MỞ ĐẦU .1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN9
1.1. Tình hình nghiên cứu.9
1.1.1. Nghiên cứu tâm thức dân gian về các vị thánh thần .9
1.1.2. Các nghiên cứu về ba vị thánh và các di tích lễ hội liên quan.14
1.2. Cơ sở lý luận .21
1.2.1. Thần, thánh, thánh tổ trong hệ thống tín ngưỡng của người Việt.21
1.2.2. Tâm thức dân gian.23
1.2.3. Ma lực và tiểu sử linh thiêng.26
1.2.4. Lý thuyết vùng văn hóa.30
Chương 2: BỐI CẢNH HÌNH THÀNH TÂM THỨC DÂN GIAN VỀ BA VỊ
THÁNH Ở VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ .33
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế .33
2.1.1. Điều kiện tự nhiên.33
2.1.2. Điều kiện kinh tế .35
2.2. Điều kiện văn hoá xã hội.37
2.3. Sự hình thành của các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh.43
2.3.1. Bối cảnh chính trị, xã hội .43
2.3.2. Sự ra đời và phát triển chùa tiền Phật hậu Thánh .47
Chương 3: HÀNH TRẠNG CỦA BA VỊ THÁNH .54
3.1. Tiểu sử và công lao của ba vị thánh .54
3.1.1. Tiểu sử và công lao của thánh Từ Đạo Hạnh.54
3.1.2. Tiểu sử và công lao của thánh Nguyễn Minh Không .57
3.1.3. Tiểu sử và công lao của thánh Dương Không Lộ .59
3.1.4. Tiểu sử linh thiêng của ba vị thánh .61
3.2. Thiêng hóa và ma lực của ba vị thánh .64
3.2.1. Thiêng hóa ba vị thánh.64
3.2.2. Ma lực của ba vị thánh.69
190 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 514 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ba vị thánh trong các ngôi chùa tiền Phật hậu thánh và tâm thức dân gian ở vùng châu thổ Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i với số lượng 10/13 chùa. Nguyễn Minh Không được
thờ nhiều nhất ở tỉnh Nam Định với số lượng 12/16 chùa; và Dương Không Lộ được
thờ nhiều nhất ở tỉnh Nam Định với số lượng 8/10 chùa. Để thể hiện không gian thờ
các vị thánh, luận án lập bản đồ phân bổ các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh thờ ba vị
thánh ở các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình,
Thái Bình [Xem Phụ lục 3], và biểu đồ phân tích sự phân bố và mối quan hệ giữa các
không gian thờ ba vị thánh ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
74
- Đối tƣợng thờ cúng trong các ngôi chùa phân bố theo tỉnh
(Bảng tính % theo từng tỉnh)
Tỉnh Từ Đạo
Hạnh
Nguyễn
Minh
Không
Dƣơng
Không Lộ
Phối thờ 3
vị thánh
Tổng các
tỉnh
1 Nam Định 1
5%
12
55.0%
4
20.0%
4
20.0%
21
100.0%
2 Hưng Yên 1
50.0%
1
50.0%
0
0.0%
0
0.0%
2
100.0%
3 Hải Dương 0
0.0%
1
100.0%
0
0.0%
0
0.0%
1
100.0%
4 Thái Bình 2
50.0%
0
0.0%
2
50.0%
0
0.0%
4
100.0%
5 Tp. Hà Nội 10
90.9%
1
9.1%
0
0.0%
0
0.0%
11
100.0%
6 Ninh Bình 0
0.0%
1
100.0%
0
0.0%
0
0.0%
1
100.0%
- Biểu đồ: Đối tượng thờ cúng trong các ngôi chùa phân bố
theo tỉnh, thành phố (%)
4.1.1. Đặc điểm của chùa tiền Phật hậu Thánh
Theo các nhà nghiên cứu và kết quả khảo sát thực địa, dạng chùa "Tiền Phật
hậu Thánh" thờ các vị thánh chỉ xuất hiện ở vùng châu thổ Bắc Bộ do địa thế vùng
này hiểm trở, tạo địa bàn thích hợp cho Mật giáo phát triển. Bên cạnh đó, vào thế kỷ
XVI - XVIII công thương nghiệp nước ta phát triển mạnh, với sự mở cửa, cho phép
0
50
0
50
90.9
0
60
50
100
0
9.1
100
20
0 0
50
0 0
20
0 0 0 0 0
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Nam Định Hưng Yên Hải Dương Thái Bình TP.Hà Nội Ninh Bình
Từ Đạo Hạnh
Nguyễn Minh Không
Dương Không Lộ
Phối thờ 3 vị thánh
75
của triều đình Phật giáo phát triển mạnh mẽ. Chính các thái hậu, các chính cung, các
công chúa, các cung phi mĩ nữ... là những người hâm mộ đạo Phật nhất. Họ theo
