Mục lục
Mở Đầu 1
Nội Dung 2
1.LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA LIỆU PHÁP TÂM LÝ NÓI CHUNG VÀ LIỆU PHÁP HÀNH VI NÓI RIÊNG 2
2. KHÁI NIỆM LIỆU PHÁP TÂM LÝ 5
3. LÝ THUYẾT NỀN TẢNG CỦA LIỆU PHÁP HÀNH VI . .6
4.MỘT SỐ VẤN ĐỀ THUỘC TRỊ LIỆU TÂM LÝ HÀNH VI 10
5. CÁC KĨ THUẬT SỬ DỤNG TRONG LIỆU PHÁP TÂM LÝ HÀNH V12
6. ĐÁNH GIÁ LIỆU PHÁP HÀNH VI TRONG TRỊ LIỆU TÂM LÝ 21
KẾT LUẬN 23
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8271 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Liệu pháp hành vi và ứng dụng trong trị liệu tâm lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất ổn của cá nhân, giúp cá nhân thích nghi tốt hơn với cuộc sống.
3. LÝ THUYẾT NỀN TẢNG CỦA LIỆU PHÁP HÀNH VI
Tâm lý học hành vi ra đời vào năm 1913 ở Mỹ từ một bài báo có tính chất cương lĩnh với tiêu đề “ Tâm lý học dưới con mắt Nhà hành vi”. Từ khi ra đời cho đến nay, Trường phái tâm lý học hnh vi vói những lý luận của mình đã có những đóng góp to lớn trong công tác nghiên cứu cũng như giúp đỡ những người gặp khó khăn tâm lý.
Những người có công đóng góp cho việc hình thành trị liệu hành vi là: Arnold Lazarus, Albert Bandura, Joseph Wolpe và Alan Kazdin. Khuynh hướng hành vi được phát triển trong những năm 50 và đầu những năm 60 như là sự cấp tiến thoát khỏi triển vọng của trị liệu phân tâm đang thịnh hành trước đó. Trị liệu hành vi có ba giai đoạn phát triển chính, đó là: 1) Giai đoạn khuynh hướng điều kiện hoá cổ điển; 2) Mô hình điều kiện hoá tạo tác; 3) Khuynh hướng nhận thức.
Nguồn gốc của liệu pháp hành vi nằm trong Thuyết điều kiện hoá kinh điển và Thuyết điều kiện hoá thao tác được phát triển vào nửa đầu thế kỷ 20 bởi Pavlov ([1927] 1960) và Skinner (1953).
3.1/.Điều kiện hoá kinh điển
Ban đầu, Pavlov đã phát hiện ra điều kiện hoá kinh điển dựa trên phản xạ tiết nước bọt của chó. Trong suốt thí nghiệm của mình, ông lưu ý rằng, đôi khi, con chó sẽ tiết nước bọt trước khi người ta đưa thức ăn cho nó, một phản xạ mà ông đặt tên là “sự tiết nước bọt tâm lý”. Qua tìm hiểu cơ chế của quá trình này, ông đã phát hiện ra cái mà ngày nay chúng ta gọi là Thuyết điều kiện hoá kinh điển. Pavlov cho rằng tiết nước bọt là một phản xạ bản năng đối với sự xuất hiện thức ăn, phản xạ này không cần học tập: phản xạ không điều kiện trước kích thích không điều kiện. Yếu tố mới lạ trong công việc của Pavlov là ông lưu ý rằng kích thích khác trội lên hiện diện vào lúc con vật có phản xạ không điều kiện, sau đó sẽ dẫn đến cùng một hành vi: kích thích trung gian ban đầu trở thành một kích thích có điều kiện và gây ra phản xạ có điều kiện, giống hệt phản xạ không điều kiện (Pha hưng phấn). Có thể phải cần đến một vài lần kết kết hợp thì sự liên kết giữa phản xạ trung gian và phản xạ không điều kiện mới hình thành. Việc của kích thích có điều kiện lặp lại khi kích thích không điều kiện vắng mặt sẽ làm giảm dần dần phản xạ không điều kiện, một quá trình mà người ta gọi là sự dập tắt. (Pha ức chế) Như muốn con chó không tiết nước dãi nữa khi nghe tiếng chuông hãy ngừng đưa thịt khi rung chuông, sau 1 vài lần, nó sẽ không tiết nước bọt nữa. Ứng dụng của kĩ thuật này vào trong việc điều trị những bệnh nhân bị chứng sợ hãi vô lý bằng một liệu pháp gọi là tiếp cận dần lo âu. (còn gọi là giải mẫn cảm). Chẳng hạn 1 nhà trị liệu sử dụng cách liên tục đặt đối tượng trước kích thích hay vật thể họ sợ hãi, bắt đầu bằng các sự kiện ít sợ nhất rồi chuyển sang những sự kiện hay những kích thích đáng sợ hơn. Để dần dần chủ thể tự nhận ra tình huống đó không có gì đáng sợ, lúc đó sự sợ hãi sẽ bị dập tắt.
