Đề án Một số giải pháp nhằm phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt trên địa bàn Hà nội

Hệ thống mạng lưới đường phố nội thành Hà nội đều là các tuyến đường nằm tại các khu phố cổ và các đô thị cũ. Do đó hầu hết các tuyến đường này đều nằm sâu trong thành phố và chỉ đảm nhiệm chức năng chính là phục vụ cho giao thông và vận tải trong thành phố. Các tuyến đường này thường tập trung mật độ giao thông rất cao và thường ở trong tình trạng quá tải, hiện trạng cơ sở hạ tầng cũng đã xuống cấp không đáp ứng nổi cho nhu cầu giao thông vận tải của Hà nội. Việc quy hoạch lại mạng lưới đường này thường gặp rất nhiều khó khăn do phải tiến hành giải phóng mặt bằng, đặc biệt là tại các khu phố cổ, các đô thị cũ. Do vậy phần lớn các tuyến đường này chủ yếu được nâng cấp bằng cách trải thảm lại mặt đường.

Một vấn đề khác nữa đối với mạng lưới đường nội thị là việc quy hoạch các tuyến đường này trước đây không được quan tâm và tiến hành đồng bộ vì vậy mà việc đào bới đường tại nhiều tuyến để lắp đặt hạ tầng kỹ thuật đô thị thường xuyên xảy ra mà không theo một quy hoạch cụ thể nào, thậm chí hiện tượng này còn diễn ra tại ngay một số các khu đô thị mới được xây dựng phát triển tại Hà nội. Nguyên nhân chính của vấn đề này cuối cùng vẫn chỉ là Hà Nội thiếu sự kết hợp một cách đồng bộ giữa quy hoạch phát triển đô thị với quy hoạch phát triển giao thông đô thị và kinh nghiệm tổ chức quản lý đô thị còn yếu kém.

 

doc53 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2233 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt trên địa bàn Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạy liên tục và 2 làn xe thô sơ ở 2 bên đường. Cùng với sự mở rộng các đường đô thị hướng tâm, thành phố đã mở rộng và xây dựng một số tuyến đường cấp thành phố trong khu vực nội thành nhằm tăng khả năng lưu thông trên các trục giao thông chính, dần tạo thành các tuyến đường “khung”. Đó là: tuyến Liễu Giai- Ngọc Khành với mặt cắt ngang rộng 50m, 6 làn xe chạy; tuyến Trần Khát Chân - Đại Cồ Việt - Kim Liên có mặt cắt ngang 50-54 m gồm 4 làn xe cơ giới và 4 làn xe thô sơ; tuyến Yên Phụ- đê Nhật Tân với mặt cắt ngang đảm bảo cho 4-6 làn xe; tuyến Kim Mã - Cầu Giấy với mặt cắt ngang rộng 33m với 6 làn xe; tuyến Hoàng Quốc Việt có mặt cắt ngang rộng 50 m với 6 làn xe cơ giới và dự trữ cho đường sắt nội đô. Nhìn chung hệ thống đường giao thông đô thị Hà nội trong nhiều năm qua đã được cải thiện đáng kể, nhiều tuyến đường được xây dựng mới và nâng cấp, cải tạo. Tuy nhiên tình trạng quá tải ở các mạng lưới đường giao thông còn thường xuyên xảy ra. Mạng lưới đường giao thông thành phố tuy có cấu trúc hợp lý bao gồm các loại đường hướng tâm, vành đai nhưng thiếu các đường chuyển tiếp, bề ngang hẹp, nhiều nút giao, chức năng lẫn lộn, chưa đạt được tiêu chuẩn quốc tế, không an toàn (thiếu cầu vượt, cầu chui, đường cho khách bộ hành qua đường, các nút chỉ giao cắt đồng mức, thiếu đèn tín hiệu). Chất lượng đường thì từ khá đến tốt chỉ có một vài đường phố có chất lượng kém. Bảng 1: Hiện trạng đường phố nội thành Hà nội Quận Ba Đình Hoàn Kiếm Đống Đa Tây Hồ Cầu Giấy Thanh Xuân Hai Bà Trưng Tổng số Diện tích (km²) 9,24 5,3 9,55 24 12,04 9,1 14,65 84,0 Dân số (người) 204600 177594 232134 69000 288023 117863 317570 1206964 Mật độ dân số (ngươì/ km²) 22508 39465 38883 3377 32472 12909 24442 19819 Tổng chiều dài đường phố (km) 59,6 61,4 43,3 18,67 69,74 30,8 59,6 343,1 Tổng diện tích đường phố (km²) 0,785 1,032 0,64 0,205 0,97 0,67 0,989 5,25 Mật độ đường phố (km/km²) 6,45 11,6 4,53 0,8 5,8 3,4 4,06 4,08 Tỷ lệ diện tích đường phố/tổng diện tích (%) 8,5 19,5 6,7 0,91 8,0 7,4 6,7 6,15 Mật độ đường 1,2 2,17 0,75 0,56 1,23 0,64 0,82 0,9 Nguồn: Quy hoạch hệ thống giao thông Hà nội đến năm 2020, nằm trong “Điều chỉnh quy hoạch chung Thủ đô Hà nội đến năm 2020” đã đợc thủ tướng CP phê duyệt. 