đạo Phật, thờ Phật để mong có phúc còn có phúc hơn, để hy vọng khi chết đi được
siêu sinh tịnh độ [62, tr.356]. Chính vì thế thời kì này xuất hiện đồng thời nhiều
ngôi chùa có quy mô to lớn cả về kiến trúc và là nơi tối linh. Chùa Thầy thờ thánh
Từ Đạo Hạnh với sự hưng công của Phùng Khắc Khoan. Văn bia tại chùa Keo (Thái
Bình) do tiến sĩ Nguyễn Thực soạn vào năm Đức Long thứ 4 (1632) chép rằng: “Bà
Lại Thị Ngọc Lễ vợ Tuấn Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng đứng ra vận động quyên
góp, cung tần phủ chúa là Trịnh Thị Ngọc Trâm làm hội chủ dựng lại chùa từ năm
1630, đến cuối năm 1632 thì hoàn thành. Dựng điện thờ Phật, xây đài thiêu hương,
hai bên tả hữu từ trước đến sau có hành lang thẳng tắp, cộng thêm cửa tam quan
trong ngoài, và nhà am nhà bia, tất cả hai mươi mốt dãy gồm trăm năm mươi tư
gian, tường vách bao quanh bốn phía“. Chùa Keo (Nam Định) do người dân làng
Hành Thiện khi đó là một trong những làng khoa bảng, có nhiều người đỗ đạt, vinh
quy bái tổ đứng ra hưng công xây dựng. Chính vì lẽ đó, thời kì này, nhiều ngôi chùa
lớn thờ các vị thánh được xây dựng. Qua thời gian, nhiều ngôi chùa vẫn tiếp tục
được các triều đại về sau tu bổ và hiện còn đến ngày nay.
Nếu lấy sông Hồng làm ranh giới phân định, thì chùa tiền Phật hậu Thánh có
số lượng nhiều hơn bên hữu ngạn với mật độ chùa đậm đặc ở vùng hạ lưu. Có thể
thấy ở vùng châu thổ Bắc Bộ có nhiều tín ngưỡng thờ các vị thần khác như tín
ngưỡng thờ Chử Đồng Tử mà trung tâm là Hưng Yên với các huyện Khoái Châu,
Tiên Lữ, Kim Động Ở Hải Dương (xứ Đông) là vùng ảnh hưởng của tín ngưỡng
thờ Đông Hải đại vương, Càn Hải đại vương ở các huyện Cẩm Giàng, Tứ Kỳ, Ninh
Giang khẳng định sự có mặt của các vị thần biển ở vùng này. Ở khu vực phía Bắc
Hà Nội là vùng ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ thánh Gióng. Xa hơn nữa phía Tây
Bắc vùng Sơn La, Ba Vì là vùng ảnh hưởng của Tản Viên sơn thánh. Chỉ còn những
vùng đồng bằng mới khai phá cùng những vùng đất mới được hình thành do phù sa
màu mỡ của sông Hồng cùng các phân lưu của nó để lại, trên con đường bồi tụ ra
biển ở một số vùng duyên hải của Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình và một số
huyện đồng bằng của Hà Nội như Quốc Oai, Hoài Đức, Chương Mĩ, Thanh Oai
chưa có các vị thần bản địa đầy quyền năng ngự trị. Mặt khác, đây là vùng đất mới,
hình thành nên nhiều làng nghề đúc đồng, chài lưới, thủ công mĩ nghệ v.v.. nhu cầu
của người dân cần các vị thánh bảo trợ cho đời sống tinh thần. Xung quanh vùng
này có nhiều địa danh liên quan mật thiết đến cuộc đời và hành trạng của các vị
76
thánh như chùa Thầy là nơi thánh Từ Đạo Hạnh tu và hóa thân, chùa Láng là quê
của Từ Vinh, cha của Từ Đạo Hạnh, chùa Bi là nơi thánh Từ Đạo Hạnh đưa mẹ là
bà Tăng Thị Loan về lánh nạn sau khi bị Đại Điên hãm hại cha. Địa bàn Nam Định,
Thái Bình là nơi thánh Dương Không Lộ tu hành đắc đạo và giúp dân. Địa bàn Ninh
Bình là quê hương của thánh Nguyễn Minh Không với câu ca dao đã đi vào tâm
thức dân gian vùng này:
Đại Hữu sinh vương
Điềm Giang sinh thánh
Các ngôi chùa Tiền Phật hậu Thánh thường được xây dựng ở các khu đất có
phong thủy hữu tình. Chùa Thầy tọa lạc dưới chân núi Sài Sơn (núi Thầy), phía
trước có hồ nước, trên có thủy đình múa rối nước vào ngày hội. Hai bên chùa có
Nhật Tiên kiều - Nguyệt Tiên kiều như hai bên tả hữu. Nhìn tổng thể kiến trúc chùa
Thầy như một con rồng ngậm ngọc với núi Thầy là đầu rồng, chùa Thầy là miệng
rồng, hai chiếc cầu Nhật - Nguyệt là mắt rồng, thủy đình trước chùa là viên ngọc.
