MỤC LỤC
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
II. KHÁI NIỆM VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
1. Khái niệm về Môi trường
2. Khái niệm về Tài nguyên
III. CÁC CHỨC NĂNG CỦA MÔI TRƯỜNG
IV. NHỮNG THÁCH THƯC VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY. LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
1. Khí hậu toàn cầu bị biến đổi và tần suất thiên tai gia tăng
2. Sự suy giảm tầng Ôzôn
3. Tài nguyên bị suy thoái
4. Ô nhiễm môi trường đang xảy ra trên quy mô rộng
5. Sự gia tăng dân số
6. Sự suy giảm tính đa dạng sinh học trên Trái Đất
7. Môi trường và văn hóa, đạo đức xã hội của loài người
8. Vấn đề về năng lượng
9. Những vấn đề về Môi trường và tài nguyên khác
V. KẾT LUẬN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT NHỮNG THÁCH THỨC
5.1 Ổn định dân số
5.2 Quyền phụ nữ
5.3 Cần tìm kiếm những nguồn năng lượng mới
5.4 Hợp tác khu vực
5.5 Đất và nước cần được bảo tồn tốt hơn
5.6 Đa dạng sinh học
5.7 Sự phát triển công nghệ sinh học
5.8 Giáo dục Môi trường
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9384 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thách thức về môi trường và tài nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m trọng ở những nước nghèo, nơi các cơ sở hạ tầng y tế vẫn còn yếu kém hay thiếu các phương tiện cần thiết để bảo vệ sức khỏe cho người dân khi nhiệt độ tăng cao.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, ông Pachauri nhấn mạnh, 2/3 dân số trên thế giới hiện đang sống ở các khu vực nông thôn, đa số tại các nước đang phát triển, và phần lớn việc canh tác đều phải phụ thuộc vào thời tiết, cụ thể là nguồn nước mưa. Biến đổi khí hậu sẽ gây ra tình trạng mất cân bằng về khí hậu, mưa nhiều ở các khu vực khí hậu ôn hòa nhưng lại gây ra hạn hán ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Hạn hán sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động nông nghiệp làm giảm sản lượng lương thực và đẩy giá lương thực tăng cao.
Ông Pachauri nhận định, châu Phi là châu lục dễ bị ảnh hưởng nhất khi lượng mưa giảm. Sản lượng nông nghiệp đang giảm sút, gây ra nạn đói kém. Trong khi đó, giá lương thực tăng cao đẩy những khu vực này lâm vào tình trạng không đủ khả năng tài chính để nhập khẩu số lượng lương thực cần thiết để nuôi sống người dân.
Theo TTXVN, Ủy ban Liên chính phủ về khí hậu thay đổi của LHQ dự kiến vào cuối thế kỷ này, mực nước biển sẽ dâng cao từ 18 đến 59 cm và các đảo quốc nhỏ thuộc vùng châu thổ Mega ở châu Á nằm trong số những nơi bị đe dọa nghiêm trọng nhất.
Khí hậu biến đổi kéo dài hạn hán, làm khô cạn sông hồ tại Trung Quốc.
Trên đây là nhận định của tuần báo The Economist trong một bài viết về thay đổi khí hậu và phát triển. Mọi người đều hiểu các họat động phát triển kinh tế ở những nước chậm phát triển cũng đang góp phần vào sự biến đổi khí hậu và quy mô của nó hiện giờ đang ngày càng lớn hơn.
Bài báo cho biết, các nước đang phát triển hiện phát thải ra gần một nửa lượng khí carbon trên tòan địa cầu. Lấy thí dụ như Brasil, lượng khí CO2 thải ra tính trên đầu người dân còn cao hơn cả nước Đức.
Về mức độ thiệt hại của hiện tượng khí hậu ấm lên đối với những nước nghèo, trong một bản báo cáo đưa ra năm 2006 thì nhiệt độ trái đất tăng thêm 2°C thì sẽ làm thiệt hại 1% tổng sản phẩm thu nhập của tòan thế giới. Ngân Hàng Thế Giới vừa đưa ra một báo cáo mới đánh giá biến đổi khí hậu có thể gây thiệt hại 4% tổng thu nhập quốc dân của châu Phi và riêng Ấn Độ, con số này lên tới 5%.
