Chuyên đề Quy hoạch vùng nuôi tôm thẻ chân trắng tỉnh bến tre

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN LỢI THỦY SẢN TỈNH BẾN TRE .3

I Điều kiện tự nhiên 3

1 Vị trí địa lý.3

2 Khí hậu .3

3 Đặc điểm địa hình .4

4 Tài nguyên thiên nhiên .4

II Nguồn lợi thủy sản và thủy sinh vật 7

CHƯƠNG 2 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CỦA TỈNH 10

1 Phát triển kinh tế .10

2.Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế .10

3. Cơ cấu GDP và vốn đầu tư .14

CHƯƠNG 3 HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG

1 Tình hình phát triển chung của tỉnh Bến Tre .14

2 Tình hình phát triển của huyện .15

3 Hiện trạng nuôi tôm ven biển các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long.16

a.Tỉnh Tiền Giang 16

b.Tỉnh Trà Vinh 17

CHƯƠNG 4 QUY HOẠCH VÙNG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TỈNH BẾN TRE .18

1 Định hướng quy hoạch phát triển chung .18

2 Một số mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng 25

3 Một số bệnh thường gặp và biện pháp phòng ngừa trong nuôi tôm thẻ chân trắng .27

CHƯƠNG 5 CÁC GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN QUY HOẠCH

I Tính nguyên tắc 30

II Các giải pháp .30

III Thực hiện chính sách 32

IV Tổ chức thực hiện .34

 

 