2. Mạng lưới đường giao thông ngoại thành Mạng lưới đường ngoại thành Hà nội được phân chia theo các công ty chuyên quản lý các đường quốc lộ thuộc sự quản lý của cục đường bộ Việt Nam, đường tỉnh và thành phố do Sở GTCC quản lý; còn các đường huyện thuộc phòng quản lý giao thông quận, huyện. Mật độ đường khu vực ngoại thành Hà nội như sau: Bảng 2: Mật độ đường khu vực ngoại thành Huyện Tổng chiều dài (km) Dân số (người) Diện tích (km2) Mật độ (km/km2) Sóc Sơn 227 224.334 313,3 0,86 Đông Anh 171 236.099 184,2 0,83 Gia Lâm 151,97 295.610 157,7 0,67 Từ Liêm 114,54 242.748 109,7 0,66 Thanh Trì 105,3 201.657 95,7 0,76 Tổng vùng 769,81 1.230.448 878,6 0,74 Nguồn: Quy hoạch hệ thống giao thông Hà nội đến năm 2020, nằm trong Điều chỉnh quy hoạch chung Thủ đô Hà nội đến năm 2020 đã được thủ tướng CP phê duyệt. Nhìn chung mạng lưới đường khu vực ngoại thành ở trong tình trạng tồi, không thích hợp cho giao thông của các huyện. Tỷ lệ đường chưa được trải thảm trong mạng lưới đường ngoại thành chiếm tỷ lệ cao và có chất lượng tồi, đặc biệt là 3 huyện Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm. Mật độ đường giao thông trên diện tích huyện rất nhỏ phản ánh đúng thực trạng hiện nay là các mạng lưới giao thông đường bộ ở ngoại thành chưa được đầu tư phát triển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật hầu như không có. - Các phương tiện giao thông và cơ cấu các phương tiện tham gia giao thông + Các phương tiện tham gia giao thông Hà nội; Xe hai bánh. Xe máy: Theo kết quả điều tra từ thực tế các phương tiện tham gia giao thông trên địa bàn Thủ đô Hà nội trong những năm qua, phương tiện tham gia giao thông chủ yếu là phương tiện xe hai bánh: xe đạp và xe máy. Trong đó xe máy hiện là phương tiện phổ biến và được người dân thành phố ưa dùng bởi xe máy có ưu điểm là phương tiện cá nhân có tốc độ cao hơn xe buýt giúp người sử dụng cơ động, chủ động về thời gian và thuận tiện trong đi lại. Hiện nay, do đời sống của nhân dân được nâng cao, giá xe máy trên thị trường lại tương đối phù hợp với thu nhập của người dân, chỉ cần đầu tư khoảng từ 12 – 16 triệu đồng là người dân có thể sở hữu một chiếc xe. Hơn nữa do mạng lưới đường giao thông ở Hà nội lại phù hợp với xe máy nên số người dân sử dụng xe máy để đi lại chiếm tới 61% trong cơ cấu đi lại bằng các phương tiện giao thông của Hà nội. Xe đạp: số lượng xe đạp ở Hà nội có khoảng trên 1 triệu chiếc, mặc dù số lượng xe đạp hiện nay không tăng nhưng với số lượng xe hiện có thì Hà nội là nơi có số lượng xe rất lớn. Xe đạp kém xe máy ở tốc độ nhưng kinh tế do chi phí thấp trong cả đầu tư lẫn sử dụng, có thể đến bất cứ đâu trong thành phố. Ô tô con, taxi và xe buýt. Ô tô con: Là phương tiện cá nhân đối với những người có thu nhập cao. Theo số liệu thống kê thì hiện nay số lượng xe con đăng ký trên địa bàn Hà nội khoảng 24775 chiếc. Tuy nhiên số liệu này chưa phản ánh hết tình trạng sở hữu