Theo tờ báo, tính được giá trị thiệt hại kinh tế từ hiện tượng biến đổi khí hậu là rất khó, vì người ta vẫn chưa nắm bắt được có bao nhiêu nhân tố góp phần vào hiện tượng này. Nhưng người ta có thể tính được qua số lượng nạn nhân của các trận thiên tai. Chẳng hạn, từ năm 1981 đến 1985, trên thế giới có khoảng 5 triệu người cần được cứu trợ thiên tai. Còn từ năm 2001 đến 2005, con số trên đã tăng đến 1,5 tỷ người.
Vẫn theo bài báo thì người nghèo hiển nhiên là dễ bị thiệt hại hơn người giàu. Lấy một ví dụ trong trận bão Mitch tàn phá Honduras vào năm 1998, các gia đình nghèo bị mất 20% tài sản, trong khi người giàu bị thiệt hại có 3%.
Khí hậu trái đất ấm lên càng làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh dịch nguy hiểm vốn đã và đang lan tràn ở các nước nghèo.
Theo đánh giá của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, từ nay đến năm 2070, 60% dân số thế giới sẽ rất dễ bị mắc bệnh dịch do hiện tượng trái đất nóng dần lên.
Khí hậu trái đất tăng dẫn đến tan băng và hậu quả là lụt lội. Theo các nhà nghiên cứu thì vẫn lại chủ yếu là các nước nghèo bị ngập lụt nhiều nhất. Trong khi đó ngân sách quốc gia của các nước này thì hạn hẹp không cho phép tự bảo vệ được mình.
Thời tiết khí hậu còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến các họat động sản xuất và đời sống của con người.
2. Sự suy giảm tầng Ôzôn
2.1 Tầng Ôzôn là gì?
Khí Ôzôn gồm 3 nguyên tử oxy (O3). Tầng bình lưu nằm trên tầng đối lưu với ranh giới trên dao động trong khoảng độ cao 50 km. Ở độ cao khoảng 25 km trong tầng bình lưu tồn tại một lớp không khí giàu khí Ôzôn thường được gọi là tầng Ôzôn. Hàm lượng khí Ôzôn trong không khí rất thấp, chiếm một phần triệu, chỉ ở độ cao 25 - 30 km, khí Ôzôn mới đậm đặc hơn (chiếm tỉ lệ 1/100.000 trong khí quyển). Người ta gọi tầng khí quyển ở độ cao này là tầng Ôzôn.
Ở giữa tầng bình lưu trong khoảng cây số 35 và cây số 19 có tầng ozon, tầng này chứa chất ozon và oxy. Tầng này không có gió và không khí nóng. Chính khí ozon đã làm cho không khí nóng lên. Ở giữa tầng bình lưu trong khoảng cây số 35 và cây số 19 có tầng ozon, tầng này chứa chất ozon và oxy. Tầng này không có gió và không khí nóng. Chính khí ozon đã làm cho không khí nóng lên.
Vấn đề gìn giữ tầng Ôzôn có vai trò sống còn đối với nhân loại. Tầng Ôzôn có vai trò bảo vệ, chặn đứng các tia cực tím có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của con người và các loài sinh vật trên Trái Đất. Bức xạ tia cực tím có nhiều tác động, hầu hết mang tính chất phá hủy đối với con người, động vật và thực vật cũng như nhiều loại vật liệu khác. Khi tầng Ôzôn tiếp tục bị suy thoái, các tác động này càng trở nên tồi tệ. Ví dụ mức cạn kiệt tầng Ôzôn là 10% thì mức bức xạ tia cực tím ở các bước sóng gây phá hủy tăng 20%.
Khí Ozon hút hầu hết tia cực tím do Mặt trời tỏa ra, tạo nên một dải không khí nóng. Nhưng quan trọng hơn là cả tầng ozon ngăn cản mọi tia cực tím đến mặt đất. Tia này, ít thì tốt, nhưng nếu nhiều quá, nó sẽ thiêu đốt chunt1 ta, khó mà sống được. Vì vậy, chúng ta nhận ra sự quan trọng tại sao đừng thải một chất nào vào không khí khiến cho tầng ozon bị hủy hoại.
Tại Việt nam, các nhà máy sản sinh ra hằng năm nhiều triệu tấn CO2 ảnh hưởng rất nhiều đến môi trường sống.
