các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong việc tuyển lao động để phía nước ngoài lợi dụng làm trái các quy định. Mặt khác đối tác Việt Nam chưa được đào tạo nên bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là yếu kém về trình độ hiểu biết pháp luật, điều đó dẫn đến hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của phía Việt Nam và của người lao động. Khi có những sự việc xảy ra các cơ quan chức năng không có cơ sở để giúp người lao động giải quyết dứt điểm vụ việc. Việc tuyển dụng lao động và cho thôi việc đôi lúc còn tùy tiện. Đội ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo xí nghiệp rất thiếu và không có ngoại ngữ, không đủ năng lực chuyên môn. Trong quá trình triển khai dự án, một số nhà thầu, cơ quan bảo vệ chuyên nghiệp không báo cáo tư cách pháp nhân các đơn vị trúng thầu (nhà thầu chính, các nhà thầu phụ) cho cơ quan quản lý và chính quyền địa phương, gây tình trạng lộn xộn, khó khăn trong lĩnh vực quản lý Nhà nước. Việc lập, đăng ký và sử dụng mạng lưới viễn thông chuyên dùng ở một số doanh nghiệp chưa chấp hành đúng quy định. Chế độ báo cáo quyết toán vốn đầu tư, báo cáo kiểm toán kinh tế chưa được thường xuyên, tất cả đã ảnh hưởng phần nào quá trình quản lý chung của doanh nghiệp và địa phương. - Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc giúp ủy ban nhân dân tỉnh quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa chặt chẽ, như việc tuyển lao động, kiểm tra, kiểm soát, xử lý môi trường chưa đi vào một mối thống nhất. Ví dụ như việc giải quyết vấn đề kênh tiêu nước thải của Nhà máy thực phẩm Nghĩa Mỹ nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi tại địa phương. - Các đơn vị sản xuất chấp hành những cam kết trong hợp đồng thiếu chặt chẽ. Ví dụ hợp đồng trồng và giao sản phẩm chuối với Công ty Việt - Hưng, trước đây và hiện nay nổi lên là thỏa thuận giữa Công ty dâu tằm của tỉnh với Công ty tơ lụa Việt - Triều (giá kén tằm mà Công ty dâu tằm của tỉnh bán cho Công ty tơ lụa Việt - Triều qua các năm tăng nhanh, song khối lượng đáp ứng quá thấp so với nhu cầu. Do đó Công ty tơ lụa Việt - Triều phải mua kén từ Nga, Trung Quốc, hoặc phải đưa từ Triều Tiên sang làm giá thành cao, trong lúc giá tơ trên thế giới không tăng). Tóm lại: Qua hơn 10 năm thực hiện thu hút FDI, mặc dù vấn đề còn mới mẻ, trong điều kiện cán bộ còn hạn chế về sự am hiểu pháp luật, ngoại ngữ... Nhưng do những chủ trương đúng đắn, kịp thời cùng với sự chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh cộng với sự phối hợp của các ngành địa phương và sự hỗ trợ của Trung ương, Hải Dương đã đạt được một số thành tựu, tuy còn nhỏ bé so với nhu cầu, nhưng đó cũng là thành công bước đầu. Những thiếu sót, tồn tại hạn chế nêu trên đang là những vấn đề đặt ra cần phải được giải quyết. Song trước mắt cần tập trung giải quyết một số những vấn đề cấp bách nhằm thu hút FDI. 2.2. Những vấn đề cấp bách đặt ra 2.2.1. Những vấn đề thuộc về môi trường đầu tư của tỉnh Môi trường đầu tư của tỉnh ảnh hưởng không nhỏ đến việc thu hút FDI. Sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, sự cạnh tranh thu hút FDI giữa các nước trên thế giới và khu vực diễn ra gay gắt. Công cuộc thu hút FDI vào nước ta nói chung và Hải Dương nói riêng đang gặp khó khăn, nhất là các vấn đề thuộc môi trường đầu tư. Môi trường thu hút đầu tư nước ngoài bao gồm nhiều nội dung như: Việc ổn định chính trị - kinh tế vĩ mô, vấn đề hành lang pháp lý, cơ sở hạ tầng, chính sách kinh tế, khả năng luân chuyển vốn, môi trường văn hóa xã hội và đời sống, năng lực thị trường... Dựa vào các yếu tố đó của môi trường đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đưa ra quyết định đầu tư nếu thấy môi trường đầu tư thuận lợi và ngược lại. Trong phạm vi của một tỉnh, luận văn đề cập một số nội dung về môi trường đầu tư. + Công tác quy hoạch xúc tiến dự án đầu tư: Công tác quy hoạch còn chậm, tốc độ quy hoạch chưa cao đã dẫn đến việc xử lý một số dự án chưa chuẩn xác, cơ cấu đầu tư còn có những chỗ chưa hợp lý. Mặc dù tỉnh đã tiến hành quy hoạch tổng thể nhưng chưa có quy hoạch chi tiết cho từng ngành, từng vùng, địa điểm, lĩnh vực khuyến khích đầu tư ưu đãi v.v... Trong công tác gọi vốn đầu