MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU. 14
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách đối với người cao tuổi ở
nước ngoài. 14
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách đối với người cao tuổi ở
trong nước . 18
1.3. Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. 38
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI
CAO TUỔI. 41
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của người cao tuổi . 41
2.2. Lý thuyết về chính sách đối với người cao tuổi. 47
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách đối với người cao tuổi. 70
2.4. Khung phân tích thực trạng chính sách đối với người cao tuổi. 73
Chương 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO
TUỔI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY . 82
3.1. Quá trình hình thành và phát triển chính sách đối với người cao tuổi ở
Việt Nam . 82
3.2. Khái quát về nội dung chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam. 96
3.4. Đánh giá thực trạng chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện
nay . 122
3.5. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập. 125
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI
VỚI NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 128
4.1. Phương hướng hoàn thiện chính sách đối với người cao tuổi ở Việt
Nam hiện nay . 128
4.2. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách đối với người cao tuổi . 128
KẾT LUẬN . 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 150
PHỤ LỤC. 166
186 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 334 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đối tượng là người cao tuổi - nhóm yếu thế của xã hội.
Thứ hai, mức độ đáp ứng của chính sách chăm sóc sức khoẻ dành cho
người cao tuổi thông qua việc nhận thức và đánh giá một số phương diện từ
người cao tuổi tham gia khảo sát.
Thứ ba, khả năng đáp ứng đời sống vật chất, tinh thần của chính sách đối
với người cao tuổi dành cho đối tượng này. Nói cách khác, đây là sự đo lường
về mức độ hài lòng của người cao tuổi đối với hệ thống chính sách chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần đối với lực lượng này trong xã hội hiện nay.
Câu hỏi thứ hai là chính sách đối với người cao tuổi đã đầy đủ và phù
hợp chưa? Với nội dung này, có tám (08) tiêu chí quan trọng như sau:
75
Thứ nhất, an toàn về tài chính và thu nhập của người cao tuổi. Điểm
then chốt trong vấn đề này là khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính phù
hợp để phục vụ nhu cầu cuộc sống của người cao tuổi. Với một số nội dung
như: (1) sự hỗ trợ của nhà nước trong việc lập kế hoạch về nhu cầu tài chính
cho người cao tuổi; (2) hỗ trợ thoả đáng cho những người cao tuổi khi họ
quyết định vẫn tiếp tục tham gia thị trường lao động ngay khi họ đã hết độ
tuổi lao động; (3) đảm bảo nguồn quỹ, tài chính ngân sách của Nhà nước một
cách phù hợp để giúp đỡ những người cao tuổi khó khăn để giúp họ đáp ứng
nhu cầu cơ bản của họ.
Thứ hai, vấn đề chăm sóc người cao tuổi ở những trung tâm chăm sóc
người cao tuổi. Vấn đề này hướng đến những nội dung then chốt như đáp ứng
nhu cầu chăm sóc của người cao tuổi ở những nơi phù hợp. Tăng mức cung
và sự đang dạng trong mức cung về mái ấm tình thương, các dịch vụ chăm
sóc từ cộng đồng. Giám sát và cải thiện vấn đề cung ứng dịch vụ chăm sóc
sức khỏe và nơi ở dài hạn cho người cao tuổi, làm cho người cao tuổi có thể
thụ hưởng được sự an toàn và dịch vụ có chất lượng.
Thứ ba, chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi. Nội dung chính sách này
bao gồm vấn đề hỗ trợ cộng đồng và cá nhân để những đối tượng này có thể
tham gia tích cực vào hoạt động chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi. Đồng
thời, hỗ trợ để người cao tuổi định kỳ được hưởng các dịch vụ y tế hiệu quả,
có chất lượng phù hợp với nhu cầu của họ. Một vấn đề khác cũng được đề cập
ở nội dung thứ tư này là việc phát triển cung lao động cho phù hợp với nhu
cầu của thị trường chăm sóc sức khỏe người cao tuổi trong xã hội.
Thứ tư, vấn đề di chuyển và đi lại của người cao tuổi. Trước hết cần hỗ
trợ những người cao tuổi sử dụng các phương tiện giao thông cá nhân an toàn.
