Luận văn Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ “mùa xuân” và “trái tim ” trong thơ Xuân Diệu

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.1

I.Lý do chọn đề tài.1

II.Lịch sử vấn đề.2

III.Mục đích và đối tượng nghiên cứu.3

IV.Phạm vi nghiên cứu.4

V.Phương pháp nghiên cứu.4

VI. Những dự kiến đóng góp.5

CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ TÍN HIỆU THẨM MĨ

1.1.Khái niệm về tín hiệu thẩm mĩ.6

1.1.1. Mối quan hệ của bộ ba: Tín hiệu-Tín hiệu ngôn ngữ- Tín hiệu thẩm Mĩ .6

1.1.1.1.Tín hiệu.7

1.1.1.2.Tín hiệu ngôn ngữ.10

1.1.1.3.Tín hiệu thẩm mĩ.13

1.2. Những đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ.17

1.2.1 Tính đẳng cấu. .17

1.2.2. Tính cấp độ.19

1.2.3. Đặc tính tác động.20

1.2.4.Tính biểu hiện.21

1.2.5. Tính biểu cảm.23

1.2.6. Tính biểu trưng.24

1.2.7. Tính truyền thống và cách tân.25

1.2.8. Tính hệ thống.26

1.2.9. Tính trừu tượng và cụ thể.28

1.3. Tín hiệu thẩm mĩ và ngôn ngữ văn học.30

1.4. Tín hiệu thẩm mĩ văn chương.32

1.5. Tiểu kết chương I.34

CHưƠNG 2: TÍN HIỆU THẨM MĨ “MÙA XUÂN” TRONG THƠ XUÂN DIỆU

2.1. Dẫn nhập.37

2.2.Kết quả khảo sát.39

2.3.Tín hiệu hằng thể “Xuân”.41

2.4.Các biến thể của tín hiệu hằng thể “Xuân”.48

2.4.1.Biến thể từ vựng của THHT “Xuân”.48

2.4.2.Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “Xuân”.51

2.4.3.Biến thể quan hệ của tín hiệu thẩm mĩ “Xuân”.57

2.4.3.1.Các tín hiệu BTQH là danh từ, cụm danh từ.57

2.4.3.2. Các tín hiệu BTQH là động từ /cụm động từ.70

2.5. Tiểu kết chương 2.72

CHưƠNG 3: TÍN HIỆU THẨM MĨ “TRÁI TIM” TRONG THƠ XUÂN DIỆU

3.1.Dẫn nhập.76

3.2.Kết quả khảo sát.80

3.3. THTM hằng thể “Tim/Trái tim”.80

3.4.Biến thể của tín hiệu hằng thể “Trái tim”.81

3.4.1.Biến thể từ vựng của THHT “Trái tim”.82

3.4.2. Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “Trái tim”.85

3.4.2.1. Ý nghĩa thẩm mĩ “tình yêu" của BTKH “trái tim”.86

3.4.2.2.Ý nghĩa thẩm mĩ “trái tim công dân”của BTKH“Trái tim”.89

3.4.3. Biến thể quan hệ của các tín hiệu thẩm mĩ chỉ trái tim.98

3.4.3.1.Những THBTQH là những động từ hoặc cụm động từ.99

3.4.3.2. Những tín hiệu biến thể quan hệ là những tính từ hoặc cụm tính từ.102

3.4.3.3.THBTQH là danh từ chỉ thời gian,không gian của THTM Trái tim trong

thơ Xuân Diệu.104

3.5.Tiểu kết chương 3.105

KẾT LUẬN . . .109

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 113

PHỤ LỤC . . 118

pdf138 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2804 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ “mùa xuân” và “trái tim ” trong thơ Xuân Diệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay là mong muốn?) tơ lòng mình giăng kết thành tấm võng để ôm trọn và ru giấc người yêu thì mới thoả : Gió xa quá, trời xuân êm bát ngát Biết lời gì nói hết được yêu em Giữa lòng anh tơ giăng như mắc võng Em nằm đi-anh ru giấc êm đềm (Bóng đêm biếc) Chính vì thế, khi dâng tặng tình yêu nhưng không được đền đáp thì thi nhân cảm thấy mùa xuân vốn đẹp là thế mà bây giời thì nặng nề trống trải làm sao: Ai có biết mùa xuân lên nặng lắm Trên cánh hồng và trong những trái tim? (Mời yêu) Như vậy, có thể thấy mỗi khi đọc thơ Xuân Diệu ta lại cảm nhận được hình ảnh mùa xuân trong thơ ông luôn hiện lên với rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau trong không gian và thời gian mỗi lần xuất hiện. Đó chính là nhờ Xuân Diệu có tình yêu vô bờ đối với thiên nhiên với muôn vàn tạo vật đổi thay dù rất nhẹ trong không gian và thời gian. 2.4 CÁC BIẾN THỂ CỦA TÍN HIỆU HẰNG THỂ “XUÂN” 2.4.1 Biến thể từ vựng của THHT “xuân” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 Như đã nói, trong thơ Xuân Diệu, xuân còn có tên gọi đồng nghĩa gần như hoàn toàn là mùa xuân. Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu thường được nói tới trong những ngữ cảnh khác nhau với những tình cảm, cảm xúc khác nhau. Bởi vậy, để góp phần vào sự thể hiện những sắc thái, cung bậc tình cảm khác nhau này, mùa xuân trong thơ Xuân Diệu cũng thường được biểu thị bằng những tín hiệu khác nhau. Điều này có nghĩa là các THTM cùng chỉ mùa xuân trong mỗi lần xuất hiện lại mang những hình thức ngôn ngữ biểu đạt một khác. Đây chính là các BTTV hay là các tên gọi đồng nghĩa của “mùa xuân”. Mỗi tên gọi đồng nghĩa ấy, nói như V.Hum-bôn, “biểu hiện quan điểm riêng của chúng ta về đối tượng”, tr(dẫn theo[Nguyễn Đức Tồn, Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb KHXH, H.,2006. 205]). Điều đó chứng tỏ những từ ngữ biểu thị mùa xuân trong thơ Xuân Diệu rất phong phú và đa dạng. Để làm được điều này, nhà thơ phải có tài năng vận dụng linh hoạt và sáng tạo ngôn ngữ độc đáo. Chính điều ấy đã lý giải tại sao độc giả lại đã rất yêu thơ xuân của Xuân Diệu, và đồng thời còn bởi mùa xuân trong thơ ông luôn hiện lên sinh động, giàu cảm xúc, toát lên một tâm hồn thi sĩ yêu tha thiết mùa xuân, luôn khát khao giao cảm với cuộc đời trần thế. Như kết quả khảo sát đã cho thấy, các tín hiệu thẩm mĩ cùng chỉ mùa xuân trong thơ Xuân Diệu có tần số xuất hiện và ý nghĩa thẩm mĩ khác nhau. Chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những tín hiệu có tần số xuất hiện cao và có giá trị lớn nhất về mặt ý nghĩa thẩm mĩ. Qua quá trình khảo sát, thống kê, chúng tôi thu được các BTTV trong thơ Xuân Diệu là những đơn vị đồng nghĩa, gần nghĩa, cùng trường nghĩa hoặc đồng sở chỉ chỉ mùa xuân như sau. Trước hết là BTTV tết. Như có thể dễ dàng nhận thấy, BTTV này, cũng như các BTTV khác được trình bày dưới đây, đều nằm trong quan hệ chỉnh thể - bộ phận với THHT “ xuân”/ “mùa xuân”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 Tết: là ngày lễ đầu tiên của mùa xuân và cũng là ngày lễ lớn nhất trong năm, có vui chơi, hội hè theo truyền thống dân tộc. Tên gọi này vốn được biến âm từ từ tiết mà ra. Tiết vốn có ý nghĩa gốc ban đầu hay ý nghĩa từ nguyên là “đốt tre”[Nhữ Thành, Ngữ nghĩa từ Hán Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, 1977]. Từ ý nghĩa gốc này đã diễn ra sự chuyển nghĩa chỉ các khúc đoạn được phân cắt ra thực sự bằng hành động vật lí hay chỉ bằng thao tác tư duy. Mỗi khúc đoạn ấy được gọi là một tiết. Do đó có tiết học (45 phút), tiết trời (mỗi tiết là 15 ngày)… Tên gọi tiết trời đầu tiên của một năm mới là tết. Nước ta có nhiều tết khác nhau như: Tết Nguyên Đán, Tết Thượng Nguyên (Rằm tháng Giêng), Tết Trung Nguyên (Rằm tháng Bảy), Tết Hạ Nguyên hay Tết Cơm Mới (Rằm tháng Mười), Tết Trung thu, Tết Hàn thực(3/3 âm lịch), Tết Đoan Ngọ(5/5 âm lịch)… Trong thơ Xuân Diệu, TH Tết được dùng để nói về mùa xuân xuất hiện 7 lần. Chẳng hạn: “Những Tết tươi lên vạn sắc màu Em nhỉ, mấy xuân đằm thắm lạ Không em Tết có vị gì đâu” (Chầm chậm đừng quên) Hay: Lá cây duối chạm đầu đôi mái. Hương áo em anh vẫn giữ gìn. Vừa sau Tết xóm thôn trăng giãi Anh hãy còn nhớ mãi