Chùa Thầy có một cảnh trí khá đẹp, là nơi vãn cảnh cho du khách thập phương.
Chùa nằm dưới chân một ngọn núi đá vôi có hình vòng cung là núi Sài Sơn. Theo
các cụ cao niên ở địa phương, trước khi thánh Từ Đạo Hạnh đến lập chùa thì dưới
chân núi đã có hồ nước. Phía Bắc hồ có doi đất lớn, chạy từ khoảng giữa của núi
nhô ra như một con rồng đang uống nước hồ. Người xưa đã đắp doi đất rộng thêm
đủ để xây dựng một ngôi chùa bề thế như hiện nay. Chùa nằm trên một thế đất rất
phù hợp với quan niệm của thuyết phong thủy: Phía trước có núi Long Đẩu làm án,
hai bên có hai dải núi ôm bọc tạo thành thế tay ngai, phía trước là hồ nước mang
tính chất tụ thủy, tụ phúc, phía sau là dãy núi đá là hậu chẩm. Tòa tiền đường được
xây trên nền cao với kết cấu bốn hàng chân cột, các bộ vì nóc làm theo kiểu giá
chiêng - chồng rường. Mái tiền đường làm theo kiểu bốn mái, lợp ngói mũi hài. Bờ
nóc và bờ dải được gắn gạch hộp hoa chanh, hai đầu kìm là đôi thủy quái Makara
hóa rồng ngậm bờ nóc, đuôi cong thành một vân mây xoắn ngược lớn. Nối tiền
đường với thượng điện là tòa nhà cầu chạy dọc. Hai bên là vách ngăn bằng gỗ chia
thành bốn tầng trang trí các đề tài hoa cúc, mây, mác, đấu củng, rông yên ngựa, trên
cùng là lan can bổ trụ hình chấn song con tiện. Thượng điện có kiến trúc tương tự
như tiền đường nhưng nền cao hơn tiền đường. Hai chái thượng điện tạo ra hai gian
thờ làm nơi đặt khám thờ Đức Ông và Thánh Tăng [105].
Một số ngôi chùa khác được xây dựng bên cạnh sông, có vị trí đẹp, phong
cảnh hữu tình, như chùa Điềm Giang (Ninh Bình), có hồ nước nhỏ, trước kia là con
77
sông nhỏ mới bị bồi lấp, xa hơn phía trước là sông Hoàng Long, mang tư cách là
một dòng chi huyền thủy, hiện phía trước chùa còn một hồ nước lớn. Chùa Điềm
Giang khác biệt với hầu hết những ngôi chùa khác là thay vì hai dãy nhà nằm dọc
được bắt đầu từ hai gian hồi của tòa đường chạy suốt ra phía sau gọi là hành lang
(như chùa Thầy, chùa Keo, chùa Bối Khê, chùa Trăm Gian). Ở chùa Điềm Giang
hai công trình kiến trúc nằm ngay hai bên sân phía trước tiền đường gọi là tả, hữu
vu. Phía sau sân là cụm kiến trúc chính gồm tiền đường, trung đường và thượng
điện. Nối trung đường với thượng điện là nhà cầu/ thiêu hương nằm dọc. Cuối cùng
là gác chuông hai tầng tám mái. Gác chuông này có niên đại sớm nhất nước ta,
khoảng thế kỷ XVI. Những ván lá gió, các diềm trang trí của hệ thống cột quân và
chiếc xà gầm tầng trên nối hai cột cái phía ngoài chạm những vân xoắn lớn, kết hợp
đao mảnh, dài và mềm mại, thể hiện kĩ thuật chạm nổi nông mang đậm phong cách
kiến trúc thời Mạc. Tuy nhiên các cấu kiện kiến trúc khác trang trí dày đặc các đề tài
rồng, đao mác, vân xoắn với phong cách nghệ thuật của các thế kỷ từ XVI đến XIX
đã chứng tỏ gác chuông đã qua nhiều lần tu sửa. Chùa Điềm Giang không phải là ngôi
chùa có quy mô lớn nhưng có giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc. Hầu hết các
đơn nguyên kiến trúc còn lưu giữ được dấu ấn nghệ thuật thế kỷ XVI, XVII [109].