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Quy hoạch vùng nuôi tôm thẻ chân trắng tỉnh bến tre, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự ổn định, khả năng chống chịu cho nền kinh tế và các cơ hội để nâng cao sản lượng, phát triển các ngành nghề, tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư trong tỉnh. Tuy nhiên, những năm gần đây sự phát triển các ngành nghề theo cao trào, không theo quy hoạch hợp lý đã làm tổn thương nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên sinh vật trong tỉnh do hậu quả của hoạt động khai phá đất đai, biến đổi cảnh quan, mất rừng…Vì thế, việc thống kê đa dạng sinh học là rất cần thiết, hoạt động này góp phần định hướng sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật vùng cửa sông ven biển của tỉnh. CHƯƠNG 2 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CỦA TỈNH 1.Phát triển kinh tế: Tốc độ phát triển kinh tế (GDP) năm sau cao hon năm trước, bình quân 5 năm 2001-2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 9,22%/năm, cao hơn mức bình quân 5 năm trước (6,18%), vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra (NQ là 8-8,5%/năm). Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2005 đạt khoảng 473 USD (NQ 450 USD). - Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế: Trong 5 năm qua, kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong GDP theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng khu vực I từ 67,7% năm 2000, giảm còn 57,1%; tỷ trọng khu vực II từ 11,6% tăng lên 16,8% và khu vực III từ 20,8% tăng lên 25,7% năm 2005 (NQ tương ứng 55%, 20% và 25%) Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào việc nâng cao chất lượng phát triển, đã hình thành được nhiều vùng chuyển canh lúa, dừa, mía, cây ăn quả, nuôi thủy sản. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong giá trị sản xuất toàn ngành nông lâm ngư nghiệp đã giảm từ 62,7% năm 2000 xuống còn 57,6% năm 2005; tỷ trọng ngành thủy sản tăng từ 36,2% lên 41,5%. Cơ cấu sản xuất công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, tập trung chế biến các sản phẩm có lợi thế của tỉnh là hàng nông sản và thủy sản... để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu. Cơ cấu các ngành dịch vụ có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng đa dạng về sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư như dịch vụ thương mại, du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... 2.Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế: Trong 5 năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 5, Luật doanh nghiệp và các cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước,... của tỉnh đã thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước; phát huy tiềm năng, huy động nguồn lực của các doanh nghiệp tư nhân, dân cư, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác. - Cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tích cực cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do điều kiện đặc thù của tỉnh, kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ lực nên tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế diễn ra chậm; trong những năm gần đây nuôi thủy sản nhất là vùng mặn phát triển mạnh nhưng sự chuyển dịch chủ yếu vẫn là trong nội bộ ngành nông nghiệp. Do đó sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ vẫn còn hạn chế. Cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tích cực, lao động nông nghiệp giảm còn 79,83%; công nghiệp-xây dựng 7,14% và dịch vụ 13,03%. Điều này cho thấy, kinh tế của tỉnh đang phát triển theo hướng tăng dần về chất lượng và hiệu quả, tạo thêm việc làm ngày càng nhiều, giảm bớt lao