Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 3

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 3

1.1 Một số khái niệm 3

1.2 Vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ 4

1.2.1 V ị trí 4

1.2.2 Nhiệm vụ 4

1.3 Mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia 4

1.3.1 Kiểm soát lạm phát 4

1.3.2 Ổn định giá trị đồng bản tệ 5

1.3.3 Tạo việc làm và giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp 6

1.3.4 Ổn định và tăng trưởng kinh tế 7

1.3.5 Các mục tiêu trung gian 7

1.4 Cơ cấu chính sách tiền tệ 8

1.4.1 Chính sách tín dung 8

1.4.2 Chính sách ngoại hối 9

1.4.3 Chính sách đối với ngân sách Nhà nước 9

1.5 Quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ 9

1.6 Các công cụ của chính sách tiền tệ 9

1.6.1 Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) 9

1.6.2 Công cụ chiết khấu 10

1.6.3 Dự trữ bắt buộc 12

1.6.4 Kiểm soát hạn mức tín dụng 12

1.6.5 Quản lý lãi suất của các NHTM 13

1.6.6 Cung ứng tiền mặt pháp định 13

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 15

2.1 Khái quát tình hình kinh tế xã hội và việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 1986-2006 15

2.1.1 Giai đoạn 1986-1992 15

2.1.2 Giai đoạn 1993 – 1998 16

2.1.3 Giai đoạn 1999 - 2006 17

2.2 Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay 32

2.2.1 Tình hình kinh tế 32

2.2.1.1 Tình hình tỷ giá 32

2.2.1.2 Tình hình lạm phát 33

2.2.1.3 Tình hình thất nghiệp 33

2.2.1.4 Tình hình tăng trưởng kinh tế 33

2.2.2 Sử dụng các công cụ tiền tệ 34

2.2.2.1 Nghiệp vụ thị trường mở 34

2.2.2.2 Công cụ chiết khấu 34

2.2.2.3 Dự trữ bắt buộc 35

2.2.2.4 Quản lý lãi suất ngân hàng thương mại 35

2.2.2.5 Quản lý ngoại hối 35

2.3 Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 36

2.3.1 Những mặt đạt được 36

2.3.2 Những hạn chế còn tồn tại 36

2.3.3 Nguyên nhân 37

2.3.3.1 Nguyên nhân chủ quan 37

2.3.3.2 Nguyên nhân khách quan 37

2.3.3.3 Sự bất cập của các thủ tục hành chính 38

2.3.3.4 Nguyên nhân thuộc về người lập, ra quyết định và thực hiện quyết định. 38

2.3.3.5 Sự thiếu đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế khác. 38

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP 39

3.1 Một số giải pháp nâng cao nghiệp vụ thị trưởng mở 39

3.2 Các giải pháp đối với lãi suất 41

3.2.1 Chính sách lãi suất đồng bộ 41

3.2.2 Thực hiện lãi suất cơ bản tiến tới tự do hoá lãi suất 41

3.2.3 Quy định mức lãi suất sàn 42

3.3. Một số công cụ gián tiếp điều hành chính sách tiền tệ 43

3.4. Hoàn thiện bộ máy hành chính, giảm bớt sự bất cập của các thủ tục hành chính. 43

3.5 Kết hợp chính sách tiền tệ với các chính sách khác 44

KẾT LUẬN 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO 46

 

 