Để chống suy giảm tầng ôzôn, các nước đã ký nghị định thư Montreal. Mỹ là một trong các quốc gia sản xuất chất CFC nhiều nhất lại không tham gia ký nghị định thư này.
Theo Cục thủy lợi Việt Nam thì từ năm 1960 - 2004, hạn hán nặng làm ảnh hưởng đến vụ đông xuân và vụ mùa. Năm bị hạn nặng nhất là 1998 bị thiệt hại trên 5.000 tỉ đồng. Nguyên nhân hạn là do mùa mưa kết thúc sớm hơn từ 1-2 tháng làm lượng mưa chỉ đạt 50-70% so với trung bình nhiều năm. Nhiệt độ của tháng đầu năm cao hơn trung bình nhiều năm từ 1-3oC.
Một trong các biện pháp hạn chế những nguy cơ trên là thay đổi tập quán sử dụng, không để xảy ra cháy rừng, không đổ rác thải bừa bãi, không sản xuất chất CFC.
Bức xạ tia cực tim có thể gây hủy hoại mắt, làm đục thủy tinh thể và phá hoại võng mạc, gây ung thư da, làm tăng các bệnh về đường hô hấp. Đồng thời, bức xạ tia cực tím tăng lên được coi là nguyên nhân làm suy yếu các hệ miễn dịch của con người của con người và động vật, đe dọa tới đời sống của động và thực vật nổi trong môi trường nước sống nhờ quá trình chuyển hóa năng lượng qua quang hợp để tạo ra thức ăn trong môi trường thủy sinh.
Ôzôn là loại khí hiếm trong không khí nằm trong tầng bình lưu khí quyển gần bề mặt Trái Đất và tập trung thành một lớp dày ở độ cao từ 16-40 km phụ thuộc vào vĩ độ. Ngành giao thông đường bộ do các phương tiện có động cơ thải ra khoảng 30-50% lượng NOx ở các nước phát triển và nhiều chất hữu cơ bay hơi (VOC) tạo ra Ôzôn mặt đất. Nếu không khí có nồng độ Ôzôn lớn hơn nồng độ tự nhiên thì môi trường bị ô nhiễm và gây tác hại đến sức khỏe con người.
2.2 Nguyên nhân gây suy giảm tầng Ôzôn
Các chất làm cạn kiệt tầng Ôzôn bao gồm:
Cloruafluorocacbon(CFC); metan(CH4); các khí nitơ ôxit (NO2, NO, NOx) có khả năng hóa hợp với O3 và biến đổi nó thành Oxy. Các chất làm suy giảm tầng Ôzôn trong tầng bình lưu đạt ở mức cao nhất vào năm 1994 và hiện đang giảm dần. Theo Nghị định thư Montreal và các văn bản sửa đổi của Nghị định thư dự đoán rằng, tầng Ôzôn sẽ được phục hồi so với trước những năm 1980 vào năm 2050.
Tháng 10 năm 1985, các nhà khoa học Anh phát hiện thấy tầng khí ôzôn trên không trung Nam cực xuất hiện một "lỗ thủng" rất lớn, bằng diện tích nước Mỹ. Năm 1987, các nhà khoa học Ðức lại phát hiện tầng khí ôzôn ở vùng trời Bắc cực có hiện tượng mỏng dần, có nghĩa là chẳng bao lâu nữa tầng ôzôn ở Bắc cực cũng sẽ bị thủng. Tin này nhanh chóng được truyền khắp thế giới và làm chấn động dư luận.
Các nhà khoa học đều cho rằng, nguyên nhân này có liên quan tới việc sản xuất và sử dụng tủ lạnh trên thế giới. Sở dĩ tủ lạnh có thể làm lạnh và bảo quản thực phẩm được lâu là vì trong hệ thống ống dẫn khép kín phía sau tủ lạnh có chứa loại dung dịch freon thể lỏng (thường gọi là "gas"). Nhờ có dung dịch hoá học này tủ lạnh mới làm lạnh được. Dung dịch freon có thể bay hơi thành thể khí. Khi chuyển sang thể khí, freon bốc thẳng lên tầng ôzôn trong khí quyển Trái đất và phá vỡ kết cầu tầng này, làm giảm nồng độ khí ôzôn.