động nông nhàn ở nông thôn. Về sản xuất nông, lâm, thủy sản: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông, lâm ngư nghiệp ước tăng bình quân khoảng 6,52%/năm. Trong những năm qua, ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác tốt tiềm năng và lợi thế của từng vùng sinh thái, ngày càng đi vào chiều sâu về hiệu quả và chất lượng, phát triển theo hướng bền vững, từng bước phát triển các ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Tiềm năng nông nghiệp được khai thác tốt hơn, cơ cấu cây trồng tiếp tục chuyển dịch theo hướng chất lượng, hiệu quả, giảm diện tích lúa, mía năng suất, hiệu quả thấp để chuyển sang trồng cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản hiệu quả cao hơn. Việc thâm canh, ứng dụng giống mới để cải tạo vườn tạp, giồng tạp và trồng xen, nuôi xen trong kinh tế vườn tiếp tục đẩy mạnh, góp phần làm tăng đáng kể năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Cây ăn trái tăng nhanh về diện tích và sản lượng từ 32.379 ha năm 2000, tăng lên 41.061 ha năm 2005, cao hơn mục tiêu kế hoạch 5.061 ha. Diện tích dừa ổn định, hiện có 36.827 ha, sản lượng thu hoạch năm 2005 là 249,6 triệu quả. Diện tích mía giảm dần qua các năm để chuyển sang trồng cây ăn trái có hiệu quả hơn, phù hợp với quy hoạch phát triển nông nghiệp của tỉnh. Cây mía được tập trung phát triển ở những vùng có lợi thế nhằm đảm bảo nguyên liệu cho Nhà máy đường của tỉnh. Đến năm 2005, diện tích mía toàn tỉnh còn 8.933 ha, sản lượng 628,8 ngàn tấn. Cây lúa được sản xuất theo hướng ổn định và vững chắc. Phần lớn đất bìa chéo, hiệu quả thấp chuyển sang trồng cây ăn trái, mía, nuôi thủy sản. Trong 5 năm qua, diện tích gieo trồng lúa giảm dần theo quy hoạch, từ 101.617 ha năm 2000 giảm còn 83.504 ha năm 2005, sản lượng 341.391 tấn. Hiện tại, tỉnh đã hình thành được một số vùng sản xuất lúa cao sản có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Thuỷ sản: Từng bước vươn lên thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, nhất là nuôi thủy sản vùng mặn, lợ; nuôi thủy sản vùng ngọt bắt đầu được mở rộng và ứng dụng sản xuất thâm canh. Diện tích nuôi thủy sản năm 2005 ước là 42.310 ha, tăng 13.057 ha so năm 2000. Thành công nổi bật của nghề nuôi thủy sản trong 5 năm qua là mô hình nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh đã thành công và được nhân rộng ở 3 huyện ven biển , mô hình này từ chỗ bắt đầu nuôi thí điểm được 224 ha năm 2001 đến năm 2005 tăng lên 6.021 ha, thu hút được nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh tham gia, góp phần tích cực nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của một bộ phận nhân dân ven biển. Thông qua Chương trình phát triển giống đã từng bước mở rộng năng lực sản xuất giống trên địa bàn, toàn tỉnh hiện có 54 trại sản xuất giống tôm sú, 14 trại giống tôm càng xanh và 04 trại giống cá, dù chỉ mới đáp ứng khoảng 30% nhu cầu, nhưng bước đầu đã góp phần tạo nguồn con giống ổn định, chất lượng tốt cung ứng cho người nuôi. Hoạt động khai thác thủy sản tiếp tục phát triển theo chiều sâu, số tàu thuyền khai xa bờ tăng nhanh, từ 355 tàu khai thác xa bờ năm 2000 tăng lên 850 tàu năm 2005, chiếm 31,12% trong tổng số tàu thuyền đánh bắt toàn tỉnh. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ phục vụ khai thác thủy sản được quan tâm đầu tư, đưa Cảng cá Ba Tri vào hoạt động, xây mới Cảng cá Bình Đại, chuẩn bị đầu tư Cảng cá Thạnh Phú. Tổng sản lượng thủy sản năm 2005 đạt 137.510 tấn, tăng bình quân 5,1%/năm. Định hướng kế hoạch phát triển kinh tế năm 2006-2010: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra và đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. Phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn: Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp bình quân 7,8%/năm. Triển khai quy hoạch, tổ chức sản xuất trên cơ sở xây dựng và tập trung phát triển 3 vùng kinh tế của tỉnh; bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng sinh thái, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Vùng nước ngọt, tập trung trồng cây ăn trái, sản xuất cây giống, hoa kiểng. Vùng nước lợ, tập trung trồng dừa, mía, cây có múi, ca cao và cây lúa. Vùng nước mặn chủ yếu nuôi trồng, khai thác thủy sản, lâm nghiệp và dịch vụ hậu cần phục vụ nuôi trồng và khai thác thủy sản. Đẩy mạnh phát triển kinh tế vườn, tập trung đầu tư thâm canh cây ăn trái và cây dừa. Đến năm 2010, diện tíach cây ăn trái 45.000 ha, sản lượng 500.000 tấn, tập trung ở các huyện Chợ Lách, Châu Thành; diện tích dừa 40.000 ha, sản lượng 290 triệu quả, tập trung ở các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm và Châu Thành. Ổn định diện tích lúa khoảng 30.000 ha, sản lượng 350.000 tấn, chủ yếu ở các huyện Giồng Trôm, Ba Tri; tiếp tục thâm canh vùng lúa cao sản, chất lượng cao để xuất khẩu. Duy trì vùng chuyên canh mía ở các huyện Mỏ Cày, Thạnh Phú, Giồng Trôm, với diện tích khoảng 6.900 ha, sản lượng 620.000 tấn. Chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn với ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Tăng cường hệ thống khuyến nông, nâng cao trình độ sản xuất của nông dân. Sử dụng giống mới có năng suất, chất lượng cao, xây dựng các vùng sản xuất nông sản tập trung kết hợp với trồng xen, nuôi xen hợp lý; phát triển mạnh mô hình kinh tế trang trại, hình thành những vườn cây chất lượng cao gắn với công nghệ sau thu hoạch và chế biến xuất khẩu. Phát triển đàn gia súc, nhất là đàn bò, dê và heo theo hướng tăng nhanh số lượng, năng suất và chất lượng. Khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hình thức trang trại với quy mô công nghiệp. Đẩy mạnh công tác lai tạo giống vật nuôi nhằm cung ứng giống tốt cho nhân dân; tập huấn kỹ thuật, phòng trừ dịch bệnh; phát triển chăn nuôi gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Bố trí diện tích canh tác phù hợp để trồng cỏ, phát triển chăn nuôi bò, dê. Dự kiến đến 2010 đàn bò 180.000 con, đàn heo 360.000 con, đàn dê 60.000 con. Phát triển nuôi trồng và đánh bắt thủy sản đảm bảo hiệu quả, ổn định và bền vững. Ưu tiên phát triển nuôi thủy sản để tạo nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu. Khai thác và mở rộng diện tích mặt nước nuôi thủy sản trên cả 3 vùng mặn, lợ, ngọt theo quy hoạch. Đến năm 2010, diện tích nuôi thủy sản đạt 49.000 ha, trong đó, nuôi thâm canh, bán thâm canh khoảng 8.000-10.000 ha; tổng sản lượng thủy sản 224.000 tấn. Đa dạng hóa các đối tượng nuôi, chú trọng các đối tượng có giá trị kinh tế cao. Triển khai quy hoạch, xây dựng các vùng nuôi thủy sản xuất khẩu ổn định với các hình thức đầu tư, quản lý thích hợp; kết hợp hài hoà giữa các cấp độ kỹ thuật nuôi: thâm canh, bán thâm canh, quãng canh, nuôi sinh thái và các hình nuôi chuyên, nuôi xen, nuôi luân canh trên ruộng lúa, trong vườn dừa, hoặc lâm ngư kết hợp. Tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nuôi thâm canh, bán thâm canh theo quy hoạch, ưu tiên đầu tư hệ thống thủy lợi cho các vùng nuôi trọng điểm. Mở rộng các cơ sở sản xuất giống hiện có, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất giống. Có chính sách hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư xây dựng trại sản xuất tôm giống, nhằm cung cấp đủ nguồn giống tốt cho nhu cầu nuôi. Tăng cường công tác khuyến ngư, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các qui trình kỹ thuật tiên tiến