xe con ở Hà nội hiện nay, bởi số lượng xe con sở hữu của cá nhân và của các cơ quan, doanh nghiệp chưa được bóc tách. Taxi: là phương tiện vận tải hành khách công cộng đã được sử dụng vài năm nay. Tuy nhiên giá cứơc đi taxi còn khá cao so với thu nhập của người dân lên loại hình này ít thu hút được nhiều hành khách. Tháng 1/2002 Hà nội đã có 20 doanh nghiệp với 1219 xe tham gia hoạt động vận tải hành khách và đến tháng 5/2003 số doanh nghiệp đã tăng lên 29 đơn vị nâng số đầu xe taxi ở Hà nội lên 2050 xe. Xe buýt: là phương tiện vận tải hành khách công cộng đơn giản nhất, cơ động có thể thay đổi tuyến dễ dàng, tổ chức vận chuyển hành khách với khối lượng lớn, chi phí đầu tư ban đầu ít. Tuy nhiên khi động cơ hoạt động thường gây ồn và xả khí làm ô nhiễm môi trường. - Hiện trạng vận tải của Thủ đô Hà nội Từ kết quả các số liệu điều tra hiện trạng vận tải năm 2003 do Tổng công ty tư vấn thiết kế giao thông vận tải ( TEDI ) tiến hành cho thấy số chuyến đi trong 7 quận nội thành (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Cầu Giấy, Tây Hồ, Thanh Xuân) là 2852 nghìn lượt người, tương đương với 1041 triệu lượt người/năm. Số chuyến đi bình quân 1 người trong 7 quận nội thành một ngày là 2,25 lượt, trong đó các chuyến đi thường xuyên trung bình là 1,92 lần/ngày và các chuyến đi bất thường là 0,33 lần/ ngày. Cự ly các chuyến đi trung bình khoảng 4,34 km , không kể đi bộ. Đây là cự ly tương đối ngắn phù hợp với các loại phương tiện giao thông hai bánh. Điều này giải thích được vì sao các phương tiện giao thông cá nhân: xe máy, được người dân Hà nội sử dụng phổ biến - Cơ sơ hạ tầng đô thị Về cơ sở hạ tầng phục vụ giao thông vận tải đô thị, trong những năm qua cùng với việc đầu tư phát triển mạng lưới đương đô thị thì cơ sở hạ tầng giao thông cũng đã được đầu tư đáng kể; Các tuyến đường trục chính trong nội thành đều được trải thảm lại mặt đường và có chất lượng mặt đường tương đối tốt, hệ thống chiếu sáng đô thị đã được lắp đặt hầu hết trên các tuyến đường. Tại một số nút giao thông quan trọng thành phố đã xây dựng cầu vượt như nút giao thông cầu Long Biên; cầu vượt Chương Dương, cầu vượt nút giao thông ngã tư Vọng; tổ chức phân luồng đi lại tại nút giao thông: Giải Phóng- Đại Cồ Việt-Lê Duẩn-Kim Liên... do đó mà tình trạng ùn tắc giao thông tại những nút giao thông này giảm đáng kể, tạo điều kiện thông đường cho các phương tiện lưu hành. Tuy nhiên, tình trạng đào bới đường phố để lắp đặt hạ tầng kỹ thuật đô thị vẫn còn tồn tại thể hiện mặt yếu kém trong khâu tổ chức và xây dựng hạ tầng đô thị. Điều này đã làm hạn chế tốc độ lưu thông trên đường và là một trong những nguyên nhân gây ra ùn tắc giao thông. Dải cây xanh của thành phố hai bên đường được giao cho công ty công viên cây xanh chịu trách nhiệm quản lý. Hiện nay Hà nội được coi là thành phố có mật độ cây xanh khá lý tưởng, đảm bảo sự thông thoáng cho môi trường Hà nội. Hệ thống thoát nước của Hà nội mặc dù được giao cho công ty môi trường đô thị quản lý nhưng do đã xuống cấp nên thường xảy ra ngập úng mỗi khi mùa mưa đến. Các điểm bến, bãi đỗ xe ở Hà nội hiện nay vẫn chưa được quy hoạch, các bễn, bãi đỗ xe mới chỉ hình thành một cách tạm thời và số lượng thì chưa đáp ứng được nhu cầu. Nguyên nhân chính là quỹ đất giành cho giao thông tĩnh ở Hà nội quá ít so với tiêu chuẩn giao thông đô thị. 2. Đánh giá quy hoạch phát triển giao thông đô thị