Điều kiện ảnh hưởng đến phản ứng cảm xúc cũng như hành vi, những quá trình nói trên với các rối loạn cảm xúc có một mối liên quan. Cách lý giải của trường phái Hành vi về hiện tượng ám ảnh sợ giả định rằng nó xuất phát từ một trải nghiệm được điều kiện hoá, trong đó cá nhân sợ hãi một cách không thích hợp một vật nào đó hoặc một tình huống nào đó, điều này có liên quan đến trải nghiệm sợ hãi hoặc lo lắng ở một thời điểm nào đó trong quá khứ. Tiếp theo, kích thích có điều kiện sẽ gây ra phản xạ sợ hãi có điều kiện. Nếu cá nhân trải qua nỗi sợ hãi sâu sắc, quá trình điều kiện hoá có thể mạnh mẽ đến mức chỉ cần một kinh nghiệm được điều kiện hoá cũng có thể dẫn đến nỗi sợ hãi lâu dài khó mà dập tắt được. Phản xạ này bao gồm 3 yếu tố: Lẩn tránh hoặc chạy trốn vật gây sợ hãi; Tình trạng khuấy động sinh lý cao độ rõ rệt với một loạt những triệu chứng khác nhau như căng thẳng về mặt thể chất, phản xạ giật mình tăng lên, rùng mình hay đổ mồ hôi; Cảm xúc lo lắng và sợ hãi.
Sau một thời gian bị dập tắt, đáp ứng có điều kiện có thể tự nhiên hồi phục trở lại (pha hồi phục tự nhiên) nếu lại có kích thích có điều kiện thì đáp ứng cú điều kiện cú thể xuất hiện lại ớt nhiều. Pavlov đó khỏm phỏ ra sự thật này khi ụng nghiờn cứu lại ở con chú đó cú phản xạ cú điều kiện tiết nước bọt với tiếng chuụng trước đây nay đã bị dập tắt. Ông lại tiến hành gõ chuông và con chó lại tiết nước bọt trở lại. Chúng ta cũng thấy điều này tương tự trong khi quan sát những người nghiện ma túy đang cố gắng cắt cơn. Ngay cả khi họ đã được điều trị, nhưng nếu được tiếp xúc với những loại chất bột trắng hoặc những ống hút, ống tiêm (những cái có liên kết chặt chẽ với ma túy) thì đột nhiên họ bị thôi thúc phải dùng ma túy mặc dù đã cắt cơn được 1 thời gian dài. Điều này cũng thường xảy ra với những trường hợp bệnh nhân có những biểu hiện rối loạn lo âu, sau 1 thời gian triệu chứng giảm nhưng bệnh nhân dễ dàng xuất hiện những triệu chứng khác khi có những kích thích tương tự gần giống với lo âu. Chính điều này đã làm các bậc cha mẹ nhiều khi chán nản mà bỏ cuộc giữa chừng.
3.2.Điều kiện hoá thao tác
Trái ngược với hành vi phản xạ liên quan đến điều kiện hoá kinh điển, điều kiện hoá thao tác đã đi đến chỗ giải thích rằng hành vi là chủ động và có mục đích. Theo tiền đề cơ bản của Skinner, hành vi nếu được củng cố sẽ tăng lên về tần suất hay được lặp đi lặp lại; còn nếu không được củng cố hay bị trừng phạt thì sẽ giảm tần suất hoặc không lặp lại nữa. Định nghĩa của ông về “cái củng cố” (reinforcer) cũng rất “hành vi”: đó là cái mà người ta quan sát thấy rằng nó làm tăng tần suất hay cường độ của một hành vi. Ông không đưa ra giả thuyết nào về các quá trình trung gian bên trong như sự yêu thích, sự thoả mãn hay hứng thú.