Không những tủ lạnh, máy lạnh cần dùng đến freon mà trong dung dịch giặt tẩy, bình cứu hoả cũng sử dụng freon và các chất thuộc dạng freon. Trong quá trình sản xuất và sử dụng các hoá chất đó không tránh khỏi thất thoát một lượng lớn hoát chất dạng freon bốc hơi bay lên phá huỷ tầng ôzôn. Qua đó chúng ta thấy rằng, tầng ôzôn bị thủng chính là do các chất khí thuộc dạng freon gây ra, các hoá chất đó không tự có trong thiên nhiên mà do con người tạo ra. Rõ ràng, con người là thủ phạm làm thủng tầng ôzôn, đe doạ sức khoẻ của chính mình,
Sớm ngừng sản xuất và sử dụng các hoá chất dạng freon là biện pháp hữu hiệu nhất để cứu tầng ôzôn. Nhiều hội thảo quốc tế đã bàn tính các biện pháp khắc phục nguy cơ thủng rộng tầng ôzôn. 112 nước thuộc khối Cộng đồng Châu Âu (EEC) đã nhất trí đến cuối thế kỷ này sẽ chấm dứt sản xuất và sử dụng các hoá chất thuộc dạng freon. Vì vậy các nhà khoa học đang nghiên cứu sản xuất loại hoá chất khác thay thế các hoá chất ở dạng freon, đồng thời sẽ chuyển giao công nghệ sản xuất cho các nước đang phát triển. Có như vậy, việc ngừng sản xuất freon mới trở thành hiện thực. Muốn đạt được yêu cầu thiết thực này, không chỉ riêng một vài nước mà cả thế giới đều phải cố gắng thì mới có thể bảo vệ được tầng ôzôn của Trái đất.
2.3 Biện pháp bảo vệ tầng Ôzôn
Ánh sáng và nhiệt do Mặt trời mang lại là cần thiết đối với sự sống trên Trái đất, nhưng chúng mang theo những tia tử ngoại gây nhiều tác hại. Bảo vệ tầng ôzôn chính là bảo vệ chúng ta khỏi những tác hại này.
Điều mà chúng ta có thể làm để đóng góp vào việc ngăn chặn quá trình suy thoái tầng ôzôn rất cụ thể và đơn giản, đó là:
1. Tự bảo vệ mình khỏi sự tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng. Che chắn da, đeo kính râm, đội mũ nón khi đi ra ngoài nắng.
2. Giảm ô nhiễm không khí do xe cộ và các thiết bị khác khi hoạt động xả khí thải vào môi trường.
3. Tiết kiệm năng lượng, nước trong nhà và nơi làm việc.
4. Sử dụng ánh sáng tự nhiên trong nhà và nơi làm việc nếu có thể.
5. Tận dụng phương tiện giao thông công cộng hơn là dùng xe máy cá nhân hoặc taxi nếu có thể. Thỉnh thoảng đi xe đạp hoặc đi bộ đến nơi làm việc.
6. Khi mua các sản phẩm gia dụng, nhất là các loại dùng trong bình xịt, tìm loại ghi trên nhãn “không có CFC”.
7. Sơn nhà, nên sơn bằng cách quét hoặc lăn, không dùng cách phun sơn.
8. Giảm dùng các bao bì bằng nhựa xốp. Nếu có sẵn, nên tận dụng nhiều lần.
Bạn hãy vận động gia đình, bè bạn làm như bạn. Chúng ta sẽ có một cuộc sống “xanh” hơn. Đơn giản quá, phải không bạn? Nếu cả thế giới chung tay làm những điều này, sẽ tạo ra môi trường xanh và sạch cho tất cả mọi người.
3. Tài nguyên bị suy thoái.
3.1 Trên thế giới:
Rừng, đất và đồng cỏ hiện nay đang bị suy thoái hoặc bị triệt phá mạnh mẽ, đất hoang mạc biến thành sa mạc sự phá hủy rừng vẫn đang diễn ra ở mức độ cao, trên thế giới diện tích rừng có khoảng 40 triệu km. Diện tích rừng giảm: trước đây trên thế giới có 60 triệu Km2 rừng. Năm 1958 còn 44 triệu km2, năm 1973 còn 33,37 triệu km, cho đến nay còn 29 triệu km, trong số đó gồm 1/3 rừng ôn đới, 2/3 rừng nhiệt đới.Sự phá hủy rừng xảy ra mạnh, đặc biệt là ở những nươc đang phát triển chủ yếu là do nhu cầu khai thác gỗ củi và nhu cầu lấy đất làm nông nghiệp và cho nhiều mục đích khác nữa, gần 65 triệu ha rừng bị mất vào những năm 1990-1995.