tư tuy đã lập được danh mục các dự án thu hút vốn ĐTNN nhưng do thiếu thông tin, nguồn kinh phí cho công tác gọi vốn còn hạn hẹp nên việc lập và giới thiệu dự án các đối tác chưa thực sự khoa học, thiếu tính thuyết phục, chưa xây dựng được kế hoạch tiếp thị mà còn mang tính bị động ngồi chờ. Việc xây dựng đối tác trong nước hầu như còn bỏ ngỏ. + Thực hiện Luật đầu tư của đất nước trên địa bàn tỉnh: Do hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa đồng bộ, thiếu ổn định có những thay đổi, việc thực thi luật pháp và các chính sách của Nhà nước chưa nhất quán, thủ tục hành chính, nhất là thủ tục Hải quan còn nhiều phiền hà, nhiều loại thuế suất phức tạp đối với cùng một loại hàng hóa. Một số văn bản, chính sách chưa thống nhất, nhất là những văn bản về thực hiện luật thuế mới. Chẳng hạn Nghị định 12/CP ngày 18/02/1997 và Nghị định 10/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ đã quy định rất rõ ràng về mức độ thuế lợi tức (nay là Thuế thu nhập doanh nghiệp) và thời hạn miễn, giảm thuế lợi tức áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài nhưng tại Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Thông tư số 99/1998/ TT/BTC ngày 14/7/1998 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thi hành Nghị định 30/1998/NĐ-CP lại yêu cầu cơ quan cấp giấy phép đầu tư trước khi cấp giấy phép phải xin ý kiến của Bộ Tài chính. Trên cơ sở những điều chỉnh của trung ương, ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương cũng đã có những quyết sách nhằm tăng cường cải tiến thủ tục hành chính tạo môi trường đầu tư thông thoáng. ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành quyết định số 1155/QĐ-UB ngày 09/6/1999 về việc quy định tạm thời quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương (kèm theo Quyết định số 1155 là bản quy định tạm thời về quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương, những văn bản này bước đầu tạo nên sự thống nhất trong quản lý đầu tư, đồng thời làm rõ trách nhiệm cụ thể của các sở ban ngành, ủy ban nhân dân các cấp và chủ dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình vận động đầu tư, lựa chọn đối tác, thông qua các chủ trương. Đầu tư, thẩm định và cấp giấy phép triển khai dự án FDI có một bước tiến bộ đáng kể. Song vấn đề quan trọng là việc tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc nội dung văn bản trên, đồng thời qua thực hiện nhanh chóng phát hiện những khiếm khuyết, đề xuất ủy ban nhân dân tỉnh bổ sung, điều chỉnh nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để triển khai nhanh chóng các dự án đầu tư và xử lý kịp thời những khó khăn của nhà đầu tư, thúc đẩy dự án phát triển. + Xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất, kỹ thuật: Cơ sở và điều kiện vật chất còn nhiều yếu tố chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển với nhịp độ cao một cách bền vững và có hiệu quả trong giai đoạn mới. Kết cấu hạ tầng vừa thiếu, vừa lạc hậu, có những mặt căng thẳng như điện, giao thông, cấp thoát nước. Điện đáp ứng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động chất lượng chưa cao, chưa có những quy định cụ thể rõ ràng, do vậy việc cấp điện còn hạn chế. Thí dụ: cắt điện phục vụ nông nghiệp với lý do mưa bão, hạn hán... ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp. + Vấn đề đối tác: Doanh nghiệp FDI hoạt động kém hiệu quả, mối quan hệ thương mại giữa người Việt Nam với người nước ngoài chưa được mở rộng, nên các doanh nghiệp nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Hàng hóa của các doanh nghiệp này bán ra nước khác thuế cao không cạnh tranh được, thị trường trong tỉnh chưa đủ sức tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp tại nước ngoài. Chưa có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình sản xuất kinh doanh như việc vận chuyển bốc xếp hàng hóa. Nguyên liệu nhập khẩu giá thành cao, nguyên liệu sản xuất tại chỗ còn khan hiếm, hiện tượng tư nhân buôn lậu trốn thuế ảnh hưởng tới việc sản xuất kinh doanh. Chi phí Hải quan kiểm dịch tốn kém (Công ty lụa Việt - Triều). Giải phóng mặt bằng có nhiều vướng mắc do số tiền đền bù quá lớn. Mặt khác do tâm lý người dân địa phương có doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài nên mức độ đòi hỏi đền bù của người dân chưa xác đáng, đòi hỏi quá cao so với mức phải đền bù trên thực tế. Quan hệ đối với địa phương (xã, phường...) chưa được thuận lợi, còn bị gây sức ép, như thu lệ phí đường, kênh mương thoát nước thải... (ví dụ trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn thực phẩm Nghĩa Mỹ). + Vấn đề lao động việc làm: Vấn đề lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đang có những vướng mắc cụ thể là: Về việc tuyển dụng lao động, phần lớn các doanh nghiệp đã tuân theo quy định của Bộ Luật lao động (tuyển qua Sở Lao động - Thương binh và xã hội). Song còn một số doanh nghiệp tuyển lẻ từ 2 - 3 lao động (như Xí nghiệp chế tác Kim cương, Công ty may Venture). Trong những năm qua, kinh tế Hải Dương có nhiều chuyển biến, đã mở ra cơ hội để giải quyết việc làm, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Đi đôi với thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tỉnh đã đầu tư phát triển một số ngành nghề mới như khai thác vật liệu xây dựng, các ngành nghề thủ công... đã tạo nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động. Song cho đến nay có tình hình là hầu hết các xí nghiệp nước ngoài đều tuyển nguồn lao động trẻ có văn hóa, có kỹ thuật. Trong khi đó nguồn cung cấp chưa đáp ứng, nên mặc dù thừa lao động, nhưng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhiều khi vẫn gặp khó khăn trong tuyển dụng. Một điều đáng lưu ý nữa là trong các chương trình, dự án, lao động chưa được xác định cụ thể như một yếu tố quan trọng khi triển khai thực hiện dự án. Thời gian vừa qua các dự án liên doanh chỉ đề cập đến mặt bằng, máy móc thiết bị, nhà xưởng, vốn đóng góp chứ lao động chưa được xem là nguồn lực, và không có sự chuẩn bị đào tạo. Do đó, việc thu hút lao động của các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là lao động sở tại (nơi có doanh nghiệp đóng) gặp nhiều khó khăn. Để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp lại phải tuyển dụng lao động từ nơi khác đến, điều đó dẫn đến những bức xúc về vấn đề xã hội. Vấn đề việc làm tuy đã được giải quyết khá hơn nhưng vẫn còn gay gắt, chưa phát huy được lợi thế về nguồn nhân lực tham gia vào các doanh nghiệp FDI. Một số đơn vị đã vi phạm hợp đồng cho thôi việc, chấm dứt hợp đồng mang tính chất gò ép, hoặc trình tự tiến hành xét kỷ luật đi đến chấm dứt hợp đồng lao động làm chưa đúng Luật lao động (mặc dù có thể lỗi do người lao động). Một số doanh nghiệp chưa đảm bảo mức lương tối thiểu cho người lao động theo quyết định số 708/1999/QĐ-BLĐTBXH ngày 15/06/1999. (tức là thấp hơn mức 487.000đồng/tháng) áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng trên địa bàn các tỉnh, huyện, thành phố. + Thực hiện chế độ bảo hiểm Việc thực hiện chế độ bảo hiểm cho người lao động cũng còn có những đơn vị doanh nghiệp chưa nộp bảo hiểm xã hội (công ty tơ lụa Việt - Triều, Công ty tắcxi Hồng Hà). Từ sau khi có qui định về bảo hiểm y tế bắt buộc đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (8/1998) đến nay, số đơn vị thực hiện mua bảo hiểm y tế còn rất hạn chế (mới chỉ có Công ty Xi măng Phúc Sơn, Công ty bơm Ebara). Về cơ bản các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hải Dương chấp hành pháp luật tốt, nhưng cũng có một số đơn vị chưa chấp hành đúng quy định về luật pháp như: kê khai nộp thuế thu nhập, chế độ báo cáo kiểm toán, quyết toán hàng năm, chấp hành luật lao động, luật bảo vệ môi trường, cá biệt còn có biểu hiện không thực hiện đúng giấy phép và vi phạm pháp luật. Một số dự án, sau khi nhận giấy phép không xây dựng theo giấy phép đầu tư: như giai đoạn 2 của Công ty may quốc tế Venture hoặc dự án công trình xây dựng khu văn phòng của Công ty Việt Hưng. + Thành lập và hoạt động của tổ chức Công đoàn: Một vấn đề đặt ra hiện nay không chỉ đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của tỉnh Hải Dương, mà nó còn là vấn đề cần quan tâm giải quyết trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi cả nước, đó là việc thành lập và hoạt động công đoàn trong một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy trong thời gian qua, hoạt động của các doanh nghiệp này trên địa bàn Hải Dương cũng có một số kết