Skinner phân biệt giữa 2 loại củng cố: củng cố bậc một (primary reinforcer), như thức ăn và nước, những nhu cầu bẩm sinh của con người, và củng cố bậc hai, những củng cố liên hệ với củng cố bậc một thông qua quá trình điều kiện hoá kinh điển phức tạp. Theo cách này, chính thuộc tính của những củng cố như chú ý và tương tác xã hội cũng được củng cố. (VD:được tiền, có thể mua đồ ăn) – tiền cỏch củng cố bậc hai.
Quá trình thao tác hàm chứa sự phát triển của rất nhiều rối loạn tâm thần. Lewinsohn và cộng sự, vào năm 1979 cho rằng trầm cảm là hậu quả của việc một cá nhân bị tách ra khỏi hệ thống tán thưởng mà trước đó họ thuộc về. Ngược lại, Seligman (1975) cho rằng trầm cảm bắt nguồn từ thất bại trong việc trốn tránh kích thích tiêu cực của môi trường. Lý luận của ông xuất phát từ một serie những nghiên cứu mà trong đó người ta áp dụng sốc điện đối với động vật, chúng có thể tránh hoặc là không tránh những sốc điện này. Những con vật có thể tránh được sốc điện có vẻ không trải qua một tác dụng xấu nào. Còn những con không thể tránh sốc điện biểu hiện cái mà Seligman gọi là “sự tuyệt vọng được tập nhiễm”. Chúng trở nên thờ ơ và thậm chí khi được đưa vào những điều kiện có thể tránh được sốc điện, chúng cũng không có một cố gắng nào để tránh. Người ta xem điều này là tương tự với một số nguyên nhân gây trầm cảm.
3.3.Kết hợp điều kiện hoá kinh điển và điều kiện hoá thao tác
Mô hình điều kiện hoá kinh điển về ám ảnh sợ được xem xét cho đến nay, đã mô tả đầy đủ quá trình tập nhiễm nỗi lo lắng và sợ hãi. Tuy nhiên, điều đó chưa đủ để giải thích tại sao chúng lại duy trì trong một thời gian dài, bởi vì biểu hiện lặp đi lặp lại đối với vật hoặc tình huống gây sợ hãi ngay cả khi không xuất hiện hậu quả xấu, lẽ ra đã có thể làm giảm sự lo hãi thông qua quá trình dập tắt. Lý thuyết hai yếu tố của Mowrer (1947) kết hợp cả quá trình điều kiện hoá kinh điển và điều kiện hoá thao tác để giải thích cho hiện tượng này. Ông lưu ý rằng một khi phản xạ ám ảnh sợ được thành lập thông qua quá trình điều kiện hoá kinh điển, cá nhân bị ảnh hưởng có xu hướng lẩn tránh những kích thích gây ra sự sợ hãi. Điều này dẫn đến 2 hậu quả. Thứ nhất, nó ngăn quá trình điều kiện hoá kinh điển sự dập tắt, vì cá nhân không trải nghiệm các kích thích có điều kiện dưới điều kiện an toàn. Thứ hai, bởi vì sự lẩn tránh, bản thân nó đã sản sinh ra những cảm giác được giải thoát (nó đang củng cố), phản xạ lẩn tránh được quá trình điều kiện hoá thao tác làm tăng cường độ. Theo cách này, nỗi lo hãi được bảo tồn một cách ngầm ẩn trong những khoảng thời gian dài
3.4.Thuyết học tập xã hội
Khi những ý kiến lý giải các hiện tượng lâm sàng trở nên rõ ràng, cùng lúc đó, nhiều nhà lý luận khác cũng đang bắt tay vào nghiên cứu vai trò của các quá trình nhận thức trong việc điều khiển hành vi. Một lý thuyết có sức thuyết phục được đưa ra vào thời kỳ này là thuyết học tập xã hội (Bandura 1977). Thuyết này cho rằng chúng ta có thể học các phản ứng sợ hãi mà không cần trực tiếp trải nghiệm vật gây sợ hãi. Thay vào đó, sự sợ hãi được học từ việc quan sát phản ứng của những người khác, thông qua một quá trình gọi là học gián tiếp (vicarious learning). Quan điểm này là một lý giải có tính nhận thức về hiện tượng ám ảnh sợ ngay cả khi cá nhân không gặp phải kích thích và hiện tượng ám ảnh sợ trong gia đình. Cũng bắt nguồn từ quan sát phản ứng của người khác đối với kích thích gây sợ hãi, Bandura giải thích dưới góc độ nhận thức về cơ chế trị liệu của giải mẫn cảm có hệ thống và tràn ngập: sợ hãi giảm là kết quả của việc cá nhân tin tưởng hơn vào khả năng họ có thể đương đầu với sự hiện diện của vật gây sợ hãi.