trên địa bàn Hà nội Thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải của Hà nội đến năm 2020 đã được thủ tướng CP phê duyệt, trong khoảng 7 năm qua; Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội cùng các sở ban, ngành của thành phố đã từng bước thực hiện các dự án nhằm phát triển giao thông vận tải của Thủ đô theo quy hoạch đã được duyệt. a. Quy hoạch chung Thủ đô Hà nội Theo quy hoạch chung của Thủ đô Hà nội đến năm 2020 thì định hướng quy hoạch không gian của Thủ đô Hà nội sẽ bao gồm thành phố trung tâm là Hà nội và các đô thị vệ tinh xung quanh và các cụm đô thị đối trọng thuộc các tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hưng Yên với bán kính ảnh hưởng là 30- 50 km. Hướng phát triển lâu dài của thành phố Hà nội chủ yếu về phía Tây, hình thành chuỗi đô thị Miếu Môn- Xuân Mai- Hoà Lạc- Sơn Tây; phía Bắc là cụm đô thị Sóc Sơn (thuộc thành phố Hà nội)- Xuân Hoà- Đại Lải- Phúc Yên và các đô thị khách nhằm khai thác lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, giao thông và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên trước mắt Hà nội đang mở rộng trung tâm thành phố về phía Tây Bắc; phía Tây Nam; và phía Bắc, trong đó ưu tiên cho đầu tư phát triển khu vực phía Bắc sông Hồng. Tại đây hình thành một khu đô thị mới bao gồm các khu vực Bắc Thăng Long- Vân Trì; Đông Anh- Cổ Loa; Gia Lâm- Sài Đồng- Yên Viên và tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư tại khu vực Nam Thăng Long. Theo số liệu dự báo về quy mô dân số các khu vực đô thị của Hà nội đến năm 2020 thì thấy rằng quy hoạch phát triển không gian Hà nội đã đưa ra hướng phát triển đúng đắn và khoa học. Dân số tại thành phố trung tâm Hà nội vẫn sẽ tăng nhưng tốc độ tăng chậm và số dân giao động trong khoảng 2,5 triệu dân, thay vào đó dân số tại các cụm đô thị đối trọng và đô thị vệ tinh tăng nhanh chóng và giao động trong khoảng từ 2- 2,5 triệu dân. Bảng 3: Quy mô dân số các khu vực đô thị của thành phố Hà nội Đơn vị: 1000 người. TT Các khu vực đô thị Hiện trạng Dự báo Năm 2005 Năm 2020 A Thành phố trung tâm 1.312 1.725 2.500 B Cụm đô thị đối trọng 85,0 390 1.500 1 Miếu môn- Xuân Mai- Hoà Lạc- Sơn Tây 54,0 280 1000 2 Sóc Sơn- Xuân Hoà- Đại Lải- Phúc Yên 31,0 110 500 C Các đô thị vệ tinh 294,0 350 500 Nguồn: Điều chỉnh quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 b. Quy hoạch giao thông đường bộ - Hệ thống giao thông đối ngoại Cùng với việc triển khai xây dựng các khu đô thị mới xung quanh thành phố trung tâm Hà nội thì hệ thống giao thông nối liền trung tâm thành phố với các đô thị này cũng đang được triển khai xây dựng. Hiện nay, Hà nội đang tiếp tục hoàn thiện 3 trục tuyến đường bộ để liên thông với cụm đô thị phía Tây Miếu môn- Xuân Mai- Hoà Lạc- Sơn Tây là: trục đường Láng Hòa Lạc, được quy hoạch là tuyến đường cao tốc; tuyến đường quốc lộ 32 và tuyến đường quốc lộ 6, trong đó tuyến quốc lộ 32 hiện đang được nâng cấp và mở rộng mặt đường. Đối với cụm đô thị phía Bắc: Sóc Sơn- Xuân Hoà- Đại Lải- Phúc Yên được liên kết với thành phố trung tâm bằng các tuyến quốc lộ 3, quốc lộ 2- đường Bắc Thăng Long- Nội Bài. Tuyến quốc lộ 1A đoạn qua trung tâm Hà nội tại tuyến Cầu Giẽ- Pháp Vân ( ở phía Nam ) và tuyến Bắc Giang- Cầu Đuống mới ( ở phía Bắc ) đã được nâng cấp, hiện tại tình trạng ách tắc giao thông tại các tuyến này không còn tồn tại. Về hệ thống đường vành đai: Theo