như in Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 (Nhớ mãi như in –T10) TH “giao thừa” được sử dụng 1 lần. Đây là khoảng thời gian chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Theo âm lịch của Việt Nam thì đó là khoảnh khắc từ cuối đêm 30 Tết sang đầu ngày mùng một Tết. Giao thừa là giây phút thiêng liêng để đón chào mùa xuân về. Và bao giờ cũng vậy, cứ vào đêm giao thừa Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam thường ngâm thơ Bác: Hai tư năm, những trung thu, ngày Tết Trăng sáng Bác nhớ nhi đồng Những giao thừa, thơ Bác động ngàn phương. ( Muôn thủơ Bác Hồ- T9) TH tháng giêng được xuất hiện 6 lần, là tháng đầu của mùa xuân. ở đây nhà thơ muốn nói tới tháng đầu của năm âm lịch Việt Nam, vì năm âm lịch là thời điểm của mùa xuân, của tết. Vào thời điểm xuân sang bầu trời trong xanh, hoa trái đua nở: Ngày trong lắm là êm, hoa đẹp quá Nhan sắc ơi cây cỏ chói đầy sao Tháng giêng cười không e lệ chút nào Bằng trăm cánh của bướm chim rối rắm (Mời yêu) Trong thơ Xuân Diệu, Tháng Giêng còn mang một dấu mốc lịch sử lớn lao mà nhân loại sẽ không thể nào quên được. Đó là ngày vị lãnh tụ kính yêu của nước Nga, của giai cấp vô sản toàn thế giới đã qua đời: Mạc Tư Khoa tháng giêng hai mươi bốn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 Những mái nhà nặng trĩu tuyết mùa đông Trắng xóa cây.Bốn mươi độ dưới không Rét cắt thịt- Lê Nin vừa mới mất (Mạc Tư Khoa tháng giêng năm 1942 –T8) 2.4.2 Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “xuân” Như đã nêu, nói đến Biến thể kết hợp là nói đến cùng một tín hiệu nhưng có sự biến đổi ít nhiều về ý nghĩa thẩm mĩ do kết hợp với những tín hiệu khác nhau ở trước và sau nó trong cùng một câu thơ, dòng thơ, hoặc cùng xuất hiện với nó trong những câu thơ, khổ thơ đi trước và sau nó. Trong ngôn ngữ, đây là kết quả của tính hình tuyến; khi trở thành THTM thì từ ngữ cũng biến đổi ít nhiều trong quan hệ với từ ngữ đi trước và đi sau. Khi xuất hiện trong những tổ hợp khác nhau, ý nghĩa của cùng một THTM đã ít nhiều biến đổi để tạo nên những tình cảm, cảm xúc khác nhau. Đặc biệt, với tư cách là những BTKH, THTM xuân hay mùa xuân trong thơ Xuân Diệu đã mang những ý nghĩa biểu trưng độc đáo phản ánh tài năng xuất chúng của ông hoàng thơ ca. Trong thơ Xuân Diệu, mùa xuân về đã mang lại sức sống cho tự nhiên, cho tạo vật ở trạng thái dâng trào, tràn đầy hương sắc. Và đó cũng là lúc sự sống có biểu hiện thắm tươi và hấp dẫn nhất. Xuân Diệu cảm thấy yêu cuộc sống cuồng nhiệt, muốn thu vào mình tất cả tự nhiên bằng đủ mọi giác quan và hành động - từ lời nói đến ánh mắt và nụ cười... Chính vì thế, nhà thơ càng thêm yêu mùa xuân mãnh liệt, thấy mùa xuân có sức hấp dẫn mình ghê gớm như một tình nhân: Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây và cỏ rạng Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi. (Vội vàng) Đặc biệt, mùa xuân với tư cách là biến thể kết hợp trong thơ Xuân Diệu còn mang ý nghĩa chỉ tuổi trẻ, cái tuổi tươi đẹp và tràn trề sức sống. Trước hết, có thể nhận thấy THTM xuân/mùa xuân được Xuân Diệu sử dụng với tư cách BTKH để chỉ những con người trẻ trung nhờ biện pháp nhân cách hoá. Chúng ta nhận ra được ý nghĩa này chính là dựa vào các BTQH có ý nghĩa chỉ tuổi tác.Trong mối quan hệ giữa THHT và các TH BTQH này, mùa xuân luôn xuất hiện với tư cách là biểu tượng của tuổi trẻ. Chúng tôi đã khảo sát và thu thập