3.5.Quan niệm của trường phái hành vi về hành vi bất thường
- Cả hành vi bất thường và bình thường được xem như là một phản ứng trước một tập hợp kích thích, phản ứng đã được học tập qua kinh nghiệm trong quá khứ và hiện tại được điều khiển bởi những kích thích mà người ta phát hiện trong môi trường. Họ xem rối loạn tâm căn cũng xuất hiện theo cơ chế tập nhiễm nhưng không thích ứng và kéo dài, đáp ứng bệnh lý mang tính khái quát hóa những kích thích ban đầu (những sang chấn tâm lý). Những nhà hành vi này cũng khẳng định rằng những hành vi bệnh lý (ngoại trừ những hành vi được hình thành do nguyên nhân thực tổn) có thể nhận dạng và biến đổi được, mà cách tốt nhất là tập trung vào sự biến đổi hành vi hơn là nhằm vào sự thay đổi bất kỳ bệnh lý cơ bản nào
4.MỘT SỐ VẤN ĐỀ THUỘC TRỊ LIỆU TÂM LÝ HÀNH VI
4.1./ Mục đích của trị liệu
Mục đích tổng quát là loại bỏ những hành vi không thích ứng trong khách hàng và giúp khách hàng học được những khuôn mẫu hành vi có hiệu quả hơn. Trị liệu hành vi nhằm vào việc thay đổi những hành vi có vấn đề thông qua việc tiếp thu những kinh nghiệm. Tóm lại, khách hàng và nhà trị liệu phải cộng tác với nhau để vạch ra được các mục tiêu trị liệu được chắc chắn và khách quan. Để thực hiện được tốt mục tiêu, nhà trị liệu cần làm tốt những nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ của nhà trị liệu hành vi được thể hiện thông qua những công việc cần thiết phải làm trong quá trình trị liệu.
- Xây dựng mối quan hệ: Đây không chỉ là bước đầu tiên nhà trị liệu hành vi cần làm mà trong suốt quá trình nhiệm vụ chính của nhà trị liệu phải xây dựng được mối quan hệ lành mạnh với bệnh nhân. Từ việc xây dựng mối quan hệ hợp tác để bắt đầu khám phá những vấn đề trọng tâm mà bệnh nhân muốn chú ý.
- Nhận diện vấn đề và đặt mục tiêu: Nhà trị liệu cần phải đạt được những thông tin nền tảng đầy đủ về thân chủ. Nhà trị liệu cần phân biệt được giữa những điều kiện hiện tại đang duy trì hành vi rối nhiễu và những điều kiện có nguồn gốc nảy sinh trong quá khứ.
- Xác định các nguồn cung cấp những điều kiện duy trì hành vi rối nhiễu và xác định vai trò của các nhân tố.
+ Từ môi trường: Gồm tất cả những kích thích, ảnh hưởng bên ngoài lên hành vi của người bệnh. Theo quan điểm hành vi cổ điển thì chỉ có những kích thích từ bên ngoài này mới là điều kiện duy trì hành vi bệnh lý.
+ Từ cá nhân: Là sự nhận thức của người bệnh. Điều này chỉ có trong quan điểm của chủ nghĩa hành vi mới.
Theo A.Bandura, cha đẻ của lý thuyết học tập nhiễm xã hội, thì môi trường hành vi bên trong (nhận thức) và hành vi bên ngoài có ảnh hưởng chi phối lẫn nhau. Chúng ta có thể thay đổi hoặc tạo ra những nhân tố ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta, cái chính là ta phải hiểu cái gì đang ảnh hưởng, đang duy trì hành vi rối nhiễu và tìm cách kiểm soát nó.
