Luận văn Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay

Theo số liệu điều tra nông nghiệp, nông thôn Thái Bình năm 2003 cho thấy, diện tích đất nông nghiệp bình quân một nhân khẩu khoảng 573 m2/ người (riêng diện tích trồng lúa khoảng trên 100 m2/ người). Diện tích đất canh tác tính bình quân một hộ nông nghiệp chỉ từ 6 - 8 sào Bắc Bộ (khoảng 2160 m2 - 2880 m2 đất), nhưng lại bị phân thành nhiều thửa ruộng (trung bình 3 thửa) nên sản xuất nông nghiệp còn manh mún. Sản lượng lương thực hàng năm thường xuyên đạt trên 1 triệu tấn, nhưng mới chỉ có trên 30 vạn tấn lương thực là hàng hóa, chất lượng chưa đảm bảo nên không xuất khẩu được. Như vậy, bình quân ruộng đất thấp, thời gian nông nhàn nhiều, sản xuất hàng hóa chưa phát triển nên nhu cầu dịch vụ và liên kết giữa hộ nông dân với HTX, DNNN chưa cấp bách. Do vậy, sự gắn bó giữa xã viên với HTXNN còn rất mờ nhạt, không vững chắc. Tình trạng xã viên danh nghĩa còn tồn tại phổ biến ở khắp các HTXNN.

 

doc112 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2075 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chỉ thuần túy thu lợi nhuận cho HTX; quyền lợi và nghĩa vụ của xã viên và HTX được cụ thể hóa; mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền địa phương và HTX được đổi mới, phân công, phân cấp rõ ràng hơn. Bên cạnh chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ là chủ yếu, nhiều HTX đã mở rộng phạm vi hoạt động sang sản xuất công nghiệp và các dịch vụ khác để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho xã viên, tăng tích lũy cho kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới. Thứ hai, ổn định tổ chức bộ máy. Sau khi chuyển đổi, các HTXNN đã tổ chức lại bộ máy quản lý theo hướng tinh giản số lượng các ban gián tiếp, tăng cường về chất lượng đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu hoạt động dịch vụ, tạo lập tư cách pháp nhân để tiến hành sản xuất - kinh doanh, kịp thời cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho kinh tế hộ. Vốn, quỹ và cơ sở vật chất - kỹ thuật của HTXNN được tăng cường về số lượng và được quản lý chặt chẽ hơn. Vốn của HTX được hình thành từ nhiều nguồn: từ các HTX cũ chuyển sang, từ sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, từ huy động vốn góp của xã viên, từ vay ngân hàng…Tuy còn rất hạn chế, song các HTX đã có vốn ban đầu để hoạt động dịch vụ. Thứ ba, về định hướng hoạt động. Tuy có sự khác nhau về tên gọi, hình thức, quy mô và phạm vi hoạt động nhưng tất cả các HTXNN đã chuyển đổi và thành lập mới trong tỉnh đều lấy nội dung hoạt động chính là làm dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân, phù hợp với cơ chế thị trường và Luật HTX. Nhiều HTXNN đã bước đầu xây dựng mô hình hoạt động và các phương án sản xuất - kinh doanh đa dạng, phù hợp với các điều kiện thực tế về trình độ và đặc điểm sản xuất của từng ngành, từng vùng; về kết cấu hạ tầng như hệ thống thủy nông, đường sá…; về máy móc, lao động, vốn… nhằm đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng khác nhau một cách tốt nhất trong điều kiện hiện có của mình. Các HTX đã tiến hành kiểm kê vốn quỹ, làm rõ công nợ, bước đầu thực hiện quy chế dân chủ, công khai kinh tế nội bộ, xóa bỏ bao cấp, thực hiện hạch toán độc lập, lấy thu từ hoạt động dịch vụ sản xuất và kinh doanh ngành nghề để chi cho bộ máy quản lý. Các định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá các khâu dịch vụ được các HTX xác định lại hợp lý hơn. Nét mới trong hoạt động kinh doanh của nhiều HTXNN là vừa bảo đảm nguyên tắc lấy thu bù chi vừa tạo nền tảng phục vụ tăng trưởng chung của cộng đồng chứ không chỉ kinh doanh thuần túy vì lợi nhuận của HTX. Vì vậy, sau vài năm chuyển đổi hoặc thành lập mới theo Luật, mặc dù tỷ trọng kinh tế của các HTX hiện còn nhỏ và không còn giữ vai trò trực tiếp tổ chức và điều hành sản xuất tập trung mà chuyển sang chức năng làm dịch vụ, nhưng những tác động tích cực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển đã chứng minh tính đúng đắn trong định hướng hoạt động của các HTXNN. Thứ tư, nội dung hoạt động của các HTXNN đa dạng, phạm vi hoạt động được mở rộng, chất lượng dịch vụ có tiến bộ. Hầu hết các HTXNN đã đảm nhiệm những dịch vụ nông nghiệp có tính cộng đồng, trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp. Cùng với việc cung ứng các dịch vụ, một số HTXNN kiểu mới đã mở rộng phạm vi hoạt động, kinh doanh tổng hợp, trong đó có các hoạt động sản xuất như sản xuất giống, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản, nuôi trồng thủy sản… Ví dụ: HTX chăn nuôi Đông Kinh (Đông Hưng); HTX giống cây trồng Vũ Chính (thành phố); HTX tiêu thụ thực phẩm nông sản Thái Bình. Hầu hết các hoạt động dịch vụ do HTXNN kiểu mới đảm nhiệm đã thể hiện được tính ưu việt của kinh tế tập thể như thủy nông, bảo vệ thực vật, khoa học kỹ thuật, giống cho hộ xã viên. Kết quả khảo sát thực tế tại các HTXNN chuyển đổi và thành lập mới cho thấy, phương thức và giá cả dịch vụ do HTXNN điều hành thuận tiện và thấp hơn dịch vụ của tư nhân trên cùng địa bàn. Phỏng vấn 536 hộ nông dân ở 22 HTX thuộc 8 huyện, thành phố năm 2005 cho thấy: 65% số người được hỏi cho rằng việc cung ứng giống cây trồng, con vật nuôi, vốn phục vụ sản xuất, làm đất, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm của HTX tốt hơn tư nhân, doanh nghiệp. Chỉ có 31 hộ (chiếm 5,78%) tự làm được một số khâu dịch vụ; số hộ còn lại đề nghị cần phải có các thành phần kinh tế khác phục vụ [35]. Thứ năm, tỷ lệ HTXNN kinh doanh có lãi đã tăng dần. Tính chung cả tỉnh, năm 2005 có 266/315 (84,4%) HTX có lãi, bình quân 1 HTX lãi 28.619 nghìn đồng. Số HTX lỗ là 34 HTX (10,7%), lỗ bình quân 1 HTX là 8.061 nghìn đồng [35]. Một số HTXNN có vốn lớn, có đội ngũ cán bộ quản lý khá, am hiểu kinh tế thị trường đã mạnh dạn đầu tư mở rộng phạm vi kinh doanh sang các địa phương và dịch vụ khác ở nông thôn như điện, tín dụng, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, dịch vụ tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư, hàng hóa… vừa phục vụ tốt nhu cầu kinh tế hộ vừa tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho HTX. Tính đến năm 2005, doanh thu bình quân 1 HTX đạt 878.660 ngàn đồng; có 6 HTX doanh thu đạt trên 2 tỷ đồng; 21 HTX doanh thu đạt từ 1,5 tỷ đến 2 tỷ đồng; 66 HTX doanh thu đạt từ 1 tỷ đến 1,5 tỷ đồng, cao hơn các năm trước [35]. Thứ sáu, thông qua hình thức cung cấp dịch vụ, các HTXNN thực sự đã bắt đầu phát huy được vai trò "bà đỡ" cho kinh tế hộ phát triển. Tuy tỷ trọng kinh tế HTXNN còn bé, vai trò tổ chức điều hành trực tiếp sản xuất nông nghiệp không còn nhiều, nhưng vai trò "hậu cần" cho kinh tế hộ lại nổi lên khá rõ nét. Thực tế là ở địa phương nào HTXNN phát triển thì các dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo về thực