được các BTQH cùng có ý nghĩa chỉ tuổi trẻ: tuổi xanh, một lứa trẻ, thiếu niên, trăng tròn, thanh tân, má đào, vẻ tơ rằm... Theo trường liên tưởng như vậy, khi ca ngợi những người lính trẻ ở khắp mọi miền của Tổ Quốc xung phong tình nguyện vào miền Nam tham gia quân giải phóng, Xuân Diệu đã ví họ như “những cánh chim xuân”: Những cánh chim xuân vỗ khắp nơi Mùa xuân một lứa trẻ băng khôi. (Anh lính trẻ mới vào quân giải phóng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 Mừng đất nước xây dựng và phát triển được tròn 20 năm, Xuân Diệu rất vui và tự hào cảm thấy đất nước ta như một thanh niên cường tráng tràn đầy sức xuân - – sức của tuổi trẻ: Hai mươi tuổi trẻ trên đà Việt Nam dân chủ cộng hòa sức xuân (Cây số 20-T8) Trong cuộc đời của mỗi người, đẹp nhất là tuổi thanh xuân. Do vậy, Xuân Diệu thích nhất và nói nhiều nhất đến tuổi 19, cái tuổi vừa bước vào thời kì xuân sắc của tuổi trẻ: 19 tuổi mặt trời đang óng ả Ánh sáng ca lanh lảnh tiếng đời ngân Bông hạnh cười 19 tuổi thanh tân Gánh nhẹ nhõm trên thân hình măng mọc Hình ảnh “Mặt trời óng ả”, “19 tuổi thanh tân”, “thân hình măng mọc” mang ý nghĩa ẩn dụ chỉ những phẩm chất đẹp nhất, viên mãn nhất của tuổi trẻ hiện ra trên từng đường nét khỏe khoắn thanh tú của cơ thể. Chính vì thế, trong một bài thơ của mình, Xuân Diệu đã sử dụng TH mùa xuân với tư cách là BTKH với ý nghĩa theo lối thực vật hóa để biểu thị sự phát triển của sức trẻ đã đến độ viên mãn, tràn đầy: Mùa xuân chín ửng trên đôi má Thiếu nữ làm duyên đứng mỉm cười (Nụ cười xuân) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 Cho nên cũng có thể nói rằng với Xuân Diệu mùa xuân chính là tuổi trẻ. Thậm chí có lúc thi sĩ còn cực đoan khi cho rằng chỉ có tuổi trẻ mới có ngày xuân: Cảm ơn tuổi trẻ bay về lại Cho tôi lại thấy mặt ngày xuân (Hiểu) Cuộc đời mỗi con người đã ngắn ngủi, tuổi trẻ lại càng ngắn ngủi hơn. Xuân Diệu là người hiểu thấu hơn ai hết cái vô giá cũng như giới hạn của tuổi trẻ. Những khát vọng đẹp đẽ nhất của cuộc đời người chỉ có thể đạt được khi còn trẻ mà thôi. Ông cho rằng: cuộc đời chỉ đáng quí, đáng yêu khi người ta còn trẻ. Một khi tuổi trẻ đã qua, cuộc sống coi như chấm dứt. Ông mường tượng ra tuổi già: Bệnh hoạn cắn xương như rắn rúc Mắt sáng phai rồi má hóp không Do đó ông luôn cảm thấy tiếc nuối cái sự sống căng tràn của tuổi xuân thì: Ôi thanh niên người mang hết xuân thì Hình ngực nở, nụ cười tươi màu tóc láng Thanh niên hỡi lòng người thơm quá mất. (Thanh niên) Trong nhiều câu thơ khác của Xuân Diệu, BTKH của THTM “xuân”/”mùa xuân” lại có ý nghĩa chỉ “năm”, để tính thời gian đã qua đi hay tuổi của con người. Cách sử dụng TH xuân/mùa xuân ở ý nghĩa này có giá trị thẩm mĩ khác với khi người ta dùng từ “tuổi” là ở chỗ thể hiện thái độ lạc quan yêu đời, thấy mình luôn trẻ mãi không già! Chẳng hạn: xuân 18, 79 mùa xuân… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 Khi ca ngợi tinh thần dũng cảm của liệt sĩ trẻ tuổi Nguyễn Thị Non, dù bị tra tấn đánh đập dã man, nhưng vẫn kiên cường bất khuất, không chịu khuất phục trước kẻ thù, Xuân Diệu đã vô cùng xúc động: Xuân 18, tuổi trẻ nguyện hi sinh Cho trẻ muôn đời dòng nước biếc Tuổi xuân em mới qúa trăng tròn Tay chân gãy hết thù tra tấn Chẳng chịu lời khai mắng địch đồn. (Nguyễn Thị Non,liệt sĩ-T9) Hay: Hây hây 19 xuân hồng Ước ao hạnh phúc mơ mòng lứa đôi (Đánh lên đầu giặc Mĩ-T7) Với Bác Hồ cũng như vậy. Người bao giờ cũng luôn lạc quan yêu đời, thậm chí ngay cả lúc sắp đi vào cõi vĩnh hằng. Khi ca ngợi Bác Hồ trong ngày Người “vào cuộc trường sinh”, Xuân Diệu đã tránh nỗi đau khi Bác mất, không nói đến tuổi thọ của Người một cách trực tiếp mà dùng từ “mùa xuân” : Tất cả Bác Hồ từ khi tuổi trẻ đến 79 mùa xuân Bác rất thanh tao, Bác rất nhẹ nhàng Bao giờ cũng ung dung và quắc thước (Xem triển lãm “Nhân dân thế giới thương tiếc Bác Hồ”- T10). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 Với Xuân Diệu, mùa xuân luôn mang ý nghĩa biểu trưng cho cái đẹp, biểu trưng cho sức mạnh tuổi trẻ. Mùa xuân của đất trời, mùa xuân của con người . Mùa xuân luôn được ví với tuổi trẻ . Sinh thời Bác Hồ cũng đã từng dùng cặp song hành này: “ Một năm khởi đầu từ mùa xuân, đời người khởi đầu từ tuổi trẻ . Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”Trong nhiều bài thơ, Xuân Diệu đã thể hiện điều đó: Lòng tôi rộng nhưng lượng trời quá chật Không cho dài thời trẻ cuả nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. (Vội vàng). Đặc biệt hơn, và đây là sáng tạo độc đáo về từ ngữ của Xuân Diệu, khi nhà thơ sử dụng BTKH mùa xuân để chỉ mùa thu thành công của Cách mạng tháng Tám. Bởi vì Cách mạng tháng Tám đã mang lại những sự thay đổi mới mẻ cho tất cả mọi lĩnh vực đời sống của nhân dân Việt Nam, cũng giống như mùa xuân mang lại sức sống mới cho mọi cảnh vật sau sự tàn phá của mùa đông ảm đạm và khắc nghiệt. Do đó, mùa thu cách mạng thành công đó cũng chính là mùa xuân của dân tộc, là thời điểm bắt đầu của một cuộc sống mới ấm no, tự do và hạnh phúc: Mùa thu tháng tám năm bốn mươi Nhăm Khởi nghĩa đi lên dân chúng rầm rầm Màu đường phố gầm gầm, nghe nong nóng Và từ ấy - trên thời gian to rộng Thu Việt Nam có nghĩa một mùa xuân (Nhớ mùa tháng tám-T4) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 Xuân Diệu mãi mãi là mùa xuân trong thơ ca Việt Nam, trong lòng độc giả và nhân dân Việt Nam. Đặc biệt dù năm tháng đã trôi qua, thời gian sẽ có thể làm biến đổi nhiều thứ, nhưng có thể tin rằng dù thế nào thì thơ Xuân Diệu vẫn sống mãi với thời gian: Cây đời mãi mãi xanh tươi Tình yêu mãi mãi cần lời thiết tha Thơ anh mãi mãi là hoa Cho đôi lứa hái làm quà tặng nhau (Thơ anh mãi mãi là hoa- Vương Trọng) 2.4.3 Biến thể quan hệ của THTM “xuân” Như đã trình bày, BTKH là những biến thể nảy sinh trong quá trình sử dụng một THTM. Nó có ý nghĩa được cụ thể hóa thêm bởi một số yếu tố phụ trợ cùng xuất hiện trực tiếp ở trước và sau THTM “mùa xuân” trong mỗi khổ thơ, đoạn thơ để tìm ra những liên hệ, hàm nghĩa bổ sung của nó. Các TH phụ trợ cùng xuất hiện với các BTKH này chính là các BTQH. Có khi chúng ta cần phải đặt các đơn vị ngôn ngữ cùng xuất hiện ấy với TH mùa xuân trong những trường liên tưởng khác nhau để có thể cảm thụ hết các sắc thái ý nghĩa của tín hiệu mùa xuân trên mọi khía cạnh. Xuất phát từ cơ sở lí luận như vậy, chúng tôi tiến hành tập hợp các tín hiệu cùng xuất hiện trên trục tuyến tính với tín hiệu “mùa xuân” (tức các BTQH) và phân loại chúng như sau: Các tín hiệu là những danh từ hoặc cụm danh từ, các tín hiệu là những động từ hay cụm động từ, để cụ thể hóa, làm rõ nghĩa cho các THTM chỉ “mùa xuân” (bao gồm THHT và THBTTV). 