quy hoạch phát triển giao thông vận tải Thủ đô Hà nội đến năm 2020 thì Hà nội sẽ có 4 tuyến vành đai chính, hiện nay thành phố đã hình thành được 3 tuyến vành đai xung quanh thành phố Hà nội là các tuyến vành đai I; vành đai II và vành đai III + Tuyến vành đai I: hiện chủ yếu đóng vai trò là tuyến đường phố chính do nằm sâu trong trung tâm thành phố. Một số đoạn đường của tuyến này đã được mở rộng với bề rộng từ 50 – 54 m như đoạn Đại Cồ Việt- Trần Khát Chân- Kim Liên. Theo quy hoạch phát triển giao thông vận tải của Thủ đô Hà nội thì tuyến vành đai I sẽ được chuyển đổi thành trục Đông Tây của thành phố và trục dọc theo đê Hữu Hồng. + Tuyến vành đai II: hiện tại đã cơ bản hoàn thành các đoạn tuyến phía Nam sông Hồng và đang đảm nhiệm là tuyến vành đai chính của Thủ đô. Tuy nhiên do tốc độ đô thị hoá của Hà nội nói chung và các khu vực xunh quanh tuyến vành đai này nên trên thực tế tuyến vành đai này đồng thời phải đảm nhiệm 2 chức năng là tuyến vành đai chính và tuyến giao thông đô thị. + Tuyến vành đai III: hiện nay mới bước đầu hình thành một số đoạn: từ sân bay Nội Bài- Cầu Thăng Long- đường 32 với chiều dài khoảng 17 km, bề rộng mặt cắt ngang đường từ 23- 24m và đảm nhiệm vai trò là tuyến chính nối trung tâm Hà nội với sân bay Nội Bài và nối với các tỉnh phía Tây và Tây Bắc. + Tuyến vành đai IV: sẽ bắt đầu từ Yên Sở- Văn Điển- Hà Đông- Cầu Thượng Cát- đường 18 ( mới ). Hiện nay tuyến này chưa được hình thành và mới chỉ nằm trong quy hoạch, tuy nhiên theo quy hoạch thì tuyến này sẽ có tổng chiều dài là 46,7 km với 4- 6 làn xe cơ giới. - Hệ thống giao thông nội thị Hệ thống mạng lưới đường phố nội thành Hà nội đều là các tuyến đường nằm tại các khu phố cổ và các đô thị cũ. Do đó hầu hết các tuyến đường này đều nằm sâu trong thành phố và chỉ đảm nhiệm chức năng chính là phục vụ cho giao thông và vận tải trong thành phố. Các tuyến đường này thường tập trung mật độ giao thông rất cao và thường ở trong tình trạng quá tải, hiện trạng cơ sở hạ tầng cũng đã xuống cấp không đáp ứng nổi cho nhu cầu giao thông vận tải của Hà nội. Việc quy hoạch lại mạng lưới đường này thường gặp rất nhiều khó khăn do phải tiến hành giải phóng mặt bằng, đặc biệt là tại các khu phố cổ, các đô thị cũ. Do vậy phần lớn các tuyến đường này chủ yếu được nâng cấp bằng cách trải thảm lại mặt đường. Một vấn đề khác nữa đối với mạng lưới đường nội thị là việc quy hoạch các tuyến đường này trước đây không được quan tâm và tiến hành đồng bộ vì vậy mà việc đào bới đường tại nhiều tuyến để lắp đặt hạ tầng kỹ thuật đô thị thường xuyên xảy ra mà không theo một quy hoạch cụ thể nào, thậm chí hiện tượng này còn diễn ra tại ngay một số các khu đô thị mới được xây dựng phát triển tại Hà nội. Nguyên nhân chính của vấn đề này cuối cùng vẫn chỉ là Hà Nội thiếu sự kết hợp một cách đồng bộ giữa quy hoạch phát triển đô thị với quy hoạch phát triển giao thông đô thị và kinh nghiệm tổ chức quản lý đô thị còn yếu kém. c. Quy hoạch các điểm, bến bãi đỗ xe Từ năm 1996, UBND thành phố Hà nội đã phê duyệt quy hoạch tạm thời các điểm đỗ xe công cộng chủ yếu sử dụng tạm thời hè đường phố, phần lớn các điểm đỗ xe này tập trung tại khu vực trung tâm thành phố. Gần đây thành phố cũng đã cho xây dựng một số bãi đỗ xe tập trung như: Ngọc Khánh, Gia Thụy, Dịch Vọng và đã đưa vào khai thác điểm đỗ xe Đền Lừ và đang tiếp tục triển khai bãi đỗ xe tải theo 5 