Ở các nước đang phát triển, diện tích rừng tăng 9 triệu ha, con số này còn quá nhỏ so với diện tích rừng bị mất đi. Chất lượng của những khu rừng còn lại đang bị đe dọa bởi nhiều sức ép lớn do tình trạng gia tăng dân số , mưa axit, nhu cầu khai thác gỗ củi và do cháy rừng. Nơi cư trú của các loài sinh vật bị thu hẹp và bị tàn phá nặng nề, đe dọa tính đa dạng sinh học ở mức độ về gen, các giống loài và các hệ sinh thái.
Đất bị suy thoái: trong vòng 20 năm tới đất đai của khoảng 100 nướcđang biến đổi thành hoang mạc.Sa mạc Sahara hằng năm tăng 5 -7km2, 25 tỉ tấn đất bị xói mòn trôi ra biển
Ở Việt Nam, theo số liệu của Bộ Tài nguyên - Môi trường, trước đây rừng che phủ 43% nay chỉ còn 36%. Tỉ lệ mất rừng bình quân 150.000-200.000 m2
Trữ lượng nước dưới đất trên toàn lãnh thổ của ta khoảng 50 - 60 tỉ m3/năm, khai thác khoảng 6 - 7 tỉ m3
Tài nguyên nước bị kiệt quệ: trên thế giới hiện nay gần 20% dân số không có nước sạch để sử dụng,. Theo UNCEF, hằng năm có hơn 118,9 triệu trẻ em toàn cầu mắc bệnh có liên quan đến đường ruột do thiếu nước sạch.
Nguyên nhân là do biến đổi của khí hậu, sự gia tăng dân số, phát triển kinh tế và do khai thác nước ngầm quá mức. Việc khai thác nguồn nước ngầm quá mức trong thời gian qua làm mực nước ngầm hạ thấp, suy giảm trữ lượng, có thể làm mất khả năng phục hồi của nước ngầm, tăng xâm nhập nước mặn gây sụt lở đất, Hư hại công trình xây dựng, làm trầm trọng thêm tình trạng ngập lụt, ô nhiễm tầng nước ngầm, dòng chảy, nhiều hồ nước bị cạn kiệt ( Nghệ An cạn 579 hồ, Quảng Bình cạn 110 hồ, Quảng Trị cạn 85 hồ. Tình trạng này khiến 898.962 ha lúa bị hạn (chiếm 12% diện tích cả nước), trong đó có 122.081 ha bị mất trắng. Năm 2005 Đắc Lắc mất trắng 19.000 ha ngô, 10.000 ha đậu, lạc, vải, 1061 ha lúa nước, diện tích cà phê khô hạn 68.406ha. Tổng thiệt hại hơn 200 tỉ đồng.
Tình trạng khai thác bừa bãi tài nguyên dẫn đến cạn kiệt và ảnh hưởng lớn đến môi trường . Chẳng hạn tình trang khai thác cát dưới lòng sông. Ước tính mỗi ngày có từ 70.000 - 150.000m3cát bị khai thác. Tình trạng tận thu cát sỏi lòng sông Đồng Nai đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên cát, gây sạt lở hàng trăm ngàn mét vuông đất. Tình trang hủy hoại môi trường không thể chấm dứt nếu chính quyền các địa phương còn thờ ơ ( nguồn Báo tuổi trẻ chủ nhật số 33-2004)
Việc quản lý lỏng lẻo cùng việc cấp giấy phép tận thu khoáng sản của ủy ban nhân dân một số tỉnh mà không có thủ tục về thăm dò, đánh giá trữ lượng của các cơ quan chức năng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khai thác tràn lan, không quan tâm đến xử lý môi trường. Toàn bộ nước thải trong quá trình tuyển quặng được các đơn vị khai thác thải ra các khe suối, nhất là 1 lượng lớn chất độc cyanua, gây ảnh hưởng đến môi trường nước đầu nguồn. Các đơn vị khai thác đã chặt phá bừa bãi rừng nguyên sinh.