2.4.3.1 Các tín hiệu BTQH là danh từ, cụm danh từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 Đó là những TH chỉ sự vật, hiện tượng liên quan đến mùa xuân như ngày xuân, gió xuân, lúa xuân, mầm xuân, mùa xuân dân tộc, mùa xuân xã hội, sáng xuân, buổi chiều mùa xuân, cỏ xuân, trời xuân... Như vậy, các BTQH là danh tư/danh ngữ này có ý nghĩa đen và cùng thuộc nhóm chỉ các sự vật, hiện tượng thường xuất hiện vào mùa xuân ở nước ta. Điều đó cũng có nghĩa trong thơ Xuân Diệu, mùa xuân thường được ông miêu tả cùng với cỏ cây hoa lá trong không gian và thời gian khác nhau. Ngoài ra, theo tư liệu thống kê, chúng tôi thấy trong thơ Xuân Diệu còn xuất hiện nhóm BTQH gồm các TH mang nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng, đó là những TH đã có sự chuyển nghĩa. Xuân Diệu gửi gắm vào mùa xuân biết bao tình cảm, nỗi niềm. Hơi thở mùa xuân trong thơ ông vừa đẹp đẽ nồng nàn, vừa đắm say tha thiết. Ông luôn đón chào mùa xuân bằng tất cả tấm lòng rạo rực, si mê. Như chúng ta biết, Tố Hữu là nhà thơ - chiến sĩ cách mạng, mùa xuân trong thơ ông thường gắn liền với khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tấn công và là lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng toàn quân và dân ta trong cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam - Bắc: “Anh chị em ơi! Hãy giương súng lên cao chào xuân 68 Xuân Việt Nam-Xuân của lòng dũng cảm” (Bài ca Xuân 68) Xuân Diệu vốn là thi sĩ lãng mạn, nên mùa xuân được hiện nên trong thơ ông chủ yếu là tính chất nên thơ, nên mộng của sắc xuân với các cung bậc của ánh sáng, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 của trăm hoa đua nở. Đó chính là thiên đường của nhân gian mà con người không phải mất công đi tìm kiếm ở nơi cực lạc nào. Người đọc đã từng say mê thơ Xuân Diệu bởi hương sắc tuyệt vời của không gian mùa xuân với bản hợp xướng của đàn ong tìm mật, sự dịu dàng của gió xuân và sự giao thoa giữa ong và hoa, của hoa mận nở..., tất cả như ùa vào thơ ông, đã làm nên rung động trái tim của những người yêu thơ thi sĩ này: “Sáng xuân mở cửa ong vào Hút hoa mận nở như hoa chíu cành. Gió xuân động khẽ trên cành Ngỡ ong say chạm vào bên hoa cười” (Cành hoa mận-Chùm thơ cây) Từ xưa đến nay, ở Việt Nam, mùa xuân luôn được coi là mùa đẹp nhất trong năm, là mùa của sự hồi sinh, cây cối đâm chồi nảy lộc, nhất là ở một nước có nền văn hoá nông nghiệp lúa nước như Việt Nam. Bởi vậy, qua các BTQH của THTM “xuân”/“mùa xuân” trong thơ ông, chúng ta có thể nhận thấy Xuân Diệu đã say sưa viết rất nhiều về cỏ cây hoa lá mùa xuân. Đó là mầm, là cỏ mùa xuân, là hoa xuân và đặc biệt là lúa xuân. Trong thơ Xuân Diệu tất cả đều đã trở thành những THTM báo xuân về. Chúng ta có thể tìm hiểu và phân tích một số TH BTQH ấy. Đó có thể là lá bàng : Lá bàng non ngon lành như ăn được Trời tạnh mà lá mới ướt như mưa Nhựa bàng đỏ thắm đầu lá biếc Gió rào rào tốc áo lá còn thưa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 (Xuân- T4 ) Các hình ảnh “lá bàng non” và “lá biếc” là những THTM thật điển hình và tiêu biểu cho mùa xuân miền Bắc. Bởi vì, mùa đông lá bàng vốn có màu đỏ, và nhiều khi cây bàng rụng hết lá, chỉ con trơ lại thân cây với những cành khô khẳng khiu. Mùa xuân đến, nhờ những giọt mưa xuân, cây bàng được hồi sinh. Từ sau lớp vỏ thân cây sù sì giờ như bật tung ra những chồi non nhọn hoắt. Bởi vậy “những chồi nhọn” và “lá xanh rờn” đã trở thành những TH báo xuân sang: Những chồi nhọn vui tươi châm khoảng thắm Cánh lao xao chuyển ánh lá xanh rờn (Xuân-T4 ) Các TH BTQH ấy có thể là những hàng ổi trên bờ đê bên Hồ Tây bật chồi biếc cứ mỗi độ xuân về: Hây hây những bóng xanh cây ổi Cong một bờ đê đã bật chồi (Xuân bên Hồ Tây- T10 ) Hay đó chỉ là những chiếc lá đầu tiên vừa nhú, trong thơ Xuân Diệu cũng là TH của mùa xuân: Cây trồng-ta chẳng trồng nêu tết Những lá đầu tiên vừa nhú biếc (Những thơ tình mùa xuân- T6) Các BTQH ấy còn có thể là danh từ biểu thị những chùm hoa xoan với màu tím trắng li ti cạnh bờ sông: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 Đường đi theo dọc Hồng Hà Mưa sau cơn hạn mượt mà cỏ xuân Lại còn tím trắng hoa xoan Đến lùm gai cũng chen vàng sắc hoa (Mùa Xuân-T7) Hay biểu thị bầu trời xanh, hàng cây xanh, khu vườn non mướt lá xanh, đường đi ngập cỏ non xanh...Tất cả những sự vật ấy khi vào thơ Xuân Diệu cũng đều đã trở thành những THTM có ý nghĩa tượng trưng báo hiệu mùa xuân đã đến: Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy! Vườn non sao! Đường cỏ mộng bao nhiêu. Khi Phạm Thái gặp Quỳnh Như thuở ấy Khi chàng Kim vừa được thấy nàng Kiều. (Xuân đầu- T1) Trong đoạn thơ trên, nhà thơ không hề thông báo trực tiếp mùa xuân đã về, thế nhưng người đọc vẫn nhận được thông điệp “mùa xuân đến” chính là nhờ qua khung cảnh thiên nhiên và qua điển tích văn học: Mối tình Phạm Thái - Quỳnh Như và mối tình Kiều-Kim đều được bắt đầu trong buổi gặp gỡ vào mùa xuân. ở miền Bắc trước đây, người nông dân luôn cấy lúa xong trước khi ăn tết. Bởi vậy, BTQH biểu thị hình ảnh “ruộng xanh” trong thơ Xuân Diệu cũng là một TH TM rất đặc trưng cho mùa xuân nơi đây: Ánh xuân mỗi sớm hồng tươi mướt Những ống khôi cao bèn nhận trước Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 Ruộng xanh đã cấy đến chân trời Long lanh mạ soi mình xuống nước. (Thơ tình mùa xuân-T6) Chúng tôi đã thống kê và thấy rằng từ “lúa” được nhà thơ nhắc tới 14 lần nhằm ca ngợi vai trò của cây lúa đối với sự đổi thay và phát triển của đất nước: -Vũ Thắng trăm phần cấy lúa xuân -Lúa xuân mang hẳn mùa xuân lại Hạnh phúc ta trồng vụt nở hoa -Trăm phần trăm ấy lúa xuân reo (Tặng hợp tác xã Vũ Thắng-T10) Lúa xuân khi mới về Đã ai quen mà biết. -Ô!cái lúa xuân này Đẻ trên tay dưới nách. -Lúa xuân là chị lúa xanh Đến khi lúa chín là anh lúa vàng. (Lúa xuân xã Nam Bình-T10) Các BTQH của THTM mùa xuân trong thơ Xuân Diệu là danh từ còn có thể là tên gọi của các loài chim di cư tránh rét, nay trở về khi xuân sang. Hình ảnh đàn chim trong thơ Xuân Diệu cũng là THTM báo hiệu xuân về: Cớ sao chim tụ về đây Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 Lao xao ríu rít bạn bầy đùa kêu. (Mùa Xuân-T7) Hay từng đàn bướm chấp chới đi tìm phấn hương cũng là lúc đất nước vào xuân. Thậm chí, với Xuân Diệu, chính đàn bướm kia đã tạo nên mùa xuân: Bươm bướm trắng nở mùa xuân đất nước Bướm hoan hỉ trên cành không hẹn trước (Hội nghị non sông) Qua cái rét cắt da, cắt thịt của Mùa Đông, Mùa Xuân đến mang lại bầu trời trong xanh quang đãng, tiết trời ấm áp, đặc biệt với những cơn gió xuân “nhẹ như hơi thở”, thật nồng nàn, dễ chịu. Vì vậy, trong các thi phẩm của mình, nhà thơ Xuân Diệu đã nói rất nhiều đến gió và BTQH “gió” đã xuất hiện tới hơn 200 lần. Trong số đó“Gió xuân” là tín hiệu được nhắc đến trong thơ Xuân Diệu tới 25 lần: Nhẹ nhàng gió thổi tháng ba Trong hơi thanh mát có hòa nồng say Xuân còn hè đã thoảng bay Một niềm xa vợi ngất ngây khí trời. (Chớm sang vị hè-T10) Hay: Bên cạnh Hồ Tây gió thổi xuân Gió