Bên cạnh đó cần phát triển các loại hình giao thông phù hợp, dễ tiếp cận và
76
giá cả hợp lý để người cao tuổi có thể tham gia lưu thông nếu họ không muốn
hoặc không thể sử dụng phương tiện giao thông cá nhân.
Thứ năm, an toàn cho người cao tuổi. Nội dung này hướng đến việc duy
trì khả năng độc lập của người cao tuổi trong việc ra những quyết định liên
quan đến cuộc sống của họ và giúp người cao tuổi tránh được sự ngược đãi.
Vấn đề này bao gồm nâng cao nhận thức của cộng đồng và người dân về vấn
đề ngược đãi ngược cao tuổi, bỏ rơi và cách thức để tránh hoặc phản ứng
trước những điều đó. Tiếp theo là tăng cường năng lực của cộng đồng để đáp
ứng trong những tình huống mà người cao tuổi bị ngược đãi. Mặt khác, cần
thiết phải cải thiện kỹ năng lập kế hoạch về tài chính và những quyết định cá
nhân. Đồng thời, hỗ trợ duy trì sự tự chủ của cá nhân người cao tuổi trong
việc đưa ra những quyết định liên quan đến bản thân và tài chính. Cuối cùng
là hỗ trợ cho gia đình và những người chăm sóc người cao tuổi trong cộng
đồng để giúp họ hiểu hơn những thay đổi và thách thức trong việc chăm sóc
người cao tuổi trong bối cảnh có nhiều thay đổi.
Thứ sáu, tham gia sinh hoạt cộng đồng của người cao tuổi. Nội dung
này nhằm tạo điều kiện thuận lợi để người cao tuổi tham gia vào cộng đồng
mà họ đang sống nhằm nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của họ. Về vấn
đề này, trước hết là phải hướng đến việc xây dựng một cộng đồng thân thiện
với người cao tuổi. Hỗ trợ người cao tuổi đóng góp cho cộng đồng và khuyến
khích cộng đồng thừa nhận sự đóng góp của người cao tuổi. Nhà nước tăng
cường làm việc, kết nối với khu vực phi lợi nhuận để cung cấp và hỗ trợ
người cao tuổi để họ có thể tham gia và đóng góp tích cực hơn, phù hợp hơn
với nhu cầu và lợi ích của cộng đồng mà họ đang sống.
Thứ bảy, tiếp cận được với các dịch vụ và chương trình hỗ trợ của Nhà
nước. Nội dung này tập trung vào việc làm cho các chương trình, chính sách,
hỗ trợ của Nhà nước dễ dàng đến với người cao tuổi, và người cao tuổi dễ
77
dàng tiếp cận những chương trình, chính sách và hỗ trợ của Nhà nước. Trước
hết cần làm cho các chương trình, dịch vụ hỗ trợ của Nhà nước phù hợp hơn
với các cơ hội tiếp cận của người cao tuổi khi họ cần. Đồng thời tìm cách làm
cho các chương trình, dịch vụ từ ngân sách nhà nước và những mong đợi của
người cao tuổi.
Thứ tám, tính thống nhất trong chính sách người cao tuổi giữa các cơ
quan nhà nước. Tám vấn đề chính sách trên hướng đến nội dung của chính
sách - nội dung của chính sách đối với người cao tuổi phải đảm bảo được tám
vấn đề cốt lõi như vậy. Ngoài cách tiếp cận về nội dung của chính sách, như
đã đề cập ở mục 3.3.3.khi bàn về đánh giá chính sách người cao tuổi, có đề
cập đến tiêu chí hiệu quả và khả thi. Trong hai tiêu chí lớn này, còn có nhiều
tiêu chí nhỏ như sự công bằng, sự ủng hộ về chính trị, và tính thống nhất của
các chính sách. Thực tiễn cho thấy, chính sách đối với người cao tuổi được
thể hiện một cách rộng rãi ở các văn bản quy phạm pháp luật trên nhiều lĩnh
vực, chính vì vậy mà tính thống nhất và phù hợp lẫn nhau giữa các bộ phận
đó cần phải được nhấn mạnh.