vật, giống cây trồng, vật nuôi, cung ứng vật tư nông nghiệp và đặc biệt là ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất nông nghiệp được thực hiện có tổ chức, đồng bộ và hiệu quả cao hơn so với những nơi không có HTX. Tính tự phát, manh mún, mạnh ai lấy làm, cạnh tranh không lành mạnh, chi phí dịch vụ cao, chất lượng giống cây trồng không đảm bảo, năng suất cây trồng, vật nuôi thấp do làm ăn cá thể tạo ra được khắc phục hoặc hạn chế. Nhờ làm tốt dịch vụ cho kinh tế hộ nên các HTXNN đã góp phần quan trọng trong phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới theo hường CNH, HĐH. Thứ bảy, HTXNN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp theo hướng tích cực. Mặc dù vị thế kinh tế còn yếu nhưng các HTXNN đã đóng góp trực tiếp cũng như gián tiếp vào tăng trưởng chung về kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đóng vai trò tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho xã viên. HTXNN bước đầu đáp ứng được nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất nông nghiệp, đổi mới phương thức kinh doanh, củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn. Các HTXNN đã từng bước tổ chức cho hộ xã viên sản xuất theo quy hoạch và yêu cầu của thị trường, hướng dẫn hộ nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng và giảm chi phí, từ đó tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa; qua đó đã hạn chế được việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi một cách tự phát. Nhiều HTXNN đã góp phần tích cực chỉ đạo phong trào "dồn điền, đổi thửa" để tiện lợi cho khâu cơ giới hóa, thủy lợi hóa và chuyên canh cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Sản xuất nông nghiệp ở các xã có HTXNN kiểu mới hoạt động tốt đã bước đầu được chuyên môn hóa kết hợp thâm canh cao, tiện lợi cho các khâu canh tác và tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch. Ngoài ra, các HTXNN cũng đã góp phần khai thác được tiềm năng, thế mạnh của các xã về nguồn nguyên liệu, lao động, thị trường, huy động vốn nhàn rỗi trong dân…để tăng cường đầu tư phát triển sản xuất, dịch vụ phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Thứ tám, mở rộng liên kết kinh tế trong nông nghiệp. Hầu hết các HTXNN kiểu mới đã và đang định hình những mối liên kết kinh tế mới, chủ yếu làm cầu nối, liên kết giữa các hộ nông dân với doanh nghiệp nhà nước (Công ty cổ phần giống cây trồng Thái Bình, Công ty cổ phần giống chăn nuôi, Trung tâm khảo nghiệm - khuyến nông, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân…), cũng như liên kết kinh tế giữa các trang trại, gia trại và các HTXNN với nhau để mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động dịch vụ nông nghiệp. Sau khi có Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về liên kết 4 nhà trong hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho hộ nông dân, vai trò và thế mạnh của HTXNN càng thể hiện rõ và bước đầu đã được phát huy ở những vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung. HTX trở thành cầu nối giữa hộ nông dân sản xuất hàng hóa với các doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp. Thứ chín, HTXNN góp phần tích cực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn. Đóng góp của HTXNN kiểu mới trong lĩnh vực xã hội là rõ nét, thể hiện trên các mặt sau: - HTX đã phát huy được tinh thần tương thân tương ái trong việc giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, góp phần giải quyết vấn đề mang tính kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc. Nhiều HTXNN đã ứng trước không lấy lãi cho hộ xã viên nghèo khó khăn một số vật tư chủ yếu như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, để họ phát triển sản xuất và đến vụ thu hoạch mới phải trả. Nhiều hộ nghèo, hộ chính sách được ưu tiên vay vốn hoặc bố trí lao động tham gia các hoạt động dịch vụ phù hợp với khả năng của họ để tăng thu nhập, đảm bảo đời sống ở mức trung bình. - Góp phần tạo thêm việc làm mới, thu hút lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao trình độ tay nghề cho lao động nông nghiệp; thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo. - Góp phần xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn như điện, đường, trường, trạm, nước sinh hoạt, nhà trẻ và các công trình phúc lợi khác. - Xây dựng và phát triển các dịch vụ sinh hoạt cộng đồng, phòng chống tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình văn hóa, thôn làng văn hóa, tăng cường đoàn kết tình làng, nghĩa xóm, phát huy dân chủ cơ sở… Tất cả những việc làm đó của các HTXNN thời gian qua đã góp phần tích cực làm đổi mới bộ mặt nông thôn Thái Bình. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn về doanh thu và lợi nhuận từ các hoạt động dịch vụ còn nhỏ nhưng nhiều HTXNN đã phát huy vai trò của kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới. HTXNN không dừng lại ở chủ trương, hô hào hoặc dựa vào bao cấp của Nhà nước như trước đây mà thể hiện bằng việc làm cụ thể trên cơ sở phát huy nội lực tại chỗ của HTX và bà con xã viên. Nguồn kinh phí chủ yếu được trích từ thu nhập của các hoạt động dịch vụ của HTXNN, nguồn lao động do xã viên đóng góp tự nguyện. Các phương thức cũ "bổ đầu sào", "đầu người" như trước đây đã được khắc phục. Do vậy, ở những xã có HTXNN hoạt động hiệu quả, bộ mặt nông thôn đổi mới nhanh, tình làng nghĩa xóm đậm đà và thắm thiết hơn nhiều so với làm ăn cá thể "đèn nhà ai rạng nhà ấy". Thứ mười, HTXNN kiểu mới góp phần củng cố chính quyền cơ sở ở nông thôn. Việc chuyển đổi hoặc thành lập mới các HTXNN theo Luật đã góp phần phân định rõ ràng hơn chức năng quản lý nhà nước của chính quyền xã, thôn, với các chức năng quản lý, điều hành sản xuất - kinh doanh của các HTX. Chính quyền cơ sở có điều kiện tập trung nhiều hơn cho công tác quản lý nhà nước trên địa bàn, đồng thời vai trò của Ban chủ nhiệm và xã viên trong hoạt động của HTX đều được nâng cao, góp phần giữ vững ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội nông thôn. Tóm lại, những kết quả khởi sắc của HTXNN sau 5 năm thực hiện Luật HTX, tuy mới chỉ là bước đầu, nhưng đã khẳng định được vai trò và vị trí tất yếu của nó trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nông thôn Thái Bình thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Các HTXNN chuyển đổi, thành lập mới đã thể hiện được các nguyên tắc cơ bản của HTX theo Luật. Chuyển từ điều hành sản xuất sang hoạt động dịch vụ là sự chuyển đổi khó khăn, nhưng đến nay hầu hết các HTXNN đã vượt qua khó khăn, mò mẫm, trở thành những đơn vị kinh doanh dịch vụ độc lập, thích ứng với cơ chế thị trường và bước đầu làm ăn có hiệu quả. Bên cạnh chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ là chủ yếu, nhiều HTX đã mở rộng phạm vi hoạt động sang sản xuất công nghiệp và các dịch vụ khác để tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho xã viên, tăng tích lũy cho kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới. Nhiều mô hình mới, tiến bộ đã và đang xuất hiện và nhân rộng, trở thành những hạt nhân tích cực góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tiến bộ. 2.2.2. Những hạn chế, yếu kém của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật Hợp tác xã ở Thái Bình và nguyên nhân 2.2.2.1. Những hạn chế, yếu kém Bên cạnh những thành tựu là chủ yếu, sau khi chuyển đổi hoặc thành lập theo Luật, nhiều mô hình HTXNN kiểu mới đã bộc lộ những khó khăn và hạn chế trong hoạt động. Dưới đây là những biểu hiện cụ thể: Thứ nhất, hầu hết các HTXNN kiểu mới đều thiếu vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật để triển khai các hoạt động dịch vụ. Theo kết quả điều tra của sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Bình, đến ngày 31/12/2005, bình quân 1 HTXNN chỉ có 1.043.487 nghìn đồng vốn, chia ra: 581.737 nghìn đồng tài sản cố định và 461.750 nghìn đồng vốn lưu động. Tài sản cố định chủ yếu là các công trình thủy lợi, phần lớn là hệ thống kênh mương nội đồng đã xuống cấp, tiếp nhận từ các HTXNN kiểu cũ chuyển sang. Vốn lưu động vừa ít, lại chỉ tồn tại trên sổ sách, còn thực tế là các khoản nợ. Trong đó bình quân: tiền mặt, tiền gửi là 76.367 nghìn đồng; phải thu của khách hàng, hộ xã viên, thu khác là 352.055 ngàn đồng; hàng tồn kho là 27.395 ngàn đồng; nợ phải trả là 239.308 ngàn đồng [35]. Với nguồn vốn lưu động như vậy, các HTXNN kiểu mới rất khó khăn trong việc mở rộng hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ với quy mô lớn, phạm vi rộng. Vốn đã ít nhưng nguồn vốn hình thành lại không ổn định, trong đó vốn góp của xã viên mới rất ít về số lượng, lại chủ yếu là giá trị tài sản và đầu tư dài hạn của HTX cũ chuyển sang.Tình trạng đó, một mặt, do họ còn nghèo, mặt khác, do họ không muốn đóng góp thêm vì chưa tin tưởng vào HTX. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn đã ít (44,25%) lại chủ yếu là tài sản lưu động phải thu và khó thu (76,2%). Do vậy, nhiều HTXNN chỉ làm trung gian giữa tư thương hoặc các doanh nghiệp nhà nước với hộ nông dân. Trong khi đó, xã viên tham gia HTXNN kiểu mới cốt để lấy tiếng chứ không muốn góp vốn như luật định. Qua khảo sát các HTXNN đã chuyển đổi hoặc thành lập mới thì mức góp vốn của xã viên rất thấp, phổ biến từ 100 nghìn đồng đến 200 nghìn đồng. Nhiều HTXNN chuyển đổi quy định luôn phần tài sản của HTXNN cũ chia cho xã viên là vốn điều lệ của xã viên mới, coi đó là vốn góp. Thực tế ở một số HTXNN cho thấy, vốn lưu động do xã viên đóng góp còn thấp hơn mức tối thiểu nên HTX không có vốn hoạt động (toàn tỉnh hiện nay còn 7 HTXNN ở tình trạng này). Nguyên nhân của tình hình đó là do nhiều HTXNN thực hiện chuyển đổi một cách hình thức, theo phong trào, lấy thành tích mà ít chú trọng đến thực chất, không thực hiện góp vốn theo quy định của Luật HTX. Thứ hai, các HTXNN thiếu cán bộ có năng lực quản lý và điều hành các hoạt động dịch vụ. Thực tế cho thấy, các HTXNN hoạt động tốt, trước hết là những HTX có đội ngũ cán bộ, đặc biệt là các cán bộ chủ chốt, được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, tâm huyết với HTX và ngược lại. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, năng lực quản lý kinh tế của đội ngũ cán bộ chủ chốt của các HTXNN chưa đáp ứng được yêu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các thành phần kinh tế. Trình độ văn hóa, KHCN và quản lý kinh tế của chủ nhiệm, kế toán, kiểm soát HTXNN đều còn thấp. Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong những năm qua Tỉnh ủy, UBND tỉnh chưa quan tâm đúng mức đến công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các HTX nói chung, nhất là HTXNN kiểu mới. Phần lớn cán bộ của các HTXNN chuyển đổi chưa có kiến thức kinh tế thị trường nhưng chưa được đào tạo lại hoặc bồi dưỡng theo chương trình của Nhà nước. Mô hình đào tạo cán bộ HTXNN do trường trung cấp nông nghiệp Quỳnh Côi (Quỳnh Phụ) tổ chức cũng giới hạn về phạm vi, khó khăn về kinh phí, về nội dung chương trình, đội ngũ giảng viên, cơ sở trường lớp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng đôi khi chưa phù hợp… nên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển HTXNN dịch vụ. Sự lúng túng và chậm trễ của các ngành, các cấp, kể cả ngành chủ quản là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN là nguyên nhân chính. Biểu 2.1: Trình độ cán bộ HTXNN ở Thái Bình, năm 2005 Chức vụ Trình độ Chủ nhiệm HTX Phó chủ nhiệm HTX Kế toán trưởng Trưởng ban Kiểm soát Đại học, cao đẳng 20% 9,1% 17,3% 5,3% Trung cấp 40,8% 19,8% 67,9% 18,5% Chưa qua đào tạo 30,1% 71,1% 14,8% 76,2% Nguồn: [35]. Mặt khác, ở nhiều xã việc bố trí cán bộ HTX còn mang tính áp đặt từ phía chính quyền địa phương, cùng với chế độ đãi ngộ đối với cán bộ HTX không tốt nên nhiều cán bộ có năng lực quản lý sản xuất - kinh doanh tìm mọi cách chuyển sang làm công tác chính quyền, không khuyến khích họ học tập nâng cao trình độ phục vụ HTX lâu dài. Do trình độ hạn chế nên một số ban quản trị HTX rất ngại mở mang hoạt động dịch vụ, thậm chí có HTXNN đem tiền vốn góp của xã viên gửi ngân hàng lấy lãi ít ỏi. Trong khi đó, hộ xã viên có nhu cầu được hỗ trợ nhưng HTX lại không thể đáp ứng được nhu cầu đó, dẫn đến kinh tế hộ kém phát triển, thu nhập thấp. Cũng bởi hạn chế về trình độ nên sau khi chuyển đổi rất nhiều HTXNN lúng túng không biết hoạt động dịch vụ như thế nào cho hiệu quả. Một số HTX tồn tại một cách hình thức, có mở ra các hoạt động dịch vụ song không hiệu quả, thậm chí còn lỗ vốn. Thứ ba, hiệu quả kinh tế và thu nhập của phần lớn các HTXNN kiểu mới rất thấp, sức hấp dẫn kém. Số HTXNN chuyển đổi thành công, hoạt động có hiệu quả còn ít. Doanh thu bình quân 1 HTXNN hiện nay đạt 878.660 ngàn đồng /năm. Số HTX kinh doanh có lãi là 266 HTX (84,4%) và lãi bình quân 1 HTX là 28.619 ngàn đồng/năm, không đủ vốn tích lũy để tái đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng ngành nghề dịch vụ. Số HTXNN sau chuyển đổi hoạt động cầm chừng, yếu kém còn khá nhiều. Đến ngày 31-12-2004, toàn tỉnh còn 34 HTXNN kinh doanh bị lỗ, bình quân 1 HTX lỗ 8.601 nghìn đồng. Tỷ lệ HTXNN có lãi tuy khá cao và tăng dần qua các năm nhưng mức lãi từ dịch vụ quá thấp. Một số HTX lớn tiêu biểu cho phong trào chung của cả tỉnh, nhưng hiệu quả kinh tế vẫn thấp (có 4 HTXNN lãi cao nhất là HTX Thái Thịnh - Thái Thụy lãi 138 triệu đồng; Nguyên Xá - Vũ Thư lãi 124 triệu đồng; An Ninh - Tiền Hải lãi 120 triệu đồng; HTX Thống Nhất - An Khê - Quỳnh Phụ lãi 105 triệu đồng). Sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của các HTXNN kém sức cạnh tranh nên phát triển chậm. Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu của các HTXNN đều rất thấp. Thu nhập và đời sống của xã viên, cán bộ HTX còn thấp nên sức thu hút hộ nông dân tham gia HTX chưa cao. Cho đến nay, hầu hết các HTXNN mới chỉ đảm nhiệm được dịch vụ tưới, tiêu nước, bảo vệ thực vật, giống cây và cung ứng vật tư nông nghiệp cho kinh tế hộ, còn các dịch vụ khác vẫn do xã viên tự lo liệu. Thu nhập của các HTXNN kiểu mới chủ yếu là từ dịch vụ tưới tiêu, nhưng thực chất đây chỉ là hoạt động thu hộ thủy lợi phí cho DNNN. Để có nguồn thu cho lao động làm dịch vụ tưới tiêu, HTX phải tìm cách giảm bớt diện tích ký hợp đồng với trạm thủy nông, tăng thêm khoản thu thủy nông nội đồng, dễ phát sinh tiêu cực. Nếu tình trạng này kéo dài thì nhiều HTXNN làm dịch vụ tưới tiêu hoặc sẽ hết vốn hoặc buộc phải tăng thu các khoản khác để bù vào, ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập và đời sống của xã viên. Đến nay, thu nhập bình quân của một cán bộ quản lý HTXNN kiểu mới ở Thái Bình mới chỉ đạt khoảng 350 - 400 ngàn đồng/tháng. Thu nhập của lao động dịch vụ còn thấp hơn nên tính ưu việt của các HTXNN kiểu mới chưa được thể hiện rõ. Thứ tư, quy mô HTXNN còn quá nhỏ, tài sản nghèo, kỹ thuật lạc hậu. Năm 2004 mới có 233 HTX có trụ sở làm việc (chiếm 74%); tài sản bình quân 1 HTX là 1.043.487 ngàn đồng (trong đó, tài sản lưu động bình quân là 461.750 ngàn đồng; nợ phải trả bình quân là 239.308 ngàn đồng); bình quân 1 HTX chỉ có 22 lao động dịch vụ, chủ yếu là lao động thủ công với công cụ thô sơ [34]. Máy móc, thiết bị và công cụ của các HTX ít về số lượng, kém về chất lượng, chủ yếu do các HTXNN cũ chuyển sang nên không phát huy được. Do vậy, khả năng phát triển các hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân của các HTXNN kiểu mới là rất hạn chế. Còn xã viên thì tuy được coi là hộ nông dân tự chủ nhưng tư liệu sản xuất, vốn liếng và trình độ sản xuất yếu kém, không thích ứng với yêu cầu của CNH, HĐH và chuyển sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường. Thứ năm, nhiều HTXNN chỉ tồn tại trên danh nghĩa, hình thức là chủ yếu. Một số HTXNN chuyển đổi một cách hình thức về tổ chức, chưa có sự chuyển biến cơ bản về nội dung và hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh. Số khác được thành lập nhưng chưa hội tụ đủ các điều kiện cần thiết cũng không phát huy được vai trò của mình, hoạt động cầm chừng hoặc tồn tại hình thức. Số HTXNN kiều này còn nhiều. Theo kết quả điều tra, hiện nay cả tỉnh còn 49 HTXNN (15,5%) hoạt động không hiệu quả, thực chất là tồn tại một cách hình thức. Thứ sáu, cơ cấu hoạt động dịch vụ của HTXNN chưa hợp lý, phạm vi còn hẹp, chủ yếu là những dịch vụ mang tính công ích, bắt buộc như thủy lợi, bảo vệ thực vật, khoa học kỹ thuật, dịch vụ thú y; các dịch vụ khác do hộ nông dân tự lo liệu. Một số HTX mang tên HTXNN nhưng tỷ lệ làm dịch vụ nông nghiệp rất ít mà chủ yếu làm dịch vụ điện nông thôn, tín dụng nông thôn, vì hai dịch vụ này có lợi nhuận cao hơn. Trong khi đó, các dịch vụ quan trọng nhất là dịch vụ đầu vào, đầu ra của sản xuất nông nghiệp thì nhiều HTX không đưa vào nội dung hoạt động. Đặc biệt là dịch vụ tiêu thụ nông sản cho hộ nông dân nói chung, hộ xã viên nói riêng - một khâu tuy khó khăn nhưng rất quan trọng, là động lực kinh tế cơ bản thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, nhưng số lượng các HTX tham gia còn rất ít. Theo số liệu của sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay toàn tỉnh mới có 49 HTX (15,5%) đang hoạt động dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, trong đó, có 37 HTX làm dịch vụ có lãi. Đây cũng là khâu yếu nhất làm giảm tính vượt trội, vai trò to lớn của HTXNN. 