Chùa Keo (Nam Định và Thái Bình) thờ Dương Không Lộ đều được xây
dựng trên đất dương cơ, nhìn ra sông Đồng Lê, sông Trà Lĩnh ngoài ý nghĩa tụ thủy
tụ phúc còn là nơi tiến hành nghi thức bơi trải - một hình thức tưởng niệm quãng
đời chài lưới của thánh. Nhân dân thường gọi chùa Keo làng Hành Thiện (Nam
Định) là chùa trên, chùa Keo làng Hành ở làng Dũng Nghĩa (Thái Bình) là chùa
Keo dưới. Theo các tư liệu bia kí còn lưu giữ, cả hai chùa đều có chung niên đại
khởi dựng thời Lê Trung Hưng, cùng có cột cờ, tam quan ngoài ao, tam quan trong,
cụm kiến trúc chùa Phật, cụm kiến trúc đền thờ thánh Không Lộ, quanh cả hai cụm
kiến trúc chùa và đền cũng có gần trăm gian tả vu, hữu vu bao bọc thay tường. Tam
quan ngoại chùa Keo (Thái Bình) có năm gian, hình dạng như các ngôi đình làng tại
các làng quê vùng châu thổ Bắc Bộ. Sau Tam quan, các công trình như cột cờ, tam
quan, chùa Phật, đền Thánh, gác chuông được xây dựng trên nền có độ cao khác
nhau. Tiếp tục vào chùa, khi bước lên chùa Hộ lại thấy mình leo lên một bước nữa
lên cao. Ngoảnh mặt nhìn lại, phóng tầm mắt qua tam quan trong, qua ao trước
chùa, qua tam quan ngoài và xa hơn nữa tới chân đê, ai cũng có cảm giác chỗ đứng
của mình là cao nhất. Nền chùa Phật lại được nâng lên một mức nữa. Bệ Phật bên
trong lại mấy lần được tôn cao. Cho tới bệ trên cùng những pho tượng Phật Adidà
78
đều chạm nóc chùa thì cảm giác về độ cao đã lên tới tột đỉnh, lên tới độ cao vô
thượng của cõi Niết bàn [57].
4.1.2. Mặt bằng, kiến trúc của các ngôi chùa thờ ba vị thánh
Nếu như các di tích thờ ba vị thánh được xây dựng ở những nơi thắng tích thì
phân bố mặt bằng các công trình kiến trúc bên trong các di tích này càng cho chúng
ta thấy trong tâm thức dân gian thánh có vai trò tối linh. Quyền năng của thánh ở
các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh chiếm ưu thế hơn Phật, vì ở các ngôi chùa này,
phần lớn người dân lại cầu tài, cầu lộc, cầu làm ăn buôn bán, cầu tự, cầu đảo, chứ
không phải cầu giải thoát như ở các chùa thờ Phật. Theo khảo sát của NCS, tại các
ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh điển hình như chùa Thầy thì đền Thượng là đền thờ
sau Tam bảo thờ Phật là thờ ba kiếp của Từ Đạo Hạnh: Kiếp làm Vua, kiếp làm
Thánh và Kiếp làm Phật. Vì là chùa thờ thánh, nên ở chùa Thầy, những nghi lễ
mang tính dân gian, không phải lễ trọng của Phật giáo như cầu tự, thì nghi lễ vẫn
được tổ chức ở những nơi thờ thánh trong đền Thượng hoặc chùa Cao. Hay ở chùa
Keo ở làng Hành Thiện (Nam Định), việc làm lễ thường được tổ chức trong gian
thờ thánh ở phía sau gian thờ Phật.