- Lựa chọn các kỹ thuật và tiến hành trị liệu
4.2.Mối quan hệ trị liệu
Mặc dù tiếp cận trị liệu hành vi không coi mối quan hệ giữa khách hàng và nhà trị liệu đóng vai trò quan trọng, nhưng có được mối quan hệ trị liệu tốt thì được xem như là bước khởi đầu rất cần thiết để giúp quá trình trị liệu đạt được hiệu quả cao. Vai trò của nhà trị liệu chủ yếu là đưa ra được những bài học phù hợp để có được những hành động thay thế hợp lý và cho ra kết quả mà nhà trị liệu cho là chấp nhận được. Bệnh nhân cần tham gia quá trình trị liệu tích cực từ đầu đến cuối. Trong chương trình trị liệu hành vi thường được huấn luyện các kỹ năng để họ có thể biến quá trình trị liệu tại gia và biết tự đánh giá kết quả điều trị. Cách tiếp cận điều trị mang tính hướng tự hướng dẫn, tự kiểm soát này có hai điều lợi. Người bệnh biết cách giải quyết các vấn đề của họ để họ có thể đối phó với những vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai mà không cần sự có mặt của nhà trị liệu. Thân chủ được trang bị "công cụ" để thay đổi hành vi của họ thì họ cũng có thể tự duy trì sự thay đổi này và cảm thấy tự tin hơn.
4.3.Kỹ thuật và thủ tục
Thủ tục tiến hành trị liệu hành vi được chọn lựa và thiết kế để thích ứng với những yêu cầu khác thường, lạ kỳ của từng khách hàng. Bất cứ kỹ thuật nào mà cho thấy có tác dụng làm thay đổi hành vi thì có thể hợp nhất các kỹ thuật này lại thành một cấu trúc trị liệu. Điểm mạnh của tiếp cận trị liệu hành vi là nằm ở các kỹ thuật nhắm tới việc sản sinh ra sự thay đổi hành vi. Một số trong các kỹ năng đó là: phương pháp thư giãn, mất cảm giác có hệ thống (giải mẫn cảm có hệ thống), các kỹ thuật củng cố, mô hình hoá, huấn luyện khẳng định, kiểm sát bản thân và mô hình trị liệu đa dạng.
5. CÁC KĨ THUẬT SỬ DỤNG TRONG LIỆU PHÁP TÂM Lí HÀNH VI.
Trong khi liệu pháp phân tâm nhằm những nguyên nhân dược coi là tố bẩm thỡ liệu phỏp hành vi lai tập trung vào cỏc hành vi quan sỏt bờn ngoài. Liệu phỏp hành vi đó ỏp dụng những nguyờn tắc điều kiện hoá và củng cố để biến đổi những kiểu ứng xử không mong muốn có kết hợp với rỗi nhiễu tâm trí. Định hướng này loại bỏ mô hỡnh trị liệu bằng thuốc cựng mọi giả định cho rằng: “ Người bệnh” có chứng “ đau ốm” về mặt tâm trí được chữa khỏi bằng thuốc.
Những Nhà tõm lý hành vi khẳng định ràng những ứng xử bất thường do mắc phải giống như những ứng xử bỡnh thường- thông qua quá trỡnh tập nhiễm theo những nguyờn lý cơ bản của điều kiện hoá và tập nhiễm. Những nhà trị liệu này xác nhận rằng toàn bộ những ứng xử bệnh lý, loại trừ những ứng xử được hỡnh thành do căn nguyên thực tổn đều có thể hiểu đúng nhất và có thể sửa chữa bằng cách nhằm vào chính ứng xử chứ không phải nhằm vào việc làm thay đổi bất kỳ bệnh lý cơ bản nào.
Làm thay đổi hành vi được định nghĩa là “ nỗ lực ứng dụng tập nhiễm và những nguyờn lý tõm lý thực nghiệm khỏc vào việc làm gia tăng tần số những ứng xử rối nhiễu”. Những thuật ngữ liệu pháp ứng xử và làm thay đổi những ứng xử thường dùng thay thế cho nhau. Cả hai đều có nghĩa là vận dụng có hệ thống những nguyờn lý tập nhiễm vào việc làm gia tăng tần số những ứng xử mong muốn và làm giảm tần số những rối nhiễu. Liệu pháp hành vi được dùng để điều trị một loạt những ứng xử lệch lạc và những vấn đề nhân cách, gồm sợ hói, bị thỳc ộp, trầm nhược nghiện ngập, gõy gổ và hành vi phạm tội.