cho người nuôi; chủ động phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường cho vùng nuôi. Phát triển đánh bắt thủy sản, chủ yếu là khai thác xa bờ với các ngành nghề có hiệu quả cao; khai thác có hiệu quả các ngư trường phù hợp với ngành nghề đánh bắt kết hợp với bảo vệ nguồn lợi thủy sản một cách hợp lý; chú trọng công nghệ bảo quản sản phẩm, hệ thống hậu cần dịch vụ, lưu thông hàng hóa tiện lợi, hiệu quả. 3. Cơ cấu GDP và vốn đầu tư: - Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2006-2010 đạt 13%; - Cơ cấu kinh tế đến năm 2010: Khu vực I: 42%, khu vực II 29%, khu vực II 29% trong GDP; - Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 750 triệu USD; - Tổng đầu tư toàn xã hội 41.200 tỷ đồng; - Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng bình quân 8,28/năm; - Giảm tỷ suất sinh bình quân mỗi năm 0,1%0; - Tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40%; - Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2010 đạt trên 950 USD/năm; - Đến năm 2010, toàn tỉnh có 40% trường Tiểu học, 20% trường Trung học cơ sở và 20% trường Trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia; - Đến năm 2010, có 50% xã được công nhận xã Văn hóa; - Đến năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 10%; - Đến năm 2010 tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt 95%; - Đến năm 2010 tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh sạch đạt 85%; - Đến năm 2010 tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đạt dưới 18%. CHƯƠNG 3 HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TRONG TỈNH BẾN TRE 1 Tình hình phát triển chung. Nghề nuôi tôm tuy chỉ mới phát triển trong vài thập kỷ qua nhưng đã hình thức nuôi khác nhau.Các hình thức chính:nuôi quảng canh,quảng canh cải tiến,bán thâm canh và thâm canh.Bên cạnh đó còn có hình thức khác như: nuôi tôm trong ruộng lúa,nuôi tôm trong rừng ngập mặn,nuôi tôm trên cát,nuôi tôm trong ruộng muối. Thời gian qua, việc nuôi tôm thẻ chân trắng đã bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho người nuôi tôm trên địa bàn tỉnh Bến Tre, có thể xem đây là một triển vọng mới cho nghề nuôi thuỷ sản của tỉnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo Quyết định số 03/2008/QĐ-UBND ngày 07/3/2008 về sản xuất giống và nuôi tôm chân trắng trên địa bàn tỉnh Bến Tre thì tôm thẻ chân trắng chỉ được phép thả nuôi tại một số vùng không còn phù hợp để nuôi tôm sú. Do đó chưa đánh giá hết tiềm năng về diện tích nuôi và hiệu quả kinh tế đối với loại thuỷ sản này. Vì vậy để đánh giá hiệu quả việc phát triển nuôi tôm chân thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh được toàn diện, đồng thời làm cơ sở cho việc định hướng quy hoạch nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới, UBND tỉnh Bến Tre đã ban hành Quyết định số 02/2008/QĐ-UBND ngày 20/02/2009 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 03/2008/QĐ-UBND. Theo đó sẽ cho phát triển nuôi tôm chân trắng tại các vùng nuôi tôm sú thâm canh theo quy hoạch chi tiết nuôi thuỷ sản trên địa bàn 3 huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh phú. Đồng thời các cơ sở nuôi phải đăng ký và được công nhận đủ điều kiện vệ sinh thú y. Sở đã đưa ra quy hoạch tạm thời một số vùng nuôi, quy chế nuôi để trình tỉnh phê quyệt và triển khai đến người dân. Bến Tre vẫn xem còn tôm sú là đối tượng nuôi chủ lực và tôm chân trắng chỉ nuôi ở một giới hạn cho phép. Sau khi tiến hành rà soát và lập phương án phát triển tôm chân trắng, kế hoạch của tỉnh là sẽ phát triển 1.000 ha nuôi tôm chân trắng ở các huyện ven biển. Các huyện ven Biển Bến Tre có những điều kiện tự nhiên phù hợp phát triển nghề nuôi trồng thủy