Về mặt bài trí, khảo sát cho thấy việc bố trí thờ phụng Phật, thánh là không
như nhau ở các điện thờ, cũng như tâm thức của người dân đặt vào Phật, thánh cũng
có nhiều điểm không đồng nhất và thống nhất với các công trình trước. Trong công
trình của mình, tác giả Phạm Thị Thu Hương cho rằng nơi đặt tượng Phật bao giờ
cũng nằm vị trí quan trọng hơn nơi thờ thánh [45]. Tác giả nêu một số tiêu chí để
xác định chùa tiền Phật hậu Thánh như sau: (1) Là những ngôi chùa được dựng lên
với chức năng ban đầu là thờ Phật, sau đó phối thờ thêm các vị thánh (vốn là các
nhà sư). Điện thánh thường nằm sau thượng điện của chùa, nhưng có thể do một lý
do nào đó (điều kiện kinh tế, diện tích đất đai...), nó có thể nằm ngay trong thượng
điện, nhưng không bao giờ ở gian chính giữa mà ở gian bên và được tạo thành một
không gian riêng biệt. (2) Điện thánh được bài trí trang nghiêm, chỉ có tượng hoặc
bài vị của một vị thánh nhất định, hiếm khi có thêm các tượng khác; (3) không có
nhà thờ Mẫu và tượng Mẫu, không có hiện tượng lên đồng, hầu bóng; (4) Người
chủ trì các nghi thức tế lễ trong dịp lễ hội hàng năm phải là những ông thầy cúng
với tiêu chuẩn lựa chọn hết sức khắt khe. Còn hàng ngày, việc trông coi chùa và lễ
thánh đều có ông thống hoặc bà tự. Họ phục vụ, trợ giúp người dân đi lễ (viết sớ,
cúng thay lạy đỡ, hướng dẫn làm lễ) [45, tr.21-22].
Về điều này, NCS cho rằng hệ thống kiến trúc, bài trí ở các ngôi chùa thờ ba
thánh không như nhau và là một hình thức phức hợp. Cụ thể, mặc dù cùng là chùa
79
thờ thánh Từ Đạo Hạnh nhưng ở chùa Đại Bi (Nam Định), tam quan không xây ở
chính giữa mà chếch về phía đông, thẳng với cung thờ Thánh Từ Đạo Hạnh, cho
thấy đó mới là trục thần đạo của chùa, thể hiện vai trò tối linh của thánh [58, tr.21],
theo phong thủy ở cung càn, còn ở chùa Thầy thì lại thờ 3 kiếp của Từ Đạo Hạnh
trong cùng một gian thờ ở đền Thượng: Thờ ngài như vị Phật (ở chính giữa), thờ
ngài như vị vua ở bên trái và như vị thánh ở bên phải của chính điện. Hơn nữa, ở
các khu chùa, đền tiền Phật hậu Thánh, vẫn có nhà thờ Mẫu, như ở chùa Keo thờ
Dương Không Lộ ở Nam Định, ở điện thờ thánh Nguyễn Minh Không ở làng Tống
Xá (Nam Định), khu chùa Cao trên núi ở khu vực chùa Thầy ở xã Sài Sơn (Sơn
Tây, Hà Nội), v.v.. Các nơi có gian thờ Mẫu, nên người dân vào chùa đi lễ Phật, lễ
thánh và lễ Mẫu. Mặt khác, đây là các chùa thờ thánh, nên đôi khi việc hành lễ và
thờ thánh lại quan trọng hơn. Theo ý kiến của pháp sư Thành, người phụ trách
nhóm thầy cúng ở chùa Keo (Nam Định), khi cầu cúng “Chúng tôi thông thường đi
cửa thánh trước, sau đó đến cửa Phật. Chùa Keo ở làng Hành Thiện này thờ thánh,
còn việc thờ riêng Phật có nhiều chùa thờ Phật. Sao người dân không lễ ở Hà Nội,
mà phải về đây lễ. Họ về đây lễ, chủ yếu để lễ thánh chứ? Họ về đây chủ yếu lễ
thánh để cầu xin, thánh ban tài ban lộc cho thì phải lễ thánh trước.”17
Nhìn tổng thể các di tích thờ ba vị thánh mang tính chất các ngôi đền thờ
thánh nhiều hơn là ngôi chùa thờ Phật. Các di tích đều có kiến trúc trăm gian, làm
theo kiểu nội công ngoại quốc. Ngoài cùng là hai lớp cổng mà các nhà nghiên cứu
gọi là tam quan ngoại - tam quan nội, tuy nhiên thực chất đấy là nghi môn - lớp
cổng ngoài thường thấy trong các kiến trúc các ngôi đền truyền thống. Tiếp theo là
tiền đường, thiêu hương, thượng điện. Sau cùng là điện thánh. Hành lang dải vũ các
di tích thờ thánh luôn bắt đầu, nối liền từ tam quan chạy suốt chiều dài chùa tới
tận nhà tổ tạo thành hành lang khép kín tạo nên kiến trúc nội công ngoại quốc.
Khu vực tối linh nhất, quan trọng nhất trong tâm thức dân gian là điện thánh luôn
được xây dựng phía sau chùa với độ cao hơn tất cả các công trình khác trong
chùa, kể cả tiền đường, thiêu hương, thượng điện - nơi đặt các pho tượng phật.