Liệu pháp hành vi dựa vào điều kiện hoá kinh điển (classical conditioning ), điều kiện hoá thao tác ( operant conditioning) hoặc kết hợp cả hai. Sự nảy sinh sợ hói vụ lý và những phản ứng cảm xỳc khụng mong muốn khỏc được xem như để theo dừi hệ phỏp của điều kiện hoá cổ điển. Việc điều trị nhằm thay đởi những phản ứng âm tính này áp dụng những nguyên tắc của phản ứng điều kiện hoá, thay thế một phản ứng mới vào một phản ứng không thoả đáng.Trong trị liệu tỡnh cờ hành vi được thay đổi bằng cách làm thay đổi hậu quả của chúng. Theo cách này, những nguyên lý điều kiện hoá thao tác được dùng để hoàn thiện việc điều trị bằng củng cố những hoạt động mong muốn hoặc làm giảm những thói quen không mong muốn.
5.1.Can thiệp dựa theo thuyết điều kiện hoá kinh điển
Phương pháp can thiệp này trước tiên được ứng dụng trong trị liệu các rối loạn lo âu, bao gồm ám ảnh sợ. Nó có các kỹ thuật là giải mẫn cảm có hệ thống và tràn ngập, chìm ngập. Mục tiêu ban đầu của cả hai kỹ thuật này là làm yếu đi và giải toả phản xạ sợ hãi đã được điều kiện hoá trước đó; mặt khác, điều kiện hoá những liên hệ cảm xúc ít có hại đối với vật gây sợ hãi trước đây.
5.1.1 Giải mẫn cảm có hệ thống (Sytemmatic Densitization)
Hệ thống thần kinh không thể thư giãn mà luôn bị kích thích hoặc lo âu tại cùng một thời điểm vì những qua trình không tương hợp này khác không thể hoạt hoá cùng lúc. Khái niệm đơn giản này là trọng tâm của thuyết ức chế tương hỗ do Josph Wolpe(1958) đưa ra, ông dùng nó để điều trị sợ hãi và ám sợ. Ông dạy cho bệnh nhân của mình cách giãn mềm cơ bắp, và sau đó dạy cho tưởng tượng bằng hình ảnh tình huống gây sợ của họ.
Họ tiến hành theo từng bậc thang một, sao cho chuyển từ liên tưởng khởi đầu xa xưa tới những hình ảnh trực tiếp của các tình huống gây sợ. Việc đối chiếu tâm lý những kích thích gây sợ trong trạng thái thư giãn và việc tiến hành trong tiến trình bậc thang kế tiếp là những kĩ thuật được hiểu như giải cảm ứng có hệ thống.
Điều trị bằng giải mẫn cảm có hệ thống liên quan đến ba bước chủ yếu. Thân chủ hiện diện kích gây lo hãi và sắp xép chúng trong thứ tự từ yếu đến mạnh.
Chẳng hạn mức lo hãi của một sinh viên về cuộc thi được trình bày thứ tự trong bảng 1 (Đặng Phương Kiệt – Cơ sở Tâm lý học ứng dụng, trang 706. Cần lưu ý rằng giải cảm ứng tiên lượng tức thì việc xem xét là cỏch thẳng hơn việc tự mình xem xét.Tiếp đến thân chủ dược hướng dẫn trong hệ thống thư giãn các cơ sâu một cách tuần tự. Luyện tập thư giãn đòi hỏi một số buổi trong đó thân chủ học cách phân biệt giữa cảm giác căng cơ với thư giãn và thả lỏng trương lực cơ để có thể đạt được chú ý thư giãn về thân thể và tâm trí.Cuối cùng qua trình hiện tại của giải cảm ứng bắt đầu : Thân chủ trong trạng thái thư giãn tưởng tượng một cách sinh động những kích thích gây lo hãi yếu nhất trong bậc thang. Nếu những kích thích này có thể được nhớ lại mà không gây khó chịu thì thân chủ tiếp tục tưởng tượng những kích thích mạnh hơn. Sau một số buổi, thân chủ có thể hình dung những hoàn cảnh khó chịu nhất trong bậc thang mà không gây lo hãi thậm chí những tình huống mà thân chủ có thể không đối diện lúc đầu (Lang & Lazovik,1963 ). Số lần nghiên cứu đánh giá đã chỉ ra rằng liệu pháp ứng xử này tiến hành một cách tốt đẹp với bệnh nhân ỏm sợ và tốt hơn bất kỳ phương pháp nào khác (Smith & Glass,1977 ). Giảm cảm ứng cũng cũng đã thành công khi điều trị một số rối loạn khác, như sợ hói tràn lan giai đoạn hoảng sợ, bất lực tình dục và lãnh cảm (Kazdin &Wilconxin,1976
Thứ bậc những kích thích gây lo hãi đối với một sinh viên làm test lo hãi
1. Trên đường đến trường Đại học vào ngày thi ( nhiều nhất )
2. Trong qua trình kiểm trả lời kiểm tra trên giấy
3. Đứng trước cánh cửa chưa mở của phòng thi.