3.2 Tại Việt Nam
Tài nguyên biển đang bị khai thác bừa bãi, rừng bị thu hẹp dần cùng với sự gia tăng đất bị sa mạc hóa:
Biển càng ngày càng trở thành cái thùng rác lớn nhất của quả đất nên ngày càng bị ô nhiễm nặng. Thêm vào đó là sự khai thác bừa bãi, mù quáng quá mức cho phép của con người. Hiện nay, trước sức ép của các vấn đề kinh tế-xã hội, các nước đã và đang đồng loạt tiến quân ra đại dương nên sự cạn kiệt tài nguyên biển và vấn đề ô nhiễm đang ngày càng trở nên trầm trọng.
Trước hết, mặc dù chúng ta có các chương trình, dự án, đề tài điều tra, nghiên cứu, tìm hiểu về biển nhưng hiểu biết của chúng ta về Biển Ðông còn phải tiếp tục được nâng lên. Thiếu phương tiện, thiết bị, cán bộ có chuyên môn sâu và nguồn lực tài chính hạn hẹp nên thông tin, số liệu thu được chưa cao. Ðây là thách thức lớn nhất và trở ngại đầu tiên trên con đường tiến ra biển. Biển Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao với nhiều hệ sinh thái cửa sông đặc thù, hệ sinh thái đất ngập nước, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm cỏ biển dọc từ bắc vào nam và quanh các đảo lớn, nhỏ. Ðây là những nơi có điều kiện lý tưởng để các loài sinh vật biển sinh sống và phát triển, tạo nên nguồn lợi hải sản phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, các hệ sinh thái biển đang bị suy thoái nhanh. Diện tích rừng ngập mặn giảm quá nửa trong vòng 30 năm qua. Chỉ hơn 15 năm trở lại đây, diện tích các rạn san hô giảm đến gần 20%. Các thảm cỏ biển cũng đang bị suy thoái nghiêm trọng, nhiều nơi mất hẳn. Nguồn lợi hải sản giảm nhanh, nhiều vùng biển ven bờ bị suy kiệt. Chất lượng nước biển cũng đang có xu hướng suy giảm, nhiều vùng biển bị ô nhiễm nặng. Hằng ngày biển phải tiếp nhận một lượng nước thải lớn từ đất liền, trực tiếp hoặc theo các lưu vực sông đổ ra biển. Cùng với dầu tràn, ô nhiễm từ các hoạt động vận tải nhộn nhịp trên biển, các nguồn thải từ đất liền đang đe dọa nhiều vùng biển nước ta.
Trong thời gian tới, khi đẩy mạnh khai thác dầu khí, phát triển kinh tế hàng hải, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch biển, xây dựng hệ thống các cảng ven biển, phát triển nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị ven biển, tác động của biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao sẽ gia tăng mạnh áp lực lên tài nguyên, các hệ sinh thái và môi trường biển và ven biển. Cạn kiệt tài nguyên, suy thoái các hệ sinh thái, ô nhiễm môi trường biển là những vấn đề lớn cần quan tâm giải quyết trong quá trình tiến ra biển và lớn mạnh từ biển.
Ðể phát triển bền vững biển nước ta, trên cơ sở các định hướng chung của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, cần có một chiến lược toàn diện về tài nguyên và môi trường biển. Chiến lược sẽ xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường đồng hành với quá trình đẩy nhanh các hoạt động kinh tế biển, gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền biển, đảo của nước ta. Ðẩy mạnh điều tra, khảo sát, nghiên cứu để hiểu hơn về biển, củng cố thông tin về tài nguyên và môi trường biển, tiến tới hiểu rõ về tài nguyên dưới đáy biển, tiềm năng băng chảy, khả năng ứng dụng năng lượng thủy triều, sóng biển, v.v…; bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái biển; bố trí không gian và phát triển các vùng biển phù hợp với sinh thái của từng vùng; phát triển các ngành kinh tế biển bền vững; kiểm soát các nguồn ô nhiễm từ đất liền; phòng ngừa ô nhiễm từ các hoạt động trên biển và ô nhiễm xuyên biên giới; phòng, chống thiên tai, ứng phó với tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ là các nội dung quan trọng. Bên cạnh đó, biển và vùng ven biển là nơi diễn ra nhiều hoạt động đan xen với sự tham gia của nhiều bên liên quan. Vì vậy, việc thúc đẩy sự phối hợp, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên biển, giảm các xung đột lợi ích, phương thức quản lý tổng hợp, tiếp cận yếu tố sinh thái trong phát triển biển và vùng ven biển đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng.