chợ đầu mối, tuy nhiên số lượng các bãi đỗ xe này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cần bãi đỗ xe cho số lượng xe ngày càng tăng ở Hà nội. Trong thời gian qua, việc xây dựng điểm đỗ xe, bễn bãi đỗ xe gặp rất nhiều khó khăn, tại khu vực có nhu cầu lớn thì không có quỹ đất và giải pháp đưa ra là bố trí tạm thời để đáp ứng nhu cầu trước mắt. Chính vì vậy mà thành phố Hà nội đang triển khai các bãi đỗ xe đầu mối theo hệ thống chợ đầu mối nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu. Sự hạn chế này vẫn chủ yếu là do thiếu quy hoạch tổng thể và chi tiết về mạng lưới các điểm đỗ xe và bến bãi đỗ xe trên địa bàn Hà nội. Việc quy hoạch các điểm đầu- cuối và các điểm trung chuyển hành khách phục vụ cho hoạt động vận tải hành khách công cộng cũng chưa có quy hoạch cụ thể mà mới chỉ tạm thời theo từng khu vực. Các điểm dừng đón trả hành khách thường được đặt trên phần lòng đường, vỉa hè hoặc đất lưu thông của thành phố và hầu hết là các điểm này không có cơ sở vật chất kỹ thuật nào đáng kể. II. THỰC TRẠNG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH CÔNG CỘNG NÓI CHUNG VÀ XE BUÝT NÓI RIÊNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI. 1.Thực trạng vận tải hành khách công cộng ở Hà Nội Hệ thống vận tải hành khách công cộng ( VTHKCC ) ở Hà nội trước đây gồm: Tàu điện ( Tramway ); xe điện bánh hơi ( Trolleybus) và xe buýt. Tàu điện ở Hà nội có 4 tuyến với tổng chiều dài 31,5 km bao gồm: Bờ Hồ - Hà Đông; Bờ Hồ - Câu Giấy; Yên Phụ - Vọng; Bưởi - Mơ. Đến năm 1988, phương tiện vận tải giao thông cá nhân ở Hà nội tăng lên khá nhanh, các tuyến phố có bố trí tàu điện đi chung với các phương tiện giao thông đường bộ đều nhỏ hẹp đã bắt đầu gây ách tắc, hơn nữa các tuyến tàu điện chỉ là đường đơn nên trong quá trình khai thác có nhiều bất cập, vì vậy đến năm 1990 chúng bị dỡ bỏ hoàn toàn. Thay vào đó là chạy thử Trolleybus trên 2 tuyến: Bờ Hồ - Hà Đông; Bờ Hồ - Mơ, nhưng đến cuối năm 1993 thì các tuyến này cũng ngừng hoạt động. Riêng các tuyến xe buýt vẫn duy trì hoạt động cho đến ngày nay. Những năm gần đây, vận tải hành khách công cộng ở Hà Nội với phương tiện duy nhất là xe buýt đã được quan tâm đầu tư đáng kể. Tuy nhiên, do nhu cầu sử dụng xe buýt tăng quá nhanh, nên xe buýt luôn trong tình trạng quá tải. Theo dự kiến, đến năm 2010, nhu cầu đi lại của người dân bằng phương tiện VTHKCC sẽ tăng đến 30%. Lúc đó, xe buýt thông thường khó có thể đáp ứng dù có tăng số lượng xe. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ , các ngành chức năng của thành phố Hà Nội đã từng bước triển khai các dự án xây dựng các loại hình VTHKCC khác có công suất vận chuyển lớn như xe điện, tàu điện và tàu hoả chạy trên đường sắt đô thị. a. Tuyến xe điện Nhổn - Bác Cổ Tuyến xe điện đầu tiên được UBND thành phố Hà Nội chọn xây dựng thí điểm là tuyến Nhổn-Bác Cổ. Theo công ty tư vấn thiết Kế SYSTRA(pháp), tuyến có chiều dài 15,07 km, bắt đầu từ Nhổn, đi theo đường Hồ Tùng Mậu, qua đường vành đai 3, đi theo đường Xuân Thuỷ tới Cầu Giấy. Sau đó đi tiếp theo đường Ngọc Khánh-Kim Mã rồi rẽ phải theo đường Giang Văn Minh qua Giảng Võ vào Cát Linh. Đoạn này xe điện đi nổi trên mặt đất. Từ Văn Miếu, xe đi ngầm dưới mặt đất qua ga Hà Nội đến phố Trần Hưng Đạo. Đoạn đi ngầm này dài 1,5km với hai bến đỗ dưới lòng đất. Khi lên mặt đất, xe điện đi hết đường Trần Hưng Đạo đến trước cửa bệnh viện 108 