Kiểu thức này có thể thấy ở các chùa Thầy (Hà Nội), chùa Keo (Nam Định),
chùa Điềm Giang (Ninh Bình).
Kiểu thứ hai nếu điện thánh không được xây dựng thành một công trình
riêng biệt mà xây cùng với thượng điện thì điện thánh luôn được xây dựng nằm bên
phải chùa, là nơi tối linh trong kiến trúc cổ truyền rồi mới đến Tam bảo và các công
trình khác theo kiến trúc truyền thống. Các công trình kiến trúc người Việt luôn
17
Phỏng vấn thầy cúng Thành, tại chùa Keo ở làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định ngày 13/02/2018.
80
được đặt trên trục thần đạo, các công trình tam quan, gác chuông, tiền đường, thiêu
hương, thượng điện hành lang, giải vũ được xây dựng đăng đối qua trục thần đạo.
Theo khảo sát của NCS, điện thờ ba vị thánh luôn nằm chính giữa - trung tâm trục
thần đạo tiêu biểu như chùa Thầy, chùa Keo, chùa Láng, chùa Điềm Giang. Với các
chùa không có điện thánh riêng biệt thì tam quan, tiền đường nằm trên trục thần đạo
cùng với điện thánh chứng minh trong tâm thức dân gian, thánh tối linh và có vai
trò quan trọng trong tâm thức người dân. Điều này cũng giải thích cho tầm quan
trọng, sự linh thiêng của các vị thánh được thờ tự trong chùa, chứ không phải các vị
Phật như các chùa khác thuần túy của đạo Phật.
Tiêu biểu cho mặt bằng kiến trúc chùa Tiền Phật hậu Thánh có gian thờ tối
linh dành cho thánh có thể kể đến chùa Thầy, phía sau thượng điện, qua một khoảng
sân hẹp mang tính chất thiên tỉnh (giếng trời) là toà điện thánh. Trong tâm thức của
người dân vùng Sài Sơn, thánh Từ Đạo Hạnh có vị trí quan trọng trong đời sống
tâm linh nên công trình kiến trúc này được đặt phía sau trên nền cao hơn hẳn. Theo
quan niệm truyền thống người Việt, những công trình đặt phía sau cùng luôn là
những công trình quan trọng nhất, tối linh thường được gọi là hậu cung, cung cấm
v.v. Theo quan điểm của nhà nhân học văn hóa nổi tiếng người Anh Alfred Gell
[124], những cái thiêng phải được đặt ở những nơi sâu, kín, vừa tăng thêm tính
huyền bí, và tính thiêng. Nếu lấy khoảng đất trống trước chùa làm chuẩn thì nền
điện thánh cao hơn khoảng 2,5 m. Điện thánh gần vuông, làm theo kiểu bốn mái
như các công trình khác, nóc lợp ngói mũi hài như các tòa tiền đường, thiêu hương,
thượng điện. Kết cấu vì nóc theo kiểu giá chiêng - chồng rường, con nhị. Xung
quanh điện thánh bao ván đố, cửa bức bàn khiến không gian thờ thánh khá tối, tạo
vẻ linh thiêng cho khu điện thánh [105].
Trong tâm thức dân gian, chùa Thầy được người dân gọi là chốn tổ, là nơi tu
hành đắc đạo của Từ Đạo Hạnh. Trong chùa có ba pho tượng mà theo tâm thức
người dân là ba giai đoạn khác nhau của thánh: “vi Phật - vi tiên - vi Quốc vương”.
Tượng thánh được tạo tác thành tượng vua Lý Thần Tông được cho là hậu thân của
thánh và tượng thánh Từ Đạo Hạnh mang dáng dấp một đạo sĩ - pháp sư, ngồi trong
khám, trạm khắc cầu kì, phong cách thời Hậu Lê. Ở đây, Từ Đạo Hạnh được thờ cả
3 kiếp, kiếp làm vua, kiếp hóa thánh và kiếp làm Phật, được thờ trong thượng điện.
Trong tâm thức dân gian, người dân đến chùa Thầy vẫn nặng phần thánh hơn bằng
chứng là các tế lễ quan trọng, các nghi thức đều được thỉnh đến thánh và mong
thánh phù hộ độ trì.