Có thể tóm tắt các tiêu chí phân tích thực trạng chính sách đối với người
cao tuổi trong luận án này thành Bảng 2.1. dưới đây:
Bảng 2.1. Tiêu chí phân tích thực trạng chính sách đối với người cao tuổi
Số tiêu
chí
Tiêu chí
phân tích thực trạng
Nội dung
Câu hỏi thứ nhất: Chính sách đối với người cao tuổi có phù hợp với
mong đợi của người cao tuổi hay không?
1
Thực trạng đáp ứng của
chính sách trợ cấp xã hội
2 Thực trạng đáp ứng của
chính sách chăm sóc sức
78
Số tiêu
chí
Tiêu chí
phân tích thực trạng
Nội dung
khoẻ dành cho người cao
tuổi
3
Thực trạng đáp ứng chính
sách chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần cho người
cao tuổi
Câu hỏi thứ hai: Chính sách đối với người cao tuổi đã đầy đủ chưa?
1
An toàn về tài chính và thu
nhập
(1) Sự hỗ trợ của nhà nước trong
việc lập kế hoạch về nhu cầu tài
chính cho người cao tuổi;
(2) Hỗ trợ thoả đáng cho những
người cao tuổi khi họ quyết định
vẫn tiếp tục tham gia thị trường lao
động ngay khi họ đã hết độ tuổi lao
động;
(3) Đảm bảo nguồn quỹ, tài chính
ngân sách của nhà nước một cách
phù hợp để giúp đỡ những người
cao tuổi khó khăn để giúp họ đáp
ứng nhu cầu cơ bản của họ.
2
Vấn đề chăm sóc người cao
tuổi ở những trung tâm
chăm sóc người cao tuổi
(1) Đáp ứng nhu cầu chăm sóc của
người cao tuổi ở những nơi phù
hợp.
(2) Tăng mức cung và sự đang dạng
trong mức cung về mái ấm tình
thương, các dịch vụ chăm sóc từ
cộng đồng.
(3) Giám sát và cải thiện vấn đề
cung ứng dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ và nơi ở dài hạn cho người
cao tuổi, làm cho người cao tuổi có
thể thụ hưởng được sự an toàn và
dịch vụ có chất lượng.
79
Số tiêu
chí
Tiêu chí
phân tích thực trạng
Nội dung
3
Chăm sóc sức khoẻ của
người cao tuổi
(1). Hỗ trợ cộng đồng và cá nhân để
những đối tượng này có thể tham
gia tích cực vào hoạt động chăm
sóc sức khoẻ của người cao tuổi.
(2). Hỗ trợ để người cao tuổi định
kỳ được hưởng các dịch vụ y tế
hiệu quả, có chất lượng phù hợp
với nhu cầu của họ.
(3) Phát triển một cung lao động
cho phù hợp với nhu cầu chăm sóc
sức khoẻ người cao tuổi trong xã
hội.
4
Vấn đề di chuyển và đi lại
của người cao tuổi
(1). Hỗ trợ những người cao tuổi sử
dụng các phương tiện giao thông cá
nhân an toàn.
(2). Phát triển các loại hình giao
thông phù hợp, dễ tiếp cận và giá cả
hợp lý để người cao tuổi có thể
tham gia lưu thông nếu họ không
muốn hoặc không thể sử dụng
phương tiện giao thông cá nhân.
5
An toàn cho người cao tuổi
(1). Duy trì khả năng độc lập của
người cao tuổi trong việc ra những
quyết định liên quan đến cuộc sống
của họ và giúp người cao tuổi tránh
được sự ngược đãi.
(2) Nâng cao nhận thức của cộng
đồng và người dân về vấn đề ngược
đãi ngược cao tuổi, bỏ rơi và cách
thức để tránh hoặc phản ứng trước
những điều đó.
(3) Tăng cường năng lực của cộng
đồng để đáp ứng trong những tình
huống mà người cao tuổi bị ngược
80
Số tiêu
chí
Tiêu chí
phân tích thực trạng
Nội dung
đãi.
(4) Cải thiện kỹ năng lập kế hoạch
về tài chính và những quyết định cá
nhân.