đưa xuân sắc cảnh thanh tân. (Xuân bên Hồ Tây-T10) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66 Gió xuân động khẽ cành trên Ngỡ ong say chạm vào bên hoa cười. (Cành hoa mận-Chùm thơ cây) Gió xuân về mang lại không khí trong lành, cây cối như xanh tươi hơn, sinh động hơn: Hôm nay nắng đẹp trời ưa Sang xuân hoa cải gió đưa rập rờn (Một mảnh đất-T10) Những làn gió xuân thổi về làm lá lúa dập dờn như reo múa khiến nhà thơ thấy như những ngón tay uốn lượn mềm mại của con người: Gió xuân-lá lúa như reo múa Như ngón tay dài của đất thanh (Lá lúa xuân-T10) Là người luôn muốn gắn bó với cuộc sống, với mùa xuân, với tuổi trẻ và tình yêu, nhưng trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu vẫn thấy mình cô độc giữa cuộc đời lạnh giá, không hòa hợp được với xã hội, nên tình yêu, tuổi trẻ cũng như mùa xuân với nhà thơ thật mong manh. Nhưng từ khi được ánh sáng của cách mạng, lí tưởng của Đảng soi rọi vào tâm hồn, ông đã thấy mình như đang sống giữa lòng nhân dân, trong mùa xuân huy hoàng của dân tộc và của nhân loại. Trái tim của nhà thơ đã gắn bó máu thịt với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng và hòa chung với nhịp đập của trái tim đất nước. Chính vì thế, khi miền Bắc bắt tay vào sản xuất và dựng xây cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, miền Nam “đi trước về sau” vẫn còn phải trên tuyến đầu chống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 Mĩ. Lòng nhân dân miền Bắc triệu người như một vẫn luôn “hướng về Nam”, quyết tâm ủng hộ và chi viện cùng đồng bào miền Nam đấu tranh thống nhất đất nước. Xuân Diệu đã cảm nhận được và như thấy cơn gió xuân miền Bắc đã thổi mang tới đồng bào miền Nam tất cả những tình cảm ruột thịt, thiêng liêng ấy của đồng bào miền Bắc với một ý chí thống nhất nước nhà: Khúc hát đồng ca muôn triệu chí Gió xuân thổi tới tận Miền Nam. (Lá lúa xuân T10) Kết quả thống kê của chúng tôi cho thấy các BTQH của THTM mùa xuân trong thơ Xuân Diệu là danh từ/danh ngữ còn có thể là các TH chỉ không gian và thời gian. Đối với nhóm thời gian có thể chia thành hai phạm trù khác nhau: Thứ nhất: quan niệm về thời gian như một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống quan điểm về vũ trụ, nhân sinh của nhà thơ, như Hoàng Trung Thông cho rằng: “Tuổi trẻ, tình yêu, thời gian” là một đề tài có sức hấp dẫn lớn trong thơ Xuân Diệu. Thứ hai: phạm trù thời gian được sử dụng như một yếu tố hình thức để kiến tạo nên từng tác phẩm cụ thể. Trong phạm trú thứ nhất, Xuân Diệu luôn luôn nhìn thấy sự đối lập nghiệt ngã giữa thời gian vô tận của vũ trụ và thời gian ngắn ngủi của một kiếp người. Bởi vậy, mỗi ngày tháng qua đi, ông nuối tiếc nên cảm thấy thời gian trôi đi nhanh quá: Thong thả chiều vàng thong thả lại Rồi đi...Đêm xám tới dần dần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 Cứ thế mà bay cho đến hết Những ngày, những tháng, những mùa xuân. (Giờ tàn) Vì thế, ông luôn sợ mùa xuân đi mất và cuộc đời mình cũng sẽ chẳng còn gì: Xuân đang tới, cũng là xuân đang qua Xuân còn non, nghĩa là xuân đã già Và xuân hết cũng là tôi cũng mất. (Vội vàng) Trong phạm trù thứ hai: với bản chất của một hình tượng nghệ thuật, thời gian trong tác phẩm nghệ thuật được chia thành 2 nhóm: thời gian cụ thể và thời gian trừu tượng. Xuân Diệu đã khai thác hình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_08_SP_VH_DNT.pdf
Tài liệu liên quan