sản, có thể quy hoạch nuôi tôm thâm canh đạt chất lượng cao. Bến Tre cũng là tỉnh có hệ thống quan trắc chất lượng nước hỗ trợ nghề nuôi tôm có hiệu quả. Các sở ngành liên quan như Sở Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Giao thông vận tải, Điện lực tỉnh cần có kế hoạch bố trí vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như đề xuất nhằm hỗ cho dự án đạt được mục tiêu đề ra. UBND các huyện biển triển khai tổ chức thực hiện dự án trên địa bàn và tạo điều kiện khuyến khích các tổ chức, cá nhân  có khả năng đầu tư phát triển nuôi tôm chân trắng tích cực tham gia phát triển nuôi đúng theo định hướng quy hoạch đề ra. Quá trình thực hiện, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm kiểm tra đánh giá, để từng lúc có sơ tổng kết rút kinh nghiệm và điều chỉnh bổ sung khi cần thiết. 2.Tình hình phát triển của huyện a.Huyện Ba Tri Huyện Ba Tri là nơi có ưu thế về diện tích nuôi trồng thủy sản nhất.Trong đó việc đầu tư phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của huyện nhẳm tăng hiệu quả sử dụng đất và nước góp phần cải tạo bộ mặt kinh tế-xã hội huyện là định hướng đúng đắn. Nghề nuôi trồng thủy sản đang từng bước phát triển theo chiều sâu đặc biệt là vài năm gần đây các mô hình nuôi tôm trong ruộng lúa, mô hình nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh đạt hiệu quả cao,mô hình hợp tác kinh tế phát triển mạnh mẽ từ đó thúc đẩy mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất. Cơ sở hạ tầng phục vụ thủy sản mặc dù được quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất.Đa số diện tích nuôi tôm sú chưa có diện tích thoát cấp nước riêng biệt,nên nước cấp vào và thoát ra lẫn lộ giữa các diện tích nuôi khác nhau. Lao đông nuôi trồng thủy sản của huyện ba tri tuy dồi dào về lực lượng, nhưng trong đó không ít những người nuôi thủy sản chưa nắm chặt chẽ về kỹ thuật nuôi,từng mô hình nuôi,từng đối tượng nuôi sản xuất theo kinh nghiệm bản thân. b.Huyện Bình Đại Bình Đại là một trong ba huyện biển của tỉnh Bến Tre với tiềm năng sẵn có do thiên nhiên ưu đãi, với chiều dài bờ biển 27km, hệ thống sông rạch chằng chịt, hình thành môi trường sinh thái khá lý tưởng không chỉ cho việc phát triển nuôi thuỷ sản ở cả ba vùng mặn, lợ, ngọt mà còn tạo điều kiện phát triển nghề đánh bắt hải sản, mang lại nguồn nguyên liệu phong phú, dồi dào cung ứng cho tiêu thụ, chế biến và xuất khẩu…  Với tiềm năng, thế mạnh đó, nghề nuôi thuỷ sản ở Bình Đại đã có từ lâu với hình thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến và xen rừng. Từ khi được tỉnh, huyện xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn, việc phát triển nuôi thuỷ sản đã được các cấp, các ngành và nhân dân địa phương quan tâm đúng mức, nhất là từ năm 2000 đến nay, huyện đã đạt được nhiều thành tựu với bước phát triển tích cực, tạo động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên, nghề nuôi thuỷ sản huyện đang đứng trước những khó khăn thách thức. Một vài nơi phát triển nuôi thuỷ sản còn mang tính tự phát, thiếu tính bền vững. Môi trường nuôi còn ô nhiễm, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro còn cao. Để việc nuôi thuỷ sản phát triển đúng hướng, an toàn và hiệu quả, huyện kịp thời rà soát, điều chỉnh, bổ sung, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội sau khi cống đập Ba Lai vận hành, quy hoạch chi tiết nuôi trồng thuỷ sản huyện đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 3.Hiện trạng phát triển nuôi tôm ở các tỉnh ven biển Đồng Bằng Sông Cửu Long a.Tỉnh Tiền Giang Hiện nay, diện tích nuôi tôm tự nhiên trên địa bàn tỉnh khoảng 3.945ha. Trong đó, quảng canh cải tiến: 1.686,06 ha (DTMN: 796,09 ha); thâm canh