Cùng với biển, rừng đang ngày càng bị thu hẹp dần. Tốc độ phá rừng ở nhiều quốc gia trên thế giới đang ở mức độ chóng mặt. Rừng bị thu hẹp kéo theo những tai họa khổng lồ mang tính chất toàn cầu như làm biến dạng hệ sinh thái, tăng nguy cơ khan hiếm nước, thay đổi khí hậu và gia tăng các tai họa thiên nhiên. Cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, rừng nước ta bị tàn phá một cách nhanh chóng.
Trong vòng 50 nǎm qua, diện tích rừng nước ta đã bị giảm hơn một nửa, từ 19 triệu ha xuống còn 9 triệu ha, bình quân mỗi nǎm 200 ngàn ha. Nguyên nhân của tình trạng trên, ngoài khai thác gỗ và các loại lâm sản một cách bừa bãi, còn do nhu cầu lương thực cho số dân tǎng quá nhanh đòi hỏi phải phá rừng mở rộng diện tích canh tác. Một số dân tộc ít người có tập quán du canh, du cư, rừng sau khi đốt phát thành nương rẫy chỉ gieo trồng được vài ba vụ là lại phải di chuyển sang nơi khác phá rừng làm nương rẫy mới. Quá trình trên cứ lặp đi lặp lại hết đời này sang đời khác làm cho diện tích rừng tự nhiên nhanh chóng bị thu hẹp lại. Rừng không chỉ là nguồn cung cấp gỗ mà còn có các chức nǎng xã hội và sinh thái rộng lớn. Diện tích rừng giảm sút, diện tích đất trống, đồi trọc tǎng lên làm lũ lụt xảy ra nhiều hơn.
Tình trạng sa mạc hóa kéo theo nhiều hệ lụy khó lường. Ngoài ra, vấn đề ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm phóng xạ, bức xạ, sự mất ổn định về khí hậu... đều gây hại trực tiếp và lâu dài đến sức khỏe và di truyền của sinh vật, thực vật sống, trong đó có con người. Hậu quả sẽ thật khủng khiếp và khó lường. Những tổn thất về con người và vật chất do môi trường suy thoái gây ra đã và đang vượt quá tổn thất về người và của do các biến động xã hội và từ chiến tranh.
4. Ô nhiễm môi trường xảy ra ở quy mô rộng:
4.1 Vấn đề ô nhiễm đất.
Trên toàn thế giới đang có xu hướng tăng hiện tượng đất bị ô nhiễm, bởi: một là, do con người quá lạm dụng hoặc do tác động phụ của việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, chất diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng khác. Mỗi năm, trên thế giới có hàng nghìn hóa chất mới được đưa vào sử dụng trong khi con người vẫn chưa hiểu biết hết tác động phụ của chúng đối với hệ sinh vật. Hai là, không xử lý đúng kỹ thuật các chất thải công nghiệp và sinh hoạt khác của người và súc vật, hoặc các xác sinh vật chết gây ra... Ô nhiễm đất làm giảm năng suất và chất lượng cây trồng, hủy diệt sự sống một số sinh vật trong những khu vực ô nhiễm nặng, đồng thời còn đe dọa đến sức khỏe con người thông qua vật nuôi, cây trồng, thậm chí gây ra những biến dạng sinh thái và di truyền nặng nề cho hệ sinh sống.
4.2 Vấn đề ô nhiễm nguồn nước:
Sự ô nhiễm các nguồn nước đang có nguy cơ gia tăng do thiếu biện pháp xử lý cần thiết các loại rác thải sinh hoạt và công nghiệp; do các hóa chất dùng trong nông nghiệp và các nguồn nhiễm xạ, nhiễm bẩn từ các nguyên vật liệu khác dùng trong sản xuất; ô nhiễm do các loài thực vật nổi trên mặt nước sinh sôi mạnh làm động vật biển chết hàng loạt do thiếu ô xy. Một vài loài thực vật nổi còn có thể sinh ra độc tố nguy hiểm cho hệ động vật và cả con người; ô nhiễm do khai thác đáy biển lấy dầu khí và các loại khoáng sản quí hiếm khác; ô nhiễm còn do các chất thải trong thiên nhiên (ước tính mỗi năm có hơn 60 vạn tấn chất thải từ không trung rơi xuống nhất là chất hydro các bua từ khí quyển - gọi là mưa khí quyển).