doc48 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1057 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản thu chi ngân sách Nhà nuớc. Các chính sách kinh tế theo hướng thị trường đưa đến nhịp độ tăng trưởng kinh té cao, đã làm tăng trưởng tổng cung và tổng cầu về hàng hoá. Năm 1993 lạm phát dự kiến là 10 – 13%, thực tế là 5,3%. Bởi vì, giữa năm 1993 hàng hoá Trung Quốc tràn sang với giá rẻ do chính sách điều chỉnh giá của họ, đồng thời do bản thân nền kinh tế Việt Nam đang giảm phát. Năm 1994 dự đoán tỷ lệ lạm phát dưới một con số nhưng vào tháng 10 trở đi do lũ lụt đồng bằng sông Cửu Long đã làm cho giá lương thực tăng vọt, đẩy lạm phát năm 1994 lên 14,4% và ảnh hưởng cả đầu năm 1995. Sáu tháng đầu năm 1995 chỉ số giá cả liên tục tăng cao tới mức 11,4%/6 tháng, nhưng sau đó chỉ số giá lại giảm xuống dưới 0,5%. Nói về nguồn thu của ngân sách Nhà nước, số thu ngân sách Nhà nước tiếp tục tăng. Năm 1993 tăng 50,5% so với năm 1992 và năm 1994 so với năm 1993 tăng 33,6%; điều này cần nhấn mạnh trong những năm qua mặc dù số thuế thu ngày một tăng nhanh nhưng kinh tế vẫn đạt tôc độ tăng trưởng tương đối khá. Trong những năm qua, nguồn thu trong nước không những đáp ứng yêu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng của ngân sách Nhà nước mà còn dành ra một phần tích luỹ để chi cho đầu tư phát triển và để trả nợ. Nhà nước đã thực hiện đổi phương thức cân đối ngân sách theo hướng hạn chế và đi đến chấm dứt phát hành thêm tiền thay thế bằng việc vay dân vay nước ngoài. Các biện pháp vay dần dần được cải thiện nhằm huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư. Bên cạnh việc phát hành tín phiếu kho bạc, việc vay nợ nước ngoài cũng được triển khai, từ năm 1992 – 1994 Nhà nước không còn phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước. Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiều huớng thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Chính phủ luôn luôn ổn định kinh tế vĩ mô giữ lạm phát ở mức thấp và quan tâm đến chính sách tiền tệ. Pháp lệnh NHNN, pháp lệnh NHTM và hợp tác xã tín dụng đã quy định cơ sở cho việc hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp. NHNN đã tập trung vào điều hành chính sách tiền tệ, chú ý đến cung lượng tiền và chú ý đến chính sách lãi suất thực dương. Từ đó quản lý và tạo môi truờng cho các NHTM quốc doanh các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và các tổ chức tín dụng khác hoạt động có lãi theo cơ chế thị truờng. Bên cạnh đó Nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính quốc tế. Cán cân thanh toán có chiều huớng thuận lợi. 2.1.3 Giai đoạn 1999 - 2006 *Giai đoạn 1999 - 2000 - Tình hình kinh tế xã hội giai đoạn 1999 - 2000 Trong giai đoạn 1999 - 2000 nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn: xu hướng giảm sút tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất từ các năm trước chưa được khắc phục, thiên tai liên tiếp, đầu năm hạn hán, cuối năm diễn ra trận lụt thế kỷ ở miền Trung gây thiệt hại hết sức nặng nề về người và tài sản, thêm vào đó là tác động bất lợi của khùng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vẫn còn rất lớn. Song với sự quan tâm cao và tinh thần tự lực tự cường, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quyết sách đúng đắn, các giải pháp tích cực, vượt qua khó khăn và đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Kết thúc năm 1999, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, không để xảy ra những biến động lớn trong môi trường kinh tế vĩ mô. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 4,8% so với năm 1998. Tuy nó có kém năm trước 0,8% và chỉ đạt xấp xỉ kế hoạch (kế hoạch 5 - 6%) nhưng đã xuất hiện xu hướng nhích dần lên, quý sau cao hơn quý trước. Năm 2000 tốc độ tăng GDP đạt 6,75%. Về xuất khẩu thì dấu hiệu đáng mừng năm 1999 cơ cấu mặt hàng bước đầu đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nhóm hàng xuất khẩu qua chế biến đã tăng từ 53% lên 59%, hàng nguyên liệu giảm từ 47% xuống 41%. Có thêm một số mặt hàng mới như điện tử, máy tính, linh kiện. Nhập khẩu thì giảm trong năm 1999 và tăng trong năm 2000. Năm 1999 ước đạt 11,2 tỷ USD, thâm hụt cán cân thương mại chỉ còn khoảng 200 triệu USD. Nhưng sang năm 2000 thì ta nhập siêu gần 1 tỷ USD do phục vụ sản xuất. Tình hình giá cả năm 1999 chưa thoát khỏi đà giảm sút liên tục, chỉ số giá chỉ tăng 0,1%, trong khi giá vàng giảm và giá USD tăng. Thị trường giá cả năm 2000 có phần sôi động hơn do những biện pháp kích cầu của Chính phủ. Nhưng nó cũng không tăng nhiều năm so với năm 1999. *Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 1999 - 2000 + Nghiệp vụ thị trường mở Nhằm chuyển hướng điều hành tiền tệ từ các cơ cấu trực tiếp sang sử dụng các cơ cấu gián tiếp trong năm 1999 NHNN đã gấp rút chuẩn bị mọi điều kiện về pháp lý cũng như công cụ cho hoạt động thị trường mở: như tạo hàng hoá, cơ chế mua bán và các điều kiện để xác định khối lượng hàng hoá một cách phù hợp cụ thể: Mỗi lĩnh vực tạo dựng hàng hoá: các loại hàng hoá như tín phiếu kho bạc Nhà nước, tín phiếu NHNN, các giấy tờ có giá trị thuộc sở hữu của các tổ chức tín dụng đã được quy đinh cụ thể. Cơ chế phát hành tín phiếu NHNN đối với các tổ chức tín dụng theo phương thức đấu thầu lãi suất (kể từ 25/4/2000) Cơ chế phát hành tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức đấu thầu lãi suất Cơ chế xác định các giấy tờ có giá trị ngắn hạn thuộc quyền sở hữu của các tổ chức tín dụng được đăng ký tham gia nghiệp vụ thị trưởng mở. Sau quá trình chuẩn bị khá kỹ càng thì đến đầu tháng 7/2000 NHNN đã chính thức đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động. Tổng số đã có 14 ngân hàng thương mại đăng ký và được chấp nhận là thành viên của thị trường. Bình quân 10 ngày tổ chức một phiên giao dịch mua bán tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc Nhà nước có thời hạn ngắn. Tính đến ngày 31/12/2000 NHNN đã tổ chức được 15 phiên giao dịch. Tổng khối lượng tín phiếu mua bán 1.428 tỷ đồng, trong đó NHNN mua vào 878 tỷ và bán ra 550 tỷ. Lãi suất giao dịch từ 4,9% đến 5,58%. Tuy nhiên do đây là nghiệp vụ mới mẻ của NHNN Việt Nam nên thị trường mở hoạt động còn trầm lặng, mới tập trung chủ yếu vào giao dịch của một số NHTM quốc doanh. + Lãi suất chiết khấu Chương trình cho vay tái cấp vốn được thực hiện đối với các NHTM quốc doanh. NHNN Việt Nam đã kịp thời bổ sung vốn điều lệ và từng bước có giải pháp nhằm làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của NHTM trên cơ sở tiếp tục xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ đọng. NHNN cho vay tái cấp vốn NHTM quốc doanh với số tiền là 3350 tỷ đồng với lãi suất 0,2%/tháng, thời hạn 12 tháng để cơ cấu lại nợ bao gồm: ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam: 500 tỷ đồng; Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam: 300 tỷ; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: 530 tỷ; Ngân hàng Công thương 2020 tỷ; đồng thời NHNN đã tiến hành linh hoạt công cụ tái cấp vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ mức 1,1%/tháng tại thời điểm đầu năm 1999 đến nay chỉ còn 0,5%/tháng. + Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Trong năm 1999 NHNN đã 2 lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5% đối với các NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng Trung ương, quỹ tín dụng khu vực thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 1%. Riêng ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn do phái tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn nên tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm xuống mức 3%. Trong năm 2000 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định là 5% trên tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng đối với các tổ chức tín dụng ở đô thị và 1% đối với các tổ chức tín dụng ở nông thôn. Riêng tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ được nâng từ mức 5% lên 8% thực hiện từ tháng 10/2000, tiếp đến từ 1/12/2000 tỷ lệ này được điều chỉnh lên 12% trên tổng số dư tiền gửi bằng ngoại tệ dưới 12 tháng áp dụng cho tất cả các loại hình tổ chức tín dụng. Nhìn chung tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng nội tệ trong năm 2000 thấp hơn so với các năm trước, điều đó đã góp phần đáng kể trong việc khuyến khích các ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Còn tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ được điều chỉnh 3 lần trong năm nhằm mục đích thích ứng với diễn biến tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng đã tăng nhanh chóng trong những tháng cuối năm 2000. + Kiểm soát lãi suất tín dụng Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ do NHNN điều hành. Trong năm 1999 trước chỉ số giá cả hàng hoá dịch vụ giảm sút, tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại. NHNN đã điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất trần và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát các diễn bién kinh tế vĩ mô, cung và cầu vốn trên thị trường tiền tệ, theo xu hướng nới lỏng tiền tệ, giảm trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. NHNN đã có 5 lần giảm lãi suất cho vay VNĐ từ mức 1,25%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn, 1,2%/tháng đối với cho vay ngắn hạn xuống còn một mức thống nhất là 0,8%/tháng đối với khu vực đô thị và 1%/tháng đối với khu vực nông thôn. Riêng khối NHTM cổ phần nông thôn là 1,15%/tháng, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và hợp tác xã tín dụng cho vay đối với thành viên là 1,5%/tháng, lãi suất huy động vốn bằng ngoại tệ của các pháp nhân cũng được điều chỉnh giảm từ 3% - 3,5%/năm xuống còn 2,5 - 3%/năm nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng đầu tư sản xuất đồng thời cũng phù hợp với việc giảm lãi suát trần VNĐ. Lãi suất cho vay đối với học sinh, sinh viên cũng được giảm từ 0,7% xuống còn 0,6%/tháng, cho vay đối với hộ nghèo cũng giảm từ 0,8%/tháng xuống còn 0,7%/tháng. Trong tất cả các tháng 8, 9, 10, 11, 12/2000 lãi suất cơ bản đối với tiền đồng Việt Nam vẫn liên tục được giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng. Các NHTM được quy định mức lãi suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn; 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay ngoại tệ được dựa trên cơ sở lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng SINGAPORE kỳ hạn 3 tháng cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn và 2,5% đối với cho vay trung dài hạn. Lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh từ 0,4%/tháng (từ 1/8) lên 0,5%/tháng (từ 1/11) và lãi suất tái chiết khấu tăng từ 0,4% lên 0,45%. Chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản là sự kiện đổi mới quan trọng về sử dụng các cơ cấu chính sách tiền tệ tiến tới tự do hoá lãi suất theo thông lệ quốc tế, thúc đẩy cạnh tranh giữa các NHTM, có lợi cho người gửi tiền và người vay vốn. Trong các tháng cuối năm 2000, nhu cầu vốn tăng lên, sức ép tăng lãi suất rất lớn, các NHTM cạnh tranh đồng loạt tăng lãi suất huy động vốn lên một giới hạn nhất định, còn lãi suất cho vay thì hầu như không tăng. Mức lãi suất cao nhất của tiền gửi đồng Việt Nam kỳ hạn 12 tháng phổ biến ở các ngân hàng cổ phần lên tới 0,6 - 0,65%/tháng tương đương 7,2-7,8%/năm. Kỳ hạn 6 tháng: 0,4 - 0,55%/tháng. Tiền gửi USD kỳ hạn 12 tháng phổ biến là 5,5 - 6,0%/năm. + Công cụ tỷ giá hối đoái và chính sách quản lý ngoại hối Nhìn chung năm 1999 tỷ giá ngoại hối luôn ổn định và cơ bản phù hợp với cung cầu ngoại tệ trên thị trường và mục tiêu quản lý của NHNN, giao dịch mua bán trên thị trường ngoại tệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp cũng như các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng sôi động hơn năm trước. Theo quyết định số 6465 của Ngân hàng Nhà nước ngày 25/2/1999 quy dịnh: NHNN công bố tỷ giá hàng ngày trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng ngày gần nhất và NHNN sẽ khống chế mức độ biến động hàng ngày của tỷ giá trong biên độ 0,1% so với tỷ giá công bố. Bước sang năm 2000 thì tỷ giá VNĐ/USD liên tục tăng chậm dần trong năm rất ít khi giảm hay đứng nguyên tạo ra tâm lý lớn đồng tiền Việt Nam mất giá. Bên cạnh đó trong quan hệ về lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam giảm thấp, lãi suất cho vay nội tệ cũng không cao, còn lãi suất tiền gửi ngoại tệ (USD) tăng cao và tương ứng với lãi suất tiền gửi nội tệ, do đó người vay thì thích vay tiền Việt Nam, còn người gửi thích gửi tiền USD. Do đó lượng tiền USD trong các NHTM ở Việt Nam tăng khá nhanh. Trong năm 2000 tốc độ tăng tiền gửi ngoại tệ gấp 3 lần tốc độ tăng tiền gửi đồng Việt Nam và chiếm 40% tổng số dư tiền gửi. Do lãi suất trên thị trường thế giới tăng nhanh, tăng cao nên một lượng USD được các NHTM Việt Nam chuyển gửi ở nước ngoài, hưởng thu nhập hợp pháp từ nghiệp vụ tiền gửi. Ngược lại dư nợ cho vay ngoại tệ tăng chậm. Trong lĩnh vực quản lý ngoại hối NHNN quy định lại nguyên tắc giao dịch tỷ giá, mở rộng thêm đối tựơng vay ngoại tệ và bán ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tại quyết định số 418/2000 ngày 21/9/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có thêm 6 đối tượng được vay bằng ngoại tệ. Thanh toán cho nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, các dự án đầu tư theo quyết định của Chính phủ. Theo quyết định số 468/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên tham gia hợp đồng, hợp tác được mua ngoại tệ cho các giáo dịch năm, giao dịch vãng lai, chủ yếu là nhập khẩu vật tư hàng hoá, trả nợ gốc , lãi, phí đối với các khoản nợ vay nước ngoài ngắn hạn, trung và dài hạn đã đăng ký với ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển vốn pháp định, vốn tái đầu tư hay vốn thực hiện hợp tác kinh doanh ra nước ngoài khi chấm dứt hoạt động. *Giai đoạn 2001-2003 - Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001-2003 Giai đoạn 2001-2003 là giai đoạn mở đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, kế hoạch 5 năm (2001-2005) đầu tiên, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010. Khi triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm này, thuận lợi cơ bản là sau 15 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, thế và lực của nước ta cũng như kinh nghiệm tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên khó khăn cũng không phải ít. Trong khi nền kinh tế nước ta còn nhiều mặt yếu kém, kinh tế thế giới chưa ra khỏi trì trệ thì lại phải đối phó với những tác động tiêu cực của khủng bố quốc tế liên tiếp xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực... Giai đoạn này kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao và cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực xảy ra cuối năm 1997 đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Tổng sản phẩm trong nước trong những năm 1992 - 1997 thường đạt mức tăng trưởng hàng năm 8 - 9%, đã đột ngột giảm xuống còn 5,8% vào năm 1998 và 4,8% vào năm 1999. Năm 2000 chúng ta chặn được sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng và năm 2001 đã đưa tổng sản phẩm trong nước tăng 6,89% và mức lạm phát 0,8%; năm 2003 đạt tốc độ tăng 7,24%. Tính trong 3 năm 2001 - 2003 bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 7,06%. Đời sống của các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện và xoá đói giảm nghèo đạt kết quả quan trọng. Tiền lương tối thiều được điều chỉnh từ 180 nghìn đồng cuối năm 2000 lên 210000 đồng đầu năm 2001 và 290000 dầu năm 2003, cùng với việc triển khai nhiều chương trình xoá đói giảm nghèo nên đời sống của các tầng lớp dân cư được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người theo giá trị thực tế là 356,8 nghìn đồng/người/tháng, tăng 21% so với năm 1999 trong đó khu vực thành thị đạt 625,9 nghìn đồng, tăng 21,1%; khu vực nông thôn đạt 274,9 nghìn đồng, tăng 22,2%. *Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 2001-2003 + Nghiệp vụ thị trưởng mở Sau hơn 3 năm hoạt động, tính đến cuối năm 2003 thị trưởng mở dã có hơn 22 thành viên, trong đó có 4 NHTM quốc doanh, 10 NHTM cổ phần, 5 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng Trung ương và một công ty tài chính. Quy mô và doanh số trong hoạt động của thị trường ngày càng tăng thể hiện sự phát triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này, thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau: Đơn vị: triệu VNĐ Chỉ tiêu 6 tháng cuối năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 102 phiên 2003 (đến 16/12/2003) Tổng cộng Doanh số hoạt động 1.903,5 3.933,8 9.145,53 16.740 31.722,83 NHNN mua 1.353,5 3.313,8 7245,53 9.500 21.412,83 NHNN bán 550 620 1.900 7.240 10.310 Số phiên giao dịch 17 48 85 102 252 Nguồn: NHNN Trong năm 2002 bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch mua có kỳ hạn và bán hẳn, NHNN đã tổ chức được 85 phiên thị trường mở, với tổng khối lượng giao dịch 9145,53 tỷ đồng, bằng 232,48% so với năm 2001. Thông qua đó NHNN cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế hoặc rút bớt tiền từ lưu thông về, tạo điều kiện cho các NHTM tham gia có hiệu quả trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cụ thể: thông qua 57 phiên giao dịch theo phuơng thức mua có kỳ hạn NHNN đã cung ứng 7.254,53 tỷ đồng vốn cho NHTM. Thông qua 28 phiên giao dịch theo phương thức bán hẳn thu về 1.900 tỷ đồng vốn. Lãi suất trúng thầu trên thị trường mở bình quân mua vào là 4,9%/năm và lãi suất trúng thầu bán ra là 4,7%/năm. Tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay của các NHTM đối với doanh nghiệp và khách hàng. Trong năm 2003 bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch mua có kỳ hạn và bán hẳn, tính đến ngày 16/12/2003 NHNN đã tổ chức được 102 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu ước tính là 16.740 tỷ đồng cho các NHTM, trong đó khối lượng giấy tờ có giá là 9.500 tỷ đồng, bán hẳn là 7.240 tỷ đồng. Tức là thông qua thị trường này trong năm 2003 NHNN đã cung ứng gần 8.000 tỷ đồng cho các NHTM tăng đáng kể so với năm 2001 và năm 2002... Qua 4 năm hoạt đông từ năm 2000 đến năm 2003, thị trường mở vẫn tồn tại một số hạn chế, đó là hầu như chỉ có NHTM Nhà nước tham gia, các NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh chưa có cơ hội tham gia hay tham gia chưa có hiệu quả. + Về tái cấp vốn Công cụ tái cấp vốn đã được điều hành theo hướng thực hiện nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng, khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng, tiếp tục thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, hạn chế xu hướng giảm chỉ số giá tiêu dùng. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu trong năm 2001 được điều chỉnh giảm hai lần, xuống còn 0,4%/tháng vào tháng 7/2001 tạo thuận lợi cho việc thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ. Trong năm 2003 lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu được điều chỉnh giảm với biên độ 0,6 - 1,2%/năm, không tương ứng với chiều hướng và biên độ biến động của lãi suất thị trường tiền tệ. Đối với lãi suất tái cấp vốn tháng 3/2003 tăng 1,8%/năm so với 1/6/2002. Đây không phải là biển hiện "thắt chặt tiền tệ", mà NHNN thay đổi cơ chế điều hành lãi suất thị trường liên ngân hàng, bằng việc lấy lãi suất tái cấp vốn là lãi suất chiết khấu làm trần, sàn. Đơn vị: %/năm 1/6/02 31/12/03 31/3/03 30/6/03 30/9/03 31/12/03 Lãi suất tái cấp vốn 4,8 4,8 6,6 6,6 5,0 5,0 Lãi suất chiết khấu 4,2 4,2 4,2 4,2 3,0 3,0 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước + Về dự trữ bắt buộc Năm 2001 việc nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ lên 15%, tiến hành đồng thời với việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng Việt Nam đồng xuống còn 3%, thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất và tỷ giá, góp phần thu hẹp chênh lệch lãi suất tiền gửi Việt Nam đồng, qua đó góp phần hạn chế tình trạng đô la hoá. NHNN đã quy định điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ xuống 10% (do xu hướng giảm mạnh lãi suất trên thị trường quốc tế tháng 12/2001). Trong năm 2002 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh giảm 2 lần xuống 8% vào tháng 4/2002 và xuống 5% vào tháng 12/2002, tạo điều kiện để hạn chế những tác động bất lợi của diễn biến lãi suất trên thị trường quốc tế đến hoạt động các tổ chức tín dụng. + Về lãi suất Năm 2001, NHNN tiếp tục đổi mới điều hành lãi suất theo hướng điều chỉnh lãi suất cơ bản một cách linh hoạt, trên cơ sở bám sát các diễn biến trên thị trường quốc tế và trong nước và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ mức 0,7%/tháng xuống 0,6%/tháng. Cho đến tháng 6/2002 trên thực tế việc điều chỉnh lãi suất cơ bản của NHNN trong năm 2001 phù hợp với diễn biến lạm phát, tỷ giá, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa Việt Nam đồng và ngoại tệ. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ từ tháng 6/2001 NHNN đã bỏ qua cơ chế khống chế theo biên độ chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Theo đó các tổ chức tín dụng được tự do ấn định lãi suất cho vay ngoại tệ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu tín dụng trong và ngoài nước. Riêng với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng, NHNN vẫn quy định khống chế ở mức thấp nhằm hạn chế giảm giữ USD trên tài khoản, hạn chế đô la hoá trong tỷ lệ kết hối giảm xuống mức 40%. Từ 1/6/2002 NHNN bỏ cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận mà theo đó việc kiểm soát lãi suất trên thị trường bằng công cụ hành chính đã chấm dứt. Năm 2003: lãi suất tiền gửi và cho vay bằng VNĐ của NHTM biến động tăng vào 8 tháng đầu năm rồi đảo ngược chiều giảm trong 4 tháng cuối năm. Đơn vị:%/tháng 1/6/02 31/12/03 31/3/03 30/6/03 30/9/03 31/12/03 1. Lãi suất tiền gửi bình quân 3 tháng 6 tháng 12 tháng 0,55 0,58 0,62 0,57 0,6 0,64 0,58 0,64 0,67 0,6 0,65 0,68 0,56 0,58 0,61 0,50 0,54 0,59 2. Lãi suất cho vay bình quân Ngắn hạn KV thành thị KV nông thôn 0,71 0,95 0,75 1,0 0,77 1,05 0,77 1,05 0,75 0,95 0,75 0,95 Trung, dài hạn KV thành thi KV nông thôn 0,77 1,02 0,85 1,06 0,9 1,06 0,92 1,1 0,87 1,05 0,85 1,05 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước + Về tỷ giá Tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt bám sát biên độ dao động của lãi suất USD trên thị trường quốc tế và cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. Ngày 8/9/2001 NHNN đã quyết định mở rộng kì hạn thực hiện các giao dịch kì hạn hoán đổi của tổ chức tín dụng và điều chỉnh mức tăng tỷ giá giao ngay. Trong năm 2001, tỷ giá giữa VNĐ và USD có diễn biến