4. Chờ phân phát những tờ giấy làm bài thi.
5. Tờ giấy làm bài thi đặt trước mặt
6. Buổi tối trước ngày thi
7. Một ngày trước ngày thi.
8. Hai ngày trước ngày thi.
9. Ba ngày trước ngày thi.
10. Bốn ngày trước ngày thi.
11. Năm ngày trước ngày thi.
12. Một tuần trước ngày thi.
13. Hai tuần trước ngày thi.
14. Một tháng trước ngày thi. ( Ýt nhÊt )
Giải mẫn cảm có hệ thống diễn ra như sau: Trong trạng thái thư giãn, nhà trị liệu đặt thân chủ nhiều lần vào một loạt các kích thích, ban đầu ở xa, sau đó gần lại dần với kích thích gây sợ hãi. ở đầu buổi trị liệu, cá nhân được hướng dẫn cách thư giãn nhờ sử dụng các bước thư giãn chuẩn. Cùng lúc đó, họ xây dựng một bậc thang các kích thích, những kích thích này từng bước một ngày càng giống với vật hoặc tình huống gây sợ hãi.
Buổi trị liệu được chia ra thành nhiều giai đoạn. ở mỗi giai đoạn, đầu tiên thân chủ thư giãn và sau đó được đặt vào một kích thích nằm trong bậc thang đã xây dựng trước đó, bắt đầu với kích thích xa nhất. Mỗi lần, họ chịu đựng kích thích cho đến khi cảm thấy hoàn toàn thư giãn. Quá trình này lặp lại vài lần cho đến khi kích thích không còn đem lại một phản xạ lo hãi, Sau đó, tiếp tục áp dụng những kích thích có cường độ cao hơn, lặp lại các bước như thế cho đến khi họ có thể đương đầu với sự hiện diện của vật hay tình huống gây sợ hãi. Người ta cho rằng cách thức này đạt được nhiều hiệu quả có điều kiện. Thứ nhất, chúng dập tắt phản xạ sợ hãi trước kích thích gây sợ hãi. Thứ hai, bằng cách thư giãn ngay cả khi có mặt kích thích gây sợ hãi, một quá trình điều kiện hoá ngược lại được thiết lập, quá trình này tập luyện cho cá nhân trạng thái thư giãn trước kích thích gây sợ hãi.
Ám ảnh sợ nhện của Ruth: một ví dụ về chương trình giải mẫn cảm có hệ thống (Bennett P (2003 ). Tõm lý học dị thường và tõm lý học Lõm sàng. Biờn dịch : PGS. TS Nguyễn Sinh Phỳc.)
Một cá nhân ám sợ nhện, khi nhìn thấy một con nhện, trở nên lo lắng và hốt hoảng, thường đòi mọi người phải mang con nhện đi chỗ khác. Nhưng với Ruth, vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều. Vào mùa đông, cô không hề sợ nhện vì cô biết rằng trong nhà không có nhện. Tuy nhiên, từ mùa xuân đến mùa mùa thu, cô sợ nhện tới nỗi không thể đi vào một căn phòng nào nếu trước đó không có người kiểm tra. Tương tự, nếu không có một thành viên trong gia đình kiểm tra trước, cô sẽ không đi vào đại sảnh hay đi lên cầu thang. Hậu quả là, cô ở lì tại một căn phòng trong nhà mình suốt mùa hè, trừ khi có ai đó trong nhà kiểm tra “độ an toàn” cho cô. Nếu nhìn thấy một con nhện, cô thở gấp và có các triệu chứng sợ hãi, có thể chạy càng xa càng tốt để tránh nó.