và bán thâm canh: 2.115,9 ha (DTMN: 1.479,4ha). Từ đầu năm 2010 đến nay, tổng diện tích thả tôm giống là 3.838,66 ha (DTMN: 2.685,66), tăng 19,52 ha (tăng 0,77 %) so với cùng kỳ năm 2009. Sản lượng tôm thu hoạch là 5.518,8 tấn (gồm có 2.814,33 tấn tôm sú và  2.704,47 tấn tôm thẻ), tăng 3.469,49 tấn so với cùng kỳ năm 2009. Thiệt hại 286ha, chiếm 10,64% diện tích mặt nước, tăng 21,19 ha so với cùng kỳ năm 2009. Tôm được nuôi chủ yếu ở vùng Gò Công, gồm tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Phong trào nuôi tôm thẻ chân trắng mới khoảng chục năm, diện tích nuôi hiện nay chưa lớn, ít hơn diện tích tôm sú, chiếm gần 30% diện tích nuôi. Tuy nhiên, tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng tăng đều hàng năm cho thấy lợi thế của con tôm này đang dần được khẳng định. Vùng nuôi tôm thẻ chân trắng của Tiền Giang thích hợp là xã Phước Trung và một số xã lân cận của huyện Gò Công Đông. Hiện nay, ở huyện này, diện tích thả nuôi tôm là 492 ha/359 hộ, với tổng con giống là 134.520.000 con. Trong đó, tôm thẻ chân trắng là 191,5 ha/288 hộ, với tổng con giống là 80.430.000 con. Con số này cho thấy, tuy tỉ lệ diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng chưa nhiều - 38,9%, nhưng hộ nuôi lại khá lớn - 80,2%. Có thể đây là một bước thăm dò khả năng nuôi con tôm thẻ chân trắng. Tới đây, các ngành chức năng cũng sẽ có bước đánh giá hiệu quả và quy hoạch vùng thích hợp để định hướng và tư vấn cho người nuôi và vùng nuôi tôm trong tỉnh. Gò Công Đông, Gò Công Tây và Tân Phú Đông nuôi nhiều, vì khả năng kinh tế và thiệt hại thấp. Ở môi trường cụ thể của Tiền Giang, nuôi tôm thẻ chân trắng có hai ưu điểm so với tôm sú. Đó là khả năng đề kháng, thích nghi cao với sự biến đổi khí hậu, độ mặn; hơn nữa, vòng quay của nó nhanh hơn con tôm sú, có thể nuôi nhiều vụ/năm”. Nhược điểm lớn nhất của tôm thẻ chân trắng là bị nhiều loại dịch bệnh, việc nhập lậu tôm bố mẹ, tôm giống (post) qua biên giới bằng đường bộ vốn rất phức tạp và khó kiểm soát làm kết quả nuôi không ổn định, hiện tượng tôm nhiễm bệnh dễ xảy ra... điều này tiếp tục là nỗi lo lắng của các tỉnh ĐBSCL trong mùa vụ tới. b.Tỉnh Trà Vinh Trà Vinh là tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long, nằm giữa sông Hậu và sông Tiền, có 65 km bờ biển cùng với hệ thống sông rạch chằn chịt, đan xen, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản cả ba vùng mặn, lợ, ngọt. Với tiềm năng diện tích có khả năng phát triển nuôi trồng thủy sản khoảng 99.000 ha, (vùng mặn lợ 44.000 ha, vùng ngọt 40.000 ha và 15.000 ha đất bãi bồi ven biển) lợi thế trên tạo động lực mạnh cho phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là vùng ven biển của tỉnh. Trà Vinh sẽ dành khoảng 1.880 ha đất vùng ngập mặn, ven biển nuôi tôm thẻ chân trắng, trong đó, huyện Duyên Hải chiếm 730 ha, Cầu Ngang 450 ha, Châu Thành 300 ha và huyện Trà Cú 400 ha. Đây là đối tượng nuôi mới mới được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho phép các tỉnh vùng ngập mặn, ven biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) qui hoạch, nuôi thử nghiệm. Tuy nhiên, việc nuôi tôm thẻ chân trắng ở Trà Vinh còn bộc lộ nhiều vấn đề bất cập: diện tích nuôi thử nghiệm không lớn nhưng có hơn 50% hộ nuôi tự phát ngoài vùng qui hoạch. Nguồn tôm giống gần như bị thả nổi, chủ yếu dựa vào nguồn giống sản xuất ngoài tỉnh cung cấp qua khâu trung gian. Đáng lưu tâm nhất là ngoài việc mắc các loại bệnh thường gặp ở tôm nuôi, tôm thẻ chân trắng còn mắc phải hội chứng Taura. Đây là loại bệnh rất nguy hiểm không có ở nước ta, nó có khả năng lây truyền sang tôm sú, các loài tôm bản địa khác ở địa phương. CHƯƠNG 4 QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG Ở BẾN TRE ĐẾN 2020 1.