thì rẽ sang trái đường Trần Khánh dư. Xe điện có năng lực vận chuyển 9000 hành khách/giờ/chiều, tần suất hoạt động khá nhanh, khoảng 4 phút/chuyến với giá vé là 1300 đồng/người/lượt. Chi phí cho dự án ước tính 310 triệu Euro, tức khoảng 5.860 tỷ đồng. Dự án khởi công vào đầu năm 2005, hoàn thành vào năm 2008. b.Tuyến tàu điện trên cao Hà Nội - Hà Đông Cũng được khởi công vào năm 2005, tuyến tàu điện trên cao Hà Nội-Hà Đông dài 12,5km.Xuất phát từ ga đầu tiên đặt tại khu vực giao cắt giữa phố Cát Linh và phố Giảng Võ, tàu điện chạy dọc theo đường Hào Nam đến đường Láng thì rẽ trái bên bờ sông Tô Lịch đến Ngã Tư Sở rồi đi theo đường Nguyễn Trãi, Trần Phú, Quang Trung, Trần Đăng(thị xã Hà Đông).Sau khi đi qua tuyến đường vành đai phía nam đường sắt Hà Đông, tàu sẽ chuyển hướng đông nam, chạy song song với đường sắt. Tàu điện trên cao nằm cách mặt đất 4,5m, trên tuyến có 12 nhà ga, các nhà ga cách nhau trung bình 1km. Các mẫu thiết kế do chuyên gia đường sắt Trung Quốc đưa ra là nhà ga hai tầng, trong đó phòng chờ ở tầng 1, nhà ga ở tầng 2. Đặc biệt, vé đi đi tàu được bán tự động bằng hệ thống thẻ từ. Toa tàu điện dài 19m, rộng 2,8m, có thể chuyên chở từ 7000 đến 9000 người/giờ, với vận tốc trung bình 40km/giờ. Dự kiến tàu điện trên cao sẽ được đưa vào sử dụng vào cuối năm 2008. 2. Thực trạng vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội Vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà nội được hình thành từ những năm 1960, với 28 chuyến trong nội thành và 10 chuyến vé tháng chuyên trách. Đến năm 2001, Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội ra quyết định thành lập công ty vận tải và dịch vụ công cộng Hà nội trên cơ sở hợp nhất 4 công ty: - Công ty xe buýt Hà nội - Công ty vận tải hành khách phía Nam Hà nội - Công ty xe du lịch Hà nội - Công ty xe điện Hà nội Sự ra đời của Công ty vận tải và dịch vụ công cộng Hà nội đã góp phần đáng kể vào sự phát triển vận tải hành khách công cộng trên địa bàn Hà nội trong thời gian qua. a. Hiện trạng mạng lưới tuyến xe buýt ở Hà nội - Về mạng lưới tuyến xe buýt công cộng: Đến năm 2004, mạng lưới tuyến xe buýt ở Hà Nội có 42 tuyến, bình quân trên mỗi tuyến có khoảng 7- 8 xe hoạt động, vào giờ cao điểm trên các tuyến có lưu lượng đi lại lớn thì số xe có thể tăng lên từ 10-12 xe. Lộ trình của các tuyến xe: dạng tuyến đơn giản, chỉ có tuyến hướng tâm, xuyên tâm và các tuyến bất quy tắc, không tạo lập các tuyến vành đai, các tuyến hỗ trợ, để kết nối các tuyến trục hướng tâm, xuyên tâm cũng như kết nối các điểm phát sinh thu hút hành khách chủ yếu. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến mạng lưới tuyến xe buýt của Hà Nội không liên thông. - Hành trình chạy xe: Mới chỉ áp dụng một loại hành trình chạy suốt(từ bến đầu đến bến cuối). Hình thức chạy xe như vậy tuy có thuận lợi với công tác tổ chức và điều độ xe hoạt động trên tuyến nhưng hiệu quả không cao. - Khoảng cách chạy xe trên tuyến: Trong toàn mạng lưới nhìn chung còn dài, nhịp điệu vận hành chưa thực sự phù hợp với quy luật biến động của luồng hành khách. Trung bình thời gian cho mỗi tuyến xe buýt trên toàn mạng là 35-40 phút. Thời gian chờ xe giữa 2 tuyến trung bình là 15 phút đối với khu vực xa trung tâm thành phố và 10 phút trong trung tâm thành phố. Hiện có 8 tuyến xe buýt đang vận hành chạy xe đều đặn 10 phút/chuyến và 22 tuyến vận hành với tần suất 10 