* Trên thế giới
Hiện nay, có từ 40-50% lưu lượng ổn định của các dòng sông trên quả đất bị ô nhiễm. Độ ô nhiễm nguồn nước trên thế giới có thể tăng 10 lần trong vòng 25 năm tới. Bên cạnh đó, theo ước tính của giới khoa học thì, ước tính có khoảng 96,5% nước trên quả đất là nước mặn nằm trong các đại dương. Chỉ có 2,53% tổng lượng nước là nước ngọt có thể dùng được cho trồng trọt và sinh hoạt của con người. Thế nhưng nhu cầu tiêu dùng nước sạch ngày càng tăng nhanh do sự gia tăng dân số và yêu cầu phát triển sản xuất. Có thể nói, sau nguy cơ về dầu mỏ, loài người đã, đang và sẽ phải đối mặt với nguy cơ phổ biến là thiếu nguồn nước sạch cần thiết để duy trì và phát triển đời sống kinh tế - xã hội của mình.
Hiện nay, ước tính có trên 1/2 quốc gia và khu vực trên thế giới đang bị thiếu nước với các mức độ khác nhau, trong đó có khoảng 50 quốc gia thiếu nước nghiêm trọng. Có tới 80% bệnh tật liên quan trực tiếp do nguồn nước bị nhiễm bẩn, mỗi năm có 25 triệu trẻ em đã chết vì dùng nước không sạch.
(Thế giới Arập gặp thách thức lớn về nguồn nước)
* Tài nguyên nước Việt Nam và những thách thức trong tương lai
Tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất, nước biển. Nguồn nước mặt, thường được gọi là tài nguyên nước mặt, tồn tại thường xuyên hay không thường xuyên trong các thuỷ vực ở trên mặt đất như: sông ngòi, hồ tự nhiên, hồ chứa (hồ nhân tạo), đầm lầy, đồng ruộng và băng tuyết. Tài nguyên nước sông là thành phần chủ yếu và quan trọng nhất, được sử dụng rộng rãi trong đời sống và sản xuất. Do đó, tài nguyên nước nói chung và tài nguyên nước mặt nói riêng là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng lãnh thổ hay một quốc gia.
Tài nguyên nước mặt
Tài nguyên nước mặt (dòng chảy sông ngòi) của một vùng lãnh thổ hay một quốc gia là tổng của lượng dòng chảy sông ngòi từ ngoài vùng chảy vào và lượng dòng chảy được sinh ra trong vùng (dòng chảy nội địa). Tổng lượng dòng chảy sông ngòi trung bình hàng năm của nước ta bằng khoảng 847 km3, trong đó tổng lượng ngoài vùng chảy vào là 507 km3 chiếm 60% và dòng chảy nội địa là 340 km3, chiếm 40%.Nếu xét chung cho cả nước, thì tài nguyên nước mặt của nước ta tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới, trong khi đó diện tích đất liền nước ta chỉ chiếm khoảng 1,35% của thế giới. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng của tài nguyên nước mặt là những biến đổi mạnh mẽ theo thời gian (dao động giữa các năm và phân phối không đều trong năm) và còn phân bố rất không đều giữa các hệ thống sông và các vùng.
Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km3, chiếm tới 59% tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả nước, sau đó đến hệ thống sông Hồng 126,5 km3 (14,9%), hệ thống sông Đồng Nai 36,3 km3 (4,3%), sông Mã, Cả, Thu Bồn có tổng lượng dòng chảy xấp xỉ nhau, khoảng trên dưới 20 km3 (2,3 - 2,6%), các hệ thống sông Kỳ Cùng, Thái Bình và sông Ba cũng xấp xỉ nhau, khoảng 9 km3 (1%), các sông còn lại là 94,5 km3 (11,1%).
Một đặc điểm quan trọng nữa của tài nguyên nước sông của nước ta là phần lớn nước sông (khoảng 60%) lại được hình thành trên phần lưu vực nằm ở nước ngoài, trong đó hệ thống sông Mê Kông chiếm nhiều nhất (447 km3, 88%). Nếu chỉ xét thành phần lượng nước sông được hình thành trong lãnh thổ n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thách thức về môi trường và tài nguyên.doc