không đều. Trong 4 tháng đầu năm, tỷ giá tăng ở mức thấp (0,09/tháng). Từ tháng 5 đến tháng 7, tỷ giá bình quân tăng 0,86%/tháng. Riêng tháng 6 tỷ giá tăng tới 1,24%. Sang năm 2002 NHNN tiếp tục điều hành chính sách giá linh hoạt thông qua việc mở rộng biên độ giao dịch theo cả chiều tăng giảm. Năm 2003 tỷ giá 9 tháng đầu năm khá ổn định, chỉ tăng 1% nhưng từ đầu tháng 10/2003 tăng đáng kể. Trong 3 tháng cuối năm, tỷ giá tăng tới 1,2% làm cho mức tăng cả năm là 2,2%. *Giai đoạn 2004-2005 - Tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn 2004-2005 Trong 2 năm 2004-2005, nền kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế không mấy thuận lợi. Mặc dù kinh tế thế giới tăng trưởng khá, tạo thuận lợi cho tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam, song những biến động khó lường về chính trị, giá cả nguyên vật liệu có những tác động tiêu cực đến sản xuất kinh doanh trong nước. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2004 là 9,5% (cao nhất kể từ năm 1995 trở lại ). Tuy nhiên nền kinh tế vẫn đạt mức tăng trưởng cao, năm 2004 là 7,7%, đặc biệt trong năm 2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt tốc độ cao nhất so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, thuộc loại cao nhất so với các nước và vùng lãnh thổ châu Á cũng như trên thế giới và hoàn thành được tốc độ tăng trưởng bình quân theo năm mà mục tiêu đã đề ra cho cả thời kỳ 2001-2005. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng, năm 2004 xuất khẩu đạt 58,4 tỷ USD tăng 28,6% so với năm 2003. *Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 2004-2005 + Nghiệp vụ thị trường mở Trong năm 2004 nghiệp vụ thị trường mở đã được tăng cường sử dụng như một công cụ chủ yếu trong điều tiết theo mục tiêu chính sách tiền tệ của NHNN thông qua việc bơm/hút vốn khả dụng của tổ chức tín dụng với thời hạn ngắn từ 7 - 60 ngày. Tổng số giao dịch của năm 2004 đạt 61936 tỷ đồng, bằng khoảng 3 lần tổng doanh số giao dịch của năm 2003. Khối lượng giao dịch bình quân một phiên tăng mạnh trong năm 2004 là 500 tỷ đồng/phiên. Với thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc 2004, khối lượng bán ra trên 19465 tỷ đồng, tăng hơn 3563 tỷ đồng so với năm 2002. Thành viên tham gia thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc tăng hơn 14 thành viên. Bước sang năm 2005 thì trong 6 tháng đầu năm doanh số giao dịch NHTM đã gần bằng 90% doanh số giao dịch của cả năm 2004. Khối lượng giao dịch trong từng phiên cũng ngày càng tăng bình quân 82 tỷ đồng/phiên năm 2000 lên 725 tỷ đồng/phiên trong 6 tháng đầu năm 2005. + Dự trữ bắt buộc Từ tháng 7/2004 NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi dưới 24 tháng bằng VNĐ và ngoại tệ. Cụ thể đối với tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%. Đối với tiền gửi VNĐ kú hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không có kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% - 8%, loại từ 12 tháng đến 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. - Kiểm soát hạn mức tín dụng NHNN tiếp tục việc tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại và nâng cấp hiệu quả tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Đối với các NHTM Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước vẫn là nhóm khách hàng có tỷ trọng dư nợ tín dụng lớn trong danh mục tín dụng. + Quản lý lãi suất của các NHTM Năm 2004 lãi suất cơ bản ở mức 7,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 5%/năm, lãi suất tái chiết khấu là 3%/năm. Từ tháng 5 các NHTM bắt đầu gặp khó khăn trong việc huy động vốn do chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, các NHTM đã thực hiện điều chỉ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0613.doc
Tài liệu liên quan