phút/chuyến/giờ và 11 tuyến 15 phút/chuyến trong giờ cao điểm. -Vùng phục vụ của mạng lưới tuyến: Nhìn chung vùng phục vụ của mạng lưới tuyến còn nhiều hạn chế, số lượng đường phố và số km đường phố còn ít, mặc dù số lượng tuyến nhiều nhưng do sự trùng lặp quá cao tại một số trục chính. Trong khi đó, đặc biệt là một số điểm phát sinh thu hút lớn, các khu dân cư, đô thị mới vẫn chưa có xe buýt phục vụ. - Về chủng loại phương tiện: Bảng 4: Mác xe Sức chứa Số lượng Deawoo BS 150 80 96 Deawoo BS 090 60 104 Mercedes 60 10 Huyndai 24 38 Renault 80 50 Cộng 304 298 Nguồn: quy hoạch phát triển vận tải công cộng ở thủ đô Hà nội đến năm 2020 Số xe được đầu tư giai đoạn II năm 2003 bao gồm : Xe lớn mới (80 chỗ): 91 xe Xe TB mới (60 chỗ):172 xe Xe TB mới (45 chỗ): 50 xe Xe mini mới (24 chỗ):37 xe Hiện nay một số doanh nghiệp tư nhân đã trúng thầu về việc đưa xe buýt sử dụng nhằm phục vụ hành khách. b. Hiện trạng cơ sở hạ tầng mạng lưới tuyến xe buýt - Điểm dừng, nhà chờ trên tuyến: Hiện nay toàn mạng lưới xe buýt Hà Nội có 42 điểm đầu – cuối. Hầu hết các điểm đều có quy mô rất nhỏ. Ngoại trừ các điểm đặt ở bến xe Giáp Bát, Nam Thăng Long, Hà Đông là có khu vực riêng dành cho xe buýt, các điểm còn lại đặt trên phần lòng đường, vỉa hè hoặc đất lưu không của thành phố. Các điểm đầu - cuối hiện tại chỉ đơn thuần là nơi dừng đón trả khách của nhiều tuyến xe buýt gộp lại mà trên đó không có cơ sở vật chất đáng kể nào. Trên các tuyến xe buýt của Ha Nội có nhiều điểm dừng ngắn, có nhiều điểm cách nhau dưới 350m, đặc biệt có những điểm dừng chỉ cách nhau 150 – 200m. Điểm dừng xe buýt gần nhau có ưu điểm thu hút hành khách nhiều hơn nhưng sẽ làm hạn chế tốc độ của phương tiện trên tuyến. Trên toàn mạng lưới tuyến xe buýt, khoảng cách bình quân giữa các điểm dừng đỗ xe buýt là 782 m, nhìn chung còn dài so với quảng đường đi bộ bình quân của người Hà Nội - Vị trí điểm dừng đỗ: Còn bất hợp lý, việc bố trí điểm dừng quá xa các điểm nút giao thông là một trong những lý do quan trọng làm giản khả năng tiếp cận dịch vụ xe buýt đồng thời làm giảm độ an toàn cho hành khách. - Nhà chờ trên tuyến: Hiện nay phần lớn các điểm dừng xe buýt chưa có nhà chờ nhưng các nhà chờ đều có kích thước quá nhỏ và không đạt yêu cầu về kiến trúc và mỹ quan. Nguyên nhân chính gây nên tình trạng trên là phần vỉa hè bố trí điểm dừng xe đều rất nhỏ, cửu hàng, cửu hiệu nằm dọc hai bên phố rất dày, khi xây dựng nhà chờ thường vấp phải sự chống đối mạnh mẽ thừ phía nhà dân. Hơn nữa các nhà chờ sử dụng trên các tuyến xe buýt được thiết kế theo mục tiêu quảng cáo là chính, không hề quan tâm đến việc tạo sự hài hoà với khung cảnh đường phố và kiến trúc đô thị. Đa số nhà chờ phải được xây dựng tại những vị trí rất xa nơi tập trung dân cư, bất tiện khi sư dụng, khó khăn khi tiếp cận. c. Hệ thống giá vé và thời gian đi lại bình quân Trước đây cơ cấu giá vé áp dụng cho xe buýt Hà Nội là giá vé đồng hạng trên toàn mạng, một chuyến đi hành khách phải trả 2500 đồng không phụ thuộc vào cự ly đi lại. Hiện nay giá vé buýt không đồng nhất 2500 đồng/lượt như trước đây nữa mà điều chỉnh theo cự ly tuyến đường. Đối với chiều dài dưới 25 km sẽ xó giá 3000 đồng/lượt, từ 25 đến 30 km sẽ có giá 4000 đồng/lượt, trên 50

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp nhằm phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt trên địa bàn Hà nội.DOC
Tài liệu liên quan