81
Trang trí, điêu khắc trên các công trình kiến trúc càng cho thấy trong tâm
thức dân gian, thánh là quan trọng, linh thiêng. Các điêu khắc trên điện thánh tại
chùa Keo (Thái Bình, Nam Định), chùa Thầy, chùa Đại Bi, chùa Điềm Giang, chùa
Láng đều vô cùng tinh xảo hơn hẳn chùa Phật, là các công trình nghệ thuật tiêu biểu
cho phong cách kiến trúc, nghệ thuật trong lịch sử. Chẳng hạn kiến trúc và mặt bằng
chùa Đại Bi, về tổng thể, chùa Bi có kiến trúc, phong cách thờ tự theo kiểu “Nội
công ngoại quốc”, còn gọi là dạng chùa trăm gian. Chùa quay hướng Nam, hướng
của Bát Nhã, trí tuệ trên một thế đất đẹp, bằng phẳng nằm giữa thôn Giáp Ba. Theo
phong thủy, đó là thế đất đẹp hình đầu rồng, hai bên có hai giếng nhỏ nhân dân hay
gọi là mắt rồng. Cụm kiến trúc đầu tiên là tam quan, nghi môn trong đó tam quan
không được xây ở chính trục thần đạo mà chếch về phía đông. Sau tam quan là cụm
kiến trúc chùa chính gồm: Tiền đường - tam bảo ngoại thờ tam thánh, tượng cửu
long, thất phật. Tam bảo nội ở giữa, bên phải là cung thánh (cung cấm), bên trái là
tượng quan âm nghìn mắt nghìn tay, tượng quan âm tọa sơn. Tam bảo gồm tượng
tam thế. Cung thánh là một công trình kiến trúc bằng gỗ, chạm khắc tinh xảo hình
chiếc kiệu mang đậm phong cách hậu Lê, trong có khám thờ sơn son thiếp vàng.
Cung thánh là nơi trang nghiêm và nơi thiêng, luôn đóng cửa và chỉ những người
được cắt cử, trông coi chùa mới được mở vào những ngày lễ, dịp Tết để làm lễ mộc
dục và hương khói.
Trong chùa Keo (Nam Định), chúng ta thấy sự có mặt của một số hạng mục
vốn không xuất hiện ở các chùa thông thường như nghi môn, điện thánh, tả hữu vu
và vườn tháp mang tư cách mộ sư (vì chùa này không có sư)... các công trình kiến
trúc mà bên ngoài tam quan là nghi môn, tức là cửa nghi lễ (không mang ý nghĩa
triết học như tam quan). Hơn nữa, tả vu, hữu vu chùa Keo được xây dựng vượt lên
trước toà tiền đường chùa thờ Phật, nối liền với tam quan thể hiện tính chất chùa
kiêm đền thờ. Như vậy qua kiến trúc thì yếu tố thờ thánh đậm nét hơn thờ Phật, hay
nói cách khác kiến trúc của chùa Keo mang tính chất là một ngôi đền thờ thánh hơn
là một ngôi chùa thờ Phật. Đền thờ thánh được xây dựng phía sau chùa thờ Phật,
theo kiến trúc dân gian Việt Nam, những công trình được xây phía sau có ý nghĩa
linh thiêng, quan trọng hơn các công trình phía trước.
Hai ngôi chùa Keo nằm hai bên bờ sông Hồng, cùng thờ thánh Dương
Không Lộ vốn trước là một đều thuộc trấn Sơn Nam Hạ nên tâm thức người dân
vùng này thể hiện nhiều nét tương đồng về thánh Dương Không Lộ. Ngoài các công
trình tiền đường, thiên hương, thượng điện như các ngôi chùa khác thì điện thánh
82
đều được xây ở vị trí trong cùng - khu vực linh thiêng nhất của chùa với độ cao vượt
hơn hẳn, cao nhất trong toàn bộ khu chùa. Điện thánh cũng được các nghệ nhân xưa
điêu khắc, trang trí cầu kì, tỷ mỷ với tầng tầng lớp lớp các tầng đao mác lưỡi lửa, vân
mây thể hiện tâm thức của người dân thánh tối linh trong đời sống của cư dân vùng
châu tổ Bắc Bộ.
Không gian và kiến trúc của các chùa tiền Phật hậu Thánh tạo nên một không
gian thiêng. Khám thờ thánh trong các ngôi chùa này cũng thể hiện sự uy nghi,
quyền năng và tối thượng. Chùa càng thiêng, nếu những không gian, tượng thờ, bàn
thờ, v.v.. càng được giữ gìn, tránh sự ô tạp từ bên ngoài. Qua nghiên cứu điền dã tại
các chùa tiêu biểu thờ ba vị thánh, NCS thấy rằng vị trí linh thiêng thờ thánh được
những người trông coi luôn gìn giữ (không như thành hoàng), trong gian thờ ở cung
cấm khóa cửa quanh năm và chỉ mở cửa vào những dịp lễ trọng, dịp Tết, lễ hội.18
Đối với người dân, đi lễ với cái tâm và lễ vọng, còn ngày thường, họ cũng không
được vào trong đặt lễ và khấn trước ban thờ thánh như ở chùa Đại Bi, Nam Định.