2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém Một là, nguyên nhân về nhận thức. - Đa số nông dân nhận thức chưa đúng hoặc chưa đầy đủ về Luật HTX và vai trò của HTXNN đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn đầy mạnh CNH, HĐH đất nước. Bản thân xã viên HTX (thường ở các HTX chuyển đổi) chưa nhận thức đầy đủ hai mặt: lợi ích và trách nhiệm cá nhân đối với bộ phận kinh tế tập thể HTX. Họ tham gia HTX hoặc vì tâm lý ỷ lại, quen được bao cấp, muốn được HTX hỗ trợ về mặt dịch vụ, trông chờ sự hỗ trợ từ phía HTX và Nhà nước (đây là xu hướng khá phổ biến); hoặc vì đã đóng góp tài sản cho HTX cũ; hoặc vì chính quyền địa phương yêu cầu (ở những nơi xây dựng HTX theo phong trào) hoặc vì tình làng nghĩa xóm, vì sợ những quy kết chính trị, đạo đức từ phía chính quyền sở tại và xã hội. Cũng vì những lý do đó mà xã viên HTX ít quan tâm đến trách nhiệm đóng góp của bản thân cho các hoạt động của HTX. Thêm vào đó, những ấn tượng nặng nề về mô hình HTXNN kiểu cũ vẫn còn ám ảnh họ nhưng chưa được giải tỏa. - Nhận thức của bản thân các cán bộ chủ chốt trong HTX về mô hình HTXNN kiểu mới còn chưa rõ nên lúng túng về phương pháp chuyển đổi, nhất là nội dung hoạt động. Trong chỉ đạo ở các xã, nhiều cán bộ HTX vẫn còn tư tưởng nóng vội, chạy theo phong trào, coi trọng số lượng hơn chất lượng, dẫn đến hình thức. Do thiếu sự chuẩn bị đầy đủ về cán bộ, về cơ sở vật chất - kỹ thuật và về tuyên truyền, vận động quần chúng nên nhiều HTX chuyển đổi xong nhưng hoạt động vẫn khó khăn, kém hiệu quả. Có HTXNN coi việc chuyển đổi chỉ là một sự đổi tên hơn là đổi nội dung và tính chất hoạt động, "bình mới, rượu cũ". Điều lệ HTX quy định xã viên vào HTX phải đóng góp vốn, nhưng trên thực tế, nhiều HTX, nhiều xã viên không thực hiện. Hai là, một số tồn tại do lịch sử để lại nhưng chậm được khắc phục. - Đa số các HTXNN (99%) trên địa bàn tỉnh đã được chuyển đổi hoặc thành lập mới theo Luật HTX, nhưng hiệu quả kinh tế thấp nên chưa có sức hấp dẫn đối với hộ nông dân, chưa tạo được lòng tin với tổ chức kinh tế khác như ngân hàng (kết quả sản xuất - kinh doanh thấp, tỷ lệ nợ quá hạn của HTXNN ở mức cao so với các thành phần kinh tế khác)… Tính hơn hẳn của các HTXNN về dịch vụ cũng chưa đều và thu nhập của xã viên chưa cao nên tính ưu việt của kinh tế hợp tác còn hạn chế. - Nhiều HTXNN vẫn còn vi phạm nguyên tắc quản lý dân chủ, công khai tài chính theo quy định của Luật và Nghị quyết của Đại hội xã viên. ở nhiều HTX, một số cán bộ HTX lại lợi dụng kinh tế tập thể để mưu lợi cá nhân làm cho kinh tế HTX vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Căn bệnh này tương đối phổ biến và kéo dài từ những năm trước đổi mới song chưa thể xóa ngay được. Công nợ của HTX chưa được giải quyết dứt điểm theo Thông tư số 31 của Bộ Tài chính; chế độ trả một lần cho cán bộ HTX, nhất là cán bộ bị kỷ luật từ khiển trách trở lên trong thời kì 1996 - 1998 và cán bộ HTX chuyển sang làm công tác Đảng, chính quyền không được tính thời gian liên tục và chưa được thanh toán phụ cấp cho thời gian công

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van-chinh thuc.doc
  • docBia -ThS.doc
  • docVIETTAT.doc
Tài liệu liên quan