Định hướng quy hoạch phát triển Nhằm phát triển nuôi tôm chân trắng trên địa bàn tỉnh theo hướng ổn định và bền vững, góp phần thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã ban hành quyết định số 1196/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết nuôi tôm chân trắng trên địa bàn tỉnh Bến Tre đến năm 2020. Tổng diện tích quy hoạch đến năm 2020 là 5.450 ha. Được phân bố trên địa bàn các huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú.Để thực hiện tốt việc triển khai quy hoạch đã đề ra, cần hải phát triển nuôi tôm chân trắng theo sự phân vùng trên địa bàn từng huyện, có kiểm soát của cơ quan chức năng chuyên ngành; phát triển cơ sở hạ tầng như hệ thống thủy lợi, lưới điện phục vụ sản xuất, hệ thống giao thông, hậu cần dịch vụ,... thông qua hình thức xây dựng dự án để thực hiện phát triển quy hoạch đồng bộ; triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện tốt quy hoạch gồm: giải pháp về vốn và nguồn vốn đầu tư, giống, thức ăn, kỹ thuật, thủy lợi, cơ chế chính sách, thị trường tiêu thụ, phát triển và đào tạo nguồn nhân lực, môi trường, bố trí hình thức sản xuất. Chủ đầu tư và quản lý quy hoạch Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với UBND các huyện: Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú thực hiện như: đầu tư các cơ sở hạ tầng thiết yếu, các hạ tầng kỹ thuật chuyên ngành, đồng thời kết hợp với các cơ quan truyền thông để thông tin, công bố quy hoạch và hướng dẫn cho nhân dân biết để thực hiện, tổ chức kiểm tra đánh giá quá trình thực hiện và từng lúc có sơ, tổng kết để rút kinh nghiệm và điều chỉnh bổ sung phù hợp. Định hướng chiến lược phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng tỉnh Bến Tre đến năm 2020 Dự kiến năm 2010 phát triển 1.000 ha, sản lượng 8.800 tấn; năm 2015 phát triển 3.080ha, sản lượng 32.880 tấn; đến năm 2020 là 5.450 ha, sản lượng dự kiến 63.500 tấn, giá trị sản lượng ước đạt 3.965 tỷ đồng. Năm Huyện 2010 2015 2020 Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) 1.000 8.800 3.080 32.880 5.450 63.500 Ba Tri 300 2.600 1000 9.860 1.400 19.050 Bình Đại 500 4.000 1080 13.020 3.000 32.450 Thạnh Phú 200 2.200 1000 10.000 1.050 12.000 Vốn đầu tư dự kiến 530,87 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chuyên ngành chiếm 42 tỷ đồng. Diện tích nuôi được phân bổ tại 3 huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Tại Huyện Ba Tri, tổng diện tích quy hoạch đến năm 2010 là 300 ha, đến năm 2015 là 1.000 ha, năm 2020 là 1.400 ha, được phân bố ở các xã Tân Xuân, Bảo Thạnh, Bảo Thuận, An Thủy. Năm Xã 2010 2015 2020 Diện tích (ha) Sản lượng(tấn) Diện tích (ha) Sản lượng Diện tích (ha) Sản lượng 300 2.600 1.000 9.860 1.400 19.050 Tân Xuân 60 452 180 1.263 230 4.360 Bảo Thạnh 75 655 250 2.652 370 4.670 Bảo Thuận 95 852 360 3.505 450 5.460 An Thủy 70 641 210 2.450 350 4.560 Tại Bình Đại, dự kiến năm 2010 nuôi 500 ha, năm 2015 là 1.080 ha, đến năm 2020 là 2.000 ha, phân bố tại các xã Đại Hòa Lộc, Thạnh Trị, Thạnh Phước, Thới Thuận, Thừa Đức. Năm Xã 2010 2015 2020 Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Diện tích (ha) Sản lượng Diện tích (ha) Sản lượng 500 4.000 1.080 13.020 3.000 32.450 Đại Hòa Lộc 95 580 200 2.500 670 6.750 Thạnh Trị 120 1.050 270 3.570 840 9.440 Thạnh Phước 180 1350 380 4.200 880 9.560 Thới Thuận 105 1.020 230 2.750 610 6.700 Huyện Thạnh Phú có diện tích quy hoạch đến năm 2010 là 200 ha, năm 2015 là 1000 ha và đến năm 2020 là 1050 ha, được phân bố ở các xã An Nhơn, Giao Thạnh, Thạnh Ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnhom3_quy_hoach_nuoi_tom_7523.doc
Tài liệu liên quan