quả như tham gia vào việc thực hiện chế độ chính sách cho người lao động, ví dụ như chế độ bảo hiểm tiền lương, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, thăm hỏi... ký thỏa ước hợp đồng tập thể (chỉ có xí nghiệp chế tác Kim cương ký được), còn lại gần như việc thành lập và hoạt động của tổ chức này còn gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù Liên đoàn lao động tỉnh trực tiếp xuống làm việc với các doanh nghiệp, và phối hợp với các ban ngành để trực tiếp yêu cầu, vận động thành lập tổ chức công đoàn, nhưng kết quả chưa được bao nhiêu. Nguyên nhân là theo Luật đầu tư nước ngoài, Luật lao động, Luật công đoàn, có quy định việc thành lập công đoàn ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng điều kiện công đoàn phải là một tổ chức tự nguyện do người lao động tham gia. Song với người lao động mặc dù họ muốn tham gia công đoàn nhưng lại sợ mất việc. Tâm lý một số ông chủ cũng không thích có tổ chức công đoàn do họ chưa hiểu tổ chức công đoàn việt Nam là người phối hợp công tác, họ còn có quan niệm công đoàn là một tổ chức đối lập như ở một số nước hiện nay. Do vậy một số doanh nghiệp chỉ muốn có đại diện cho người lao động chứ không muốn có một ban chấp hành công đoàn cơ sở. Một số khác chưa đi vào sản xuất hoặc sản xuất chưa ổn định, làm ăn thua lỗ nên chưa quan tâm thành lập công đoàn. Liên đoàn lao động tỉnh trực tiếp làm việc nhiều lần nhưng không thành lập được vì lý do còn phải xin ý kiến ông chủ nước ngoài... Do những nguyên nhân đó việc thành lập và hoạt động của tổ chức công đoàn hiện nay gặp nhiều khó khăn, và cũng do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 2.2.2. Những vấn đề thuộc môi trường đầu tư của nước ta ảnh hưởng đến thu hút FDI của tỉnh Mặc dù môi trường đầu tư nước ta được nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho là thông thoáng. Song bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế, gây trở lại tới việc thu hút FDI. - Trước hết là tính đồng bộ, rõ ràng, cụ thể của những quy định pháp luật trong đầu tư. Tháng 12/1987, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cơ bản, đầu tiên cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, sau đó là các lần sửa đổi bổ sung. Tuy nhiên do hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa đồng bộ, có nhiều thay đổi và chưa ổn định. Đến nay, tổng cộng đã có hơn 100 văn bản luật và dưới luật liên quan đến đầu tư nước ngoài, tạo khung pháp luật tương đối đầy đủ cho hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam nói chung và trong đó có tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, hiện nay sự bất cập của pháp luật so với hoạt động kinh tế là quá mức cho phép, do đó đã trở thành một ách tắc trầm trọng. Nhiều hiện tượng kinh tế - xã hội đã ra đời và phát huy ảnh hưởng nhưng vẫn đứng ngoài pháp luật, chưa được ghi nhận và có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Hệ thống văn bản qui phạm pháp luật nhiều, nhưng thiếu đồng bộ, thiếu hướng dẫn chi tiết, một số quy trình thủ tục giữa các ngành thực hiện chưa thống nhất, rất khó khăn cho địa phương trong việc tổ chức thực hiện, chẳng hạn như: việc thẩm định cấp giấy phép đầu tư đã được qui định trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và sau đó là Nghị định 12/CP ngày 18/12/1997, rồi Quyết định 41/1998/QĐ-TTg. Theo tinh thần của những văn bản đó thì 100% các dự án đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép trên địa bàn đều do địa phương cấp, song vấn đề khó khăn là ở công tác thẩm định dự án, nhất là việc xác định đúng tư cách pháp nhân và năng lực tài chính của nhà đầu tư. Việc này ngoài yêu cầu đối tác phải trình các văn bản cần thiết, còn cần có sự hợp tác chặt chẽ và hỗ trợ tích cực của công an tỉnh, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Đại sứ quán một số nước. Mặt khác việc xét duyệt danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu hiện nay cũng đang gặp khó khăn, cụ thể là: Theo quyết định 41/1998/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ quy định Bộ Thương mại ủy quyền cho ủy ban nhân dân tỉnh,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVAN.DOC
  • docBIA1~1.DOC
  • docMUCLUC.DOC
Tài liệu liên quan