(5) Hỗ trợ duy trì sự tự chủ của cá
nhân người cao tuổi trong việc đưa
ra những quyết định liên quan đến
bản thân và tài chính.
(6) Hỗ trợ cho gia đình và những
người chăm sóc người cao tuổi
trong cộng đồng để giúp họ hiểu
hơn những thay đổi và thách thức
trong việc chăm sóc người cao tuổi
trong bối cảnh có nhiều thay đổi.
6
Tham gia sinh hoạt cộng
đồng
(1) Xây dựng một cộng đồng thân
thiện với người cao tuổi.
(2) Hỗ trợ người cao tuổi đóng góp
cho cộng đồng và khuyến khích
cộng đồng thừa nhận sự đóng góp
của người cao tuổi.
(3) Chính phủ, nhà nước tăng
cường làm việc, kết nối với khu
vực phi lợi nhuận để cung cấp và
hỗ trợ người cao tuổi để họ có thể
tham gia và đóng góp tích cực hơn,
phù hợp hơn với nhu cầu và lợi ích
của cộng đồng mà họ đang sống.
7
Tiếp cận được với các dịch
vụ và chương trình hỗ trợ
của chính phủ, nhà nước
(4) Cần làm cho các chương trình,
dịch vụ hỗ trợ của nhà nước phù
hợp hơn với các cơ hội tiếp cận của
người cao tuổi khi họ cần.
(5) Tìm cách làm cho các chương
trình, dịch vụ từ ngân sách nhà
nước và những mong đợi của người
81
Số tiêu
chí
Tiêu chí
phân tích thực trạng
Nội dung
cao tuổi.
8
Tính thống nhất
Tính thống nhất về mặt quy định
liên quan đến chính sách đối với
người cao tuổi giữa trung ương và
địa phương, giữa các bộ, ngành có
liên quan.
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Kết luận chương 2
Chính sách người cao tuổi được đề cập trong Luận án này được hiểu là
sản phẩm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hướng đến nhóm
đối tượng là người cao tuổi nhằm phục vụ lợi ích của người cao tuổi và lợi
ích chung của xã hội có được từ thành tựu chăm sóc người cao tuổi đó. Chính
sách đối với người cao tuổi có nội hàm rộng lớn liên quan đến nhiều chiều
cạnh của đối tượng thụ hưởng là người cao tuổi. Có thể kể ra như vấn đề bảo
đảm thu nhập của người cao tuổi; chăm sóc sức khỏe; vấn đề nhà ở giành cho
người cao tuổi; hỗ trợ người cao tuổi trong việc đi lại, di chuyển trong cuộc
sống; và vấn đề an toàn của người cao tuổi.
Luân án đưa ra nội dung quan trọng nhất làm cơ sở lý thuyết để nghiên
cứu thực trạng chính sách đối với người cao tuổi: đó là khung lý thuyết phân
tích chính sách. Khung lý thuyết phân tích chính sách hướng đến tìm câu trả
lời cho hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất là chính sách đối với người cao tuổi đã
phù hợp chưa ? Câu hỏi thứ hai chính sách đối với người cao tuổi đã được
đầy đủ chưa ? Từ hai câu hỏi này, tác giả luận án đưa ra khung đánh giá
chính sách đối với người cao tuổi.
82
Chương 3
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI Ở
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Quá trình hình thành và phát triển chính sách đối với người
cao tuổi ở Việt Nam
Trong những năm qua, đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước ta
đã có những chính sách ưu đãi đối với người cao tuổi, đặc biệt là những chính
sách về vật chất, tinh thần như: chính sách bảo trợ xã hội, giảm giá vé, giá
dịch vụ khi sử dụng một số dịch vụ và chính sách chúc thọ mừng thọ luôn
được đảm bảo.
3.1.1. Chính sách đối với người cao tuổi từ năm 1945 đến năm 1986
Trong thư gửi các vị phụ lão ngày 21-9-1945 (sau 19 ngày Bác Hồ đọc
bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà), Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: Đây tôi lấy danh nghĩa là một người cao tuổi mà nói
chuyện với các cụ. Tục ngữ có câu: Lão lai tài tận , nghĩa là tuổi già thì tài
hết, không làm được gì nữa. Mà thường các cụ phụ lão ta cũng tin như vậy.
