Tiểu luận Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam

Ở Việt Nam hiện nay đang phát triển kinh tế thị trường là một nền kinh tế mà trong đó mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa tiền tệ, quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển mở rộng. Nền kinh tế thị trường đã tác động đến con người làm cho con người trở nên năng động, sáng tạo, nhanh nhạy song nó cũng làm cho một số người tha hóa, xu hướng thụ hưởng vật chất ngày càng gia tăng, sùng bái đồng tiền, lối sống xa hoa lãng phí, dễ mắc các tệ nạn xã hội, tham nhũng.Những tiêu cực này đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế thị trường.

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1807 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng hóa: Là kiểu tổ chức kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm được sản xuất ra dùng để bán, để trao đổi trên thị trường. Kinh tế hàng hóa ra đời đã phá vỡ và đẩy lùi kinh tế tự nhiên với những ưu điểm của nó là: kích thích sản xuất phát triển, chuyên môn hóa lao động, thỏa mãn mọi nhu cầu đa dạng của xã hội. Sự phát triển kinh tế hàng hóa gắn liền với thị trường. Thị trường là quá trình trong đó có sự tác động giữa người mua và người bán thông qua đó để xác định giá cả và số lượng hàng hóa. Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hóa, dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hóa thị trường; năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết, tự cân bằng do sự tác động của quan hệ cung cầu, tự điều chỉnh của "bàn tay vô hình", mọi nhà sản xuất đều tìm mọi cách tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí tối thiểu để có lợi nhuận tối đa. Cơ chế thị trường mang lại hiệu quả cao, song thị trường lại có những khuyết tật: Do mục đích theo đuổi lợi nhuận - doanh nghiệp vi phạm pháp luật, hủy hoại môi trường cạnh tranh dẫn đến độc quyền làm cho kinh tế phát triển kém hiệu quả, kinh tế thị trường gắn liền với thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, kinh tế thị trường còn dẫn đến sự phân hóa trong xã hội ngày càng sâu sắc. Để khắc phục những khuyết tật này thì phải có sự điều tiết của Nhà nước, đó là "bàn tay hữu hình". b) Tất yếu khách quan để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam - Xuất phát từ thực trạng nước ta từ một nền kinh tế kém phát triển, quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (TBCN), nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, phân tán mang nặng tính tự nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu trong nhiều năm nền kinh tế tồn tại theo cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp nên đã tích tụ những yếu tố dẫn đến khủng hoảng kinh tế, mà thực tế khủng hoảng kinh tế đã diễn ra kéo dài đặc biệt là vào những năm 1980 - 1985 làm cho đời sống rất khó khăn. Trong nền kinh tế nước ta LLSX xã hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Trong điều kiện đó, việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc nào khác là nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hóa. Các thành phần kinh tế cùng tham gia vào thị trường thống nhất vì vậy chúng liên hệ với nhau, vừa cạnh tranh với nhau. - Nước ta trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ LLSX thì phải xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hóa mà phát triển cao là kinh tế thị trường. Thị trường là môi trường, điều kiện thực hiện tái sản xuất vì trao đổi là một giai đoạn tái sản xuất, các quan hệ kinh tế được giải quyết thông qua thị trường xoay quanh ba vấn đề là sản xuất cái gì? như thế nào? sản xuất cho ai? Phân phối ra sao? Các chủ thể tham gia thị trường hoàn toàn tự do mua bán, tự do giá cả và phải cạnh tranh. Cạnh tranh tạo ra động lực và làm tăng hiệu quả kinh tế. Thị trường phát triển thúc đẩy sản xuất và phát triển mở rộng quan hệ kinh tế, nối liền các miền, các vùng kinh tế trong nước và mở rộng liên hệ với thị trường quốc tế. Trong lịch sử kinh tế phát triển tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển LLSX đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đồng thời là động lực mạnh mẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Như vậy, phát triển nền kinh tế thị trường đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển LLSX, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Tuy nhiên kinh tế thị trường có những khuyết tật nên Nhà nước phải can thiệp, điều tiết nền kinh tế để hạn chế, chính vì thế Đảng và Nhà nước ta đã xác định phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước. Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, phát triển LLSX. Sau hơn 10 năm đã giành được những thành tựu bước đầu là thoát khỏi những khủng hoảng, ổn định kinh tế, bước đầu có tăng trưởng nên Đại hội Đảng VIII khẳng định đẩy mạnh đổi mới và đến Đại hội Đảng IX, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. c) Đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam - Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. - Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. - Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm hữu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản. - Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. - Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước ta là Nhà nước XHCN, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. - Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. - Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. - Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. - Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, đa dạng, đa phương, chủ động hội nhập, phát huy lợi thế so sánh tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. 2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam a) Mâu thuẫn giữa lược lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản suất (QHSX) Theo lý luận của Các Mác. Trong sản xuất có hai mặt không thể tách rời nhau, một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa con người với con người; trong hai mặt đó một mặt là LLSX, mặt kia là QHSX. Như vậy: LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất còn QHSX là toàn bộ mối quan hệ lẫn nhau giữa người với người trong quá trình sản xuất. LLSX bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động. QHSX có 3 mặt: Quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Do vậy đã có quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX, LLSX và QHSX thống nhất chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất tạo thành phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức xã hội của sản xuất, LLSX quyết định QHSX, QHSX phải phù hợp với LLSX và tác động tích cực trở lại LLSX. Khi một phương thức mới ra đời thì khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và nó là hình thức phát triển của LLSX. Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp thành không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, khi đó QHSX trở thành kìm hãm LLSX phát triển. Chính vì vậy Mác viết "tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những QHSX hiện có... Trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của LLSX, QHSX ấy trở thành những xiềng xích của các LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội". Thực tại ở Việt Nam khi phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cũng là xác lập một phương thức sản xuất mới, khi đó LLSX phát triển bằng cuộc cách mạng trong CNH, HĐH do Đảng lãnh đạo. Với công nghệ, lao động đang biến đổi theo xu hướng ngày càng trí tuệ hóa, sự thống nhất giữa khoa học và công nghệ là đặc trưng của LLSX hiện đại. Khi đó QHSX cũ còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển do QHSX trở nên lỗi thời, lạc hậu so với sự phát triển của LLSX. Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải thay đổi QHSX cho phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Do đó trong nội dung CNH, HĐH Đảng ta đã chỉ rõ: Xây dựng hoàn thiện QHSX theo định hướng XHCN, phát triển LLSX trên cơ sở đó từng bước xây dựng, hoàn thiện QHSX trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô, định hướng phát triển kinh tế theo mục tiêu CNXH. b) Mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng - Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định, còn kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với các thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các tổ chức xã hội khác... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. - Giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với nhau, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội. Trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng. C.Mác viết "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ các kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng đảo lộn ít nhiều nhanh chóng". Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan, thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngược lại, nếu kiến trúc thượng tầng tác động không phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế thì nó sẽ kìm hãm kinh tế phát triển, và tuy nhiên nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới, tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển. ở Việt Nam trong phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, khi QHSX XHCN được xác lập thì dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng, phù hợp với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng. Song có những yếu tố thay đổi chậm hoặc thay đổi chưa phù hợp, kìm hãm sự phát triển. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX có nêu về những yếu kém, khuyết điểm qua 5 năm đổi mới của nước ta là: Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết; Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển; Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành, cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp... Để giải quyết tồn tại này, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới tiếp theo Đảng ta đã chỉ rõ... "tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN...". c) Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trong kinh tế thị trường định hướng XHCN Sở hữu là phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu tư liệu sản xuất (TLSX) và sản phẩm xã hội. Trong lịch sử nhân loại đã có hai loại hình sở hữu là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Loại hình sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít TLSX, do đó quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và bị trị. Loại hình sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà TLSX thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Như vậy hai hình thức sở hữu này có nội dung khác nhau, mục đích khác nhau, nó đem lại lợi ích kinh tế khác nhau do đó cùng tồn tại sẽ tạo nên mâu thuẫn với nhau. ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại 5 hình thức sở hữu: là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp, sở hữu tư nhân, sở hữu tư nhân tư bản. Trong các hình thức này khái quát lại cũng có hai hình thức cơ bản là công hữu và tư hữu còn các hình thức khác chỉ là trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. Các thành phần kinh tế này tồn tại trong một cơ cấu chung của thời kỳ quá độ, nó tồn tại trong mối liên hệ vừa thống nhất nhưng vừa mâu thuẫn: + Sự thống nhất thể hiện mỗi thành phần kinh tế là những khâu, giai đoạn trong hệ thống phân công và tái sản xuất, mỗi thành phần kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường; quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, chịu sự chi phối của kinh tế Nhà nước. +Sự mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế được thể hiện là: có các hình thức sở hữu khác nhau cho nên mục đích và lợi ích kinh tế cũng khác nhau, tạo ra yếu tố cạnh tranh, đấu tranh với nhau, cạnh tranh lành mạnh thì phát triển, cạnh tranh không lành mạnh thì kìm hãm sự phát triển. Do vậy cần có sự can thiệp của Nhà nước. Đảng và Nhà nước thừa nhận tồn tại khách quan nhiều thành phần không thể chủ quan phủ nhận thành phần kinh tế này hay thành phần kinh tế khác. Vì vậy cần phải nhận thức và sử dụng chính sách nhất quán kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường được đối xử bình đẳng, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật, cũng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Về con đường đi lên CNXH ở nước ta, Đảng ta đã xác định: chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về TLSX chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản. d) Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với xây dựng con người XHCN Triết học Mácxít quan niệm: Con người là một thực thể sống nhất sinh học - xã hội. Trong con người luôn tồn tại song song hai mặt: Sinh học và xã hội, chúng hòa quện vào nhau làm nên con người. Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của những quan hệ xã hội. Con người là chủ thể sáng tạo lịch sử. Con người có vai trò to lớn nên người ta đã khẳng định: Con người là giá trị cao nhất của mọi giá trị, nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, sự phát triển người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. ở nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng xây dựng XHCN trước hết phải có con người XHCN. Về quan hệ cá nhân và xã hội: Xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân, cá nhân ảnh hưởng tới xã hội. ở Việt Nam hiện nay đang phát triển kinh tế thị trường là một nền kinh tế mà trong đó mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa tiền tệ, quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển mở rộng... Nền kinh tế thị trường đã tác động đến con người làm cho con người trở nên năng động, sáng tạo, nhanh nhạy song nó cũng làm cho một số người tha hóa, xu hướng thụ hưởng vật chất ngày càng gia tăng, sùng bái đồng tiền, lối sống xa hoa lãng phí, dễ mắc các tệ nạn xã hội, tham nhũng...Những tiêu cực này đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế thị trường. Trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII Đảng ta đã nêu những yếu kém khuyết điểm là: Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên là rất nghiêm trọng. Điều này mâu thuẫn với việc xây dựng con người XHCN là con người Việt Nam có tri thức có đạo đức, thể lực, kỹ năng, thái độ, phong cách làm việc phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Do vậy về phương pháp luận xây dựng giải pháp phát triển con người Việt Nam phải tính đến tổng thể các quan hệ, các yếu tố đan xen chằng chịt. Phải đặt con người Việt Nam trong sự thống nhất, mâu thuẫn giữa nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội, giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, giữa tiện nghi, mức sống, tiền tài với đạo lý, lương tâm, tình nghĩa, giữa lợi ích gia đình, cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích quốc tế. Nghị quyết Đại hội IX đã xác định: Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. e) Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với những khuyết tật của kinh tế thị trường Bên cạnh những mặt tích cực của cơ chế thị trường như cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu thì kinh tế thị trường cũng chứa đựng rất nhiều khuyết tật là: Do mục đích là P nên lợi dụng khai thác tài nguyên một cách triệt để làm hủy hoại ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên; suy thoái đạo đức, vi phạm pháp luật; kinh tế thị trường gắn liền với thất nghiệp, lạm phát, tính chu kỳ, khủng hoảng, kinh tế thị trường (KTTT) dẫn đến sự phân hóa trong xã hội ngày càng sâu sắc. Những khuyết tật này đã cản trở sự phát triển của KTTT. Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải có sự can thiệp điều tiết của Nhà nước. Vai trò KTTT của Nhà nước thể hiện: Đảm bảo công bằng xã hội, giữ gìn trật tự an ninh bằng các công cụ vĩ mô như: thuế thu nhập, trợ cấp, phân phối thu nhập (quỹ phúc lợi); bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô bằng công cụ, chính sách như: Lãi suất, chính sách tài khóa, tiền tệ... để đầu tư tạo việc làm kiềm chế lạm phát; chính sách bảo vệ môi trường; đầu tư khu vực kinh tế công cộng. Nhà nước phải tạo ra môi trường pháp lý, hành lang pháp luật để duy trì hoạt động kinh tế trong khuôn khổ luật pháp. Chính vì vậy Đại hội Đảng IX đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. III. Những giải pháp xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1. Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) là nhiệm vụ trung tâm Nước ta từ một nước nông nghiệp, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN do đó để phát triển KTTT thì nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu là phát triển CNH, HĐH để xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH - đó chính là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, ứng dụng phổ biến thành tựu mới về khoa học và công nghệ. Phát huy nguồn trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH. Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH. Trước mắt tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước (DNNN), hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn. Tạo sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu. Nước ta có thế mạnh về nông nghiệp nên tăng cường chỉ đạo đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, may mặc, da-giầy, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm... Chú ý đến phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm,... xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước. Phát triển phân công lao động xã hội trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa tạo tiền đề vật chất cho sự phân công mới lao động xã hội, hình thành các ngành nghề mới, các vùng chuyên canh... Thực hiện chiến lược phát triển các vùng, phát huy vai trò vùng kinh tế trọng điểm, phát huy thế mạnh tiềm năng từng vùng, liên kết giữa các vùng. Phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết hợp bảo vệ vùng biển. Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu dự báo khí tượng thủy văn, vật lý địa cầu. Sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. 2. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần Giữa LLSX và QHSX có mối liên hệ mật thiết biện chứng với nhau, chính vì vậy trong KTTT định hướng XHCN ở nước ta thì phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Nền kinh tế nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế; Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen hỗn hợp. Chiến lược phát triển các thành phần kinh tế là: - Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. - Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã (HTX) dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Nhà nước giúp HTX đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng... và phát triển HTX theo luật HTX. - Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. - Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp luật để phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước. - Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh. - Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. 3. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTieu luan - Ly luan ve mau thuan.doc
Tài liệu liên quan