4.2. Nghi thức thờ phụng các vị thánh
4.2.1. Lễ hội
Như Chương 1 đã trình bày, biểu hiện của tâm thức dân gian thờ ba vị thánh
rõ rệt nhất là các hoạt động và hành vi nghi lễ trong lễ hội làng truyền thống. Lễ hội
là dịp dân làng tổ chức tưởng niệm công lao của các vị thánh, có thể gắn với các sự
kiện lịch sử, gắn với ngày mất, ngày hóa, hoặc gắn với sự kiện trong cuộc đời của
thánh. Lễ hội cũng là dịp để người dân thể hiện tâm thức của mình về việc thờ
phụng, là dịp để cầu thánh phù hộ độ trì cho cả làng, dòng họ, gia đình và cá nhân.
Lễ hội cũng là khoảng thời gian mà người dân có thể diễn lại các tích về cuộc đời,
sự nghiệp, trận đánh, hay những câu chuyện liên quan đã được sử sách ghi chép lại
hay được kể lại trong các truyền thuyết, huyền thoại. Quan trọng hơn, lễ hội là dịp
để mọi người cùng nhau thể hiện đức tin, gắn kết, cộng cảm - một biểu hiện đặc
trưng của tâm thức dân gian và bản sắc văn hóa làng ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
Trong tâm thức dân gian, lễ hội tưởng niệm ba vị thánh là những lễ hội lớn, còn
được nhắc đến bằng truyền miệng trong các câu ca dao: “Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy”. Hay câu: “Dù đi buôn bán trăm nghề, Hai mươi
tháng Chín nhớ về hội Ông” (hội Ông là lễ hội chùa Keo ở Nam Định, Thái Bình thờ
thánh Dương Không Lộ). Điều này cho thấy một số lễ hội tại các chùa tiền Phật hậu
18
Do NCS là cán bộ quản lý văn hóa của tỉnh, nên khi được yêu cầu, thầy trụ trì ở chùa Đại Bi (Nam Định)
mới mở cửa khám thờ thánh Từ Đạo Hạnh để chiêm bái và chụp ảnh. Tư liệu điền dã tháng 5 năm 2015.
83
thánh khá nổi tiếng trong cuộc sống dân gian, thu hút bà con trong làng xã, khách thập
phương đến tế lễ. Ngày nay, ở các làng quê, người trẻ đi thoát ly, làm việc ở thành phố,
nhưng cũng không quên ngày hội, trở về nhà cùng gia đình có mâm lễ đến chùa cầu
thánh. Theo lời kể của anh Trung, hàng năm vợ chồng con trai ở Hà Nội đều về nhà
vào ngày 15 tháng 09 âm lịch hàng năm. Nếu không về được, thì các con gửi tiền cho
bố mẹ mua lễ và nhờ thầy làm sớ cầu phúc cho gia đình làm ăn phát đạt, mạnh khỏe,
hạnh phúc.19
4.2.1.1. Lễ hội làng truyền thống
Mặc dù được gọi là chùa nhưng các lễ hội tại chùa tiền Phật hậu Thánh lại
giống các lễ hội làng truyền thống hơn là lễ hội của Phật giáo. Đây là một hệ thống
các lễ hội truyền thống của tất cả những làng, xã liên quan đến việc xây dựng và
phụng sự các vị thánh được tổ chức tại các chùa Tiền Phật hậu Thánh, mang tính
chất là lễ hội làng giống như kiểu lễ hội đình làng, các điện thờ thánh nhiều hơn là
của Phật giáo [56]. Khác với các chùa Phật, các lễ hội vào các dịp Phật đản do nhà
chùa tổ chức, lễ hội tại chùa tiền Phật hậu Thánh là lễ hội chung của cả làng, cả
tổng. Có thể thấy, các ngôi chùa thờ tam vị thánh tổ và lễ hội là một phần của hệ
thống tín ngưỡng, văn hóa truyền thống thờ các vị thánh, thành hoàng của cư dân
vùng châu thổ Bắc Bộ. Các thành tố tiêu biểu của lễ hội làng truyền thống trong các
ngôi chùa tiền Phật hậu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_ba_vi_thanh_trong_cac_ngoi_chua_tien_phat_hau_thanh.pdf