Ruth tham gia vào trị liệu giải mẫn cảm có hệ thống vào mùa xuân. Cô được hướng dẫn thư giãn bằng cách sử dụng những bước thư giãn sâu các cơ. Đồng thời, cô xây dựng bậc thang kích thích để sử dụng trong liệu pháp. Cô cũng quyết định mục tiêu mà cô muốn đạt được, đó là khi cô có thể đi vào căn phòng có nhện mà không quá sợ hãi và giết bất cứ con nhện nào mình phát hiện trong phòng. Bậc thang đầu tiên mà Ruth và nhà trị liệu của cô xây dựng bao gồm các kích thích sau:
Hình vẽ bút chì, trông giống như chân của con nhện
Hình bầu dục vẽ bằng bút chì, giống thân con nhện
Phác hoạ bút chì hình một con nhện
Bức ảnh một con nhện thật
Một con nhện chết nằm trong lọ
Một con nhện chết ở một cái bàn gần đó
Một con nhện sống nằm trong lọ
Một con nhện sống do nhà trị liệu cầm
Một con nhến sống, được thả tự do
Ruth đã thực hiện hết các bước này trong những buổi trị liệu hàng tuần. Mỗi lần, cô sử dụng kỹ thuật thư giãn và được đặt vào một kích thích tương ứng trong hệ thống. Cô chịu đựng kích thích cho đến cảm thấy hoàn toàn thư giãn và thanh thản. Kích thích được loại bỏ, rồi lại được đưa vào, quá trình lặp lại, cho đến khi có biểu hiện thật rõ ràng rằng cô đã hoàn toàn thư giãn và thoải mái đối với một kích thích và tự tin bước vào kích thích tiếp theo.
Một khi Ruth có thể thư giãn ngay cả khi một con nhện sống xuất hiện, cô bắt đầu bậc thang kích thích thứ 2:
Đi vào phòng, trong phòng có 1 con nhện bị nhốt
Đi vào phòng, có khả năng trong phòng có 1 con nhện không bị nhốt, chỉ đứng ở trước cửa
Đi vào phòng, mà cô biết chắc là trong phòng có 1 con nhện và giết nó bằng một vật nặng
Đi vào phòng, có khả năng trong phòng có 1 con nhện không bị nhốt, có thể ngồi trong phòng 1 vài phút
Không phải tất cả những người ám sợ nhện đều cần một chương trình trị liệu từng bước và kéo dài như vậy. Tuy nhiên, đây chỉ là một ví dụ về trị liệu bằng giải mẫn cảm có hệ thống.
5.1.2 Tràn ngập ( Implosion )
Giải mẫn cảm có hệ thống là một hướng tiếp cận có hiệu quả đối với ám ảnh sợ. Đây là một phương pháp khá dễ chịu, song mất tương đối nhiều thời gian. Tràn ngập lại là phương pháp hoàn toàn đối lập. Ở đó, thân chủ được đặt trực tiếp vào kích thích gây sợ hãi có cường độ lớn nhất và khuyến khích duy trì nó cho đến khi họ không còn thấy sợ nữa, quá trình này có thể chỉ tốn một giờ hoặc nhiều hơn chút ít. Liệu pháp dựa trên nguyên tắc tập luyện để làm quen (habituation). Chúng ta không thể duy trì phản xạ sợ hãi trong khoảng thời gian dài - Sự kiệt sức về thể chất sẽ làm giảm phản ứng sợ hãi, thậm chí ngay trong hoàn cảnh gây ra sợ hãi cao độ. Theo đó, mặc dù mức độ lo lắng hoặc sợ hãi ban đầu là hoàn toàn cao, nếu thân chủ duy trì được tình trạng sợ hãi đủ dài, mức độ sợ hãi của họ sẽ giảm xuống mực trung bình. Mức độ lo sợ thấp này, sau đó, liên hệ với kích thích gây sợ hãi trước đó. Để dập tắt hoàn toàn một số phản ứng sợ hãi, cần lặp đi lặp lại tràn ngập. Đây là một phương pháp trị liệu hiệu quả (Wolpe 1982). Tuy nhiên, nhiều nhà trị liệu lại ưa sử dụng phương pháp giải mẫn cảm hơn vì họ không muốn gây ra mức độ nguy hiểm cao ở thân chủ khi áp dụng tràn ngập. Ngay cả khi thân chủ thoát khỏi nguy hiểm trước khi sợ hãi bị dập tắt, nhà trị liệu vẫn e ngại rằng liệu pháp sẽ một lần nữa củng cố sự lẩn tránh các kích thích gây sợ hãi.
Vớ dụ, Bùi Hoàng Yến sinh viên Khoa Toán Tin - Trường Đại học Khoa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLH (0).doc