Gặp việc gì các cụ đều nói: Lão giả an chi (người cao tuổi nên ở yên). Thôi
mình tuổi hạc ngày càng cao, không bay nhảy gì được nữa. Việc đời để cho
con cháu bày trẻ làm. Chúng ta gần đất xa trời rồi, không cần hoạt động nữa.
Tôi không tán thành ý kiến đó. Xưa nay những người yêu nước không vì tuổi
già mà ngồi không. Nước ta có những người như Lý Thường Kiệt, càng già
càng quắc thước, càng già càng anh hùng .
Người lại nói: Chúng ta là bậc phụ lão, cần phải tinh thành đoàn kết
trước để làm gương cho con cháu ta. Vậy tôi mong các vị phụ lão ở Hà thành
ra xung phong tổ chức Phụ lão cứu quốc Hội để cho các phụ lão cả
nước bắt chước và để hùn sức giữ gìn nền độc lập của nước nhà .
83
Chính sách người đối với người cao tuổi ở Việt Nam ở giai đoạn này
chưa được định hình rõ nét. Nhà nước có thừa nhận vai trò của người cao tuổi
trong xã hội nhưng thật sự là chưa có những hành động nào mang tính chiến
lược, thường xuyên, liên tục vừa khái quát, vừa cụ thể để có thể gọi là chính
sách đối với người cao tuổi .
3.1.2. Chính sách đối với người cao tuổi từ năm 1986 đến 2000
Từ năm 1986 trở đi, cùng với quá trình chuyển mình của đất nước, chính
sách đối với người cao tuổi mới bắt đầu được định hình rõ nét hơn và phù hợp
với thông lệ của quốc tế. Trong thời gian này, chính sách đối với người cao
tuổi của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện.
Trên cục diện quốc tế, năm 1982, lần đầu tiên Liên Hợp quốc đã tiến hành
Đại hội Thế giới về người cao tuổi tại nước Cộng hòa Áo. Hơn 3.000 đại biểu
của hầu hết các nước trên thế giới tham dự. Nhằm thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước Việt Nam đối với người cao tuổi ở phạm vi quốc tế, Chính phủ Việt
Nam cử đại biểu của Việt Nam khi đó là Giáo sư Phạm Khuê, Viện trưởng
Viện Lão khoa Việt Nam tham gia. Hội nghị đã thông qua Chương trình Hành
động Quốc tế về người cao tuổi và khuyến nghị Chính phủ và nhân dân các
nước quan tâm giải quyết từng bước những vấn đề về người cao tuổi căn cứ
vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình, tập trung vào 6 lĩnh vực chủ yếu: sức
khỏe và ăn uống; nhà ở và môi trường; gia đình; dịch vụ và bảo trợ xã hội; việc
làm; và nâng cao sự hiểu biết của người cao tuổi (Ngô Thị Mến, 2015).
Tiếp đó, sau khi nhận được thông báo của Liên hợp quốc, ngày 01-10-
1991, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước) Võ Chí Công đã ra
lời kêu gọi đồng bào cả nước nhiệt liệt hưởng ứng quyết định của Đại hội
đồng Liên hợp quốc và khẳng định Chăm sóc người cao tuổi là một chính
sách rất quan trọng của Đảng, Nhà nước ta . Ngày 17-9-1992, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra Chỉ thị số 332 về việc tổ
84
chức Ngày Quốc tế người cao tuổi, đã chỉ ra những việc các ngành, các cấp,
các cơ quan đoàn thể phải làm trong dịp Ngày Quốc tế người cao tuổi (ngày 1
tháng 10) hàng năm, trong đó đã xác định Ngày Quốc tế người cao tuổi cần
được tổ chức tốt, có sự chỉ đạo của các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể nhân
dân, dưới sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng
Kế thừa Hội phụ lão cứu quốc, Hội bảo thọ, Hội người cao tuổi Việt
Nam được thành lập ngày vào ngày 10/5/1995 và trên tinh thần, ý nghĩa nhớ
công lao của Bác Hồ, đã đề nghị Chính phủ lấy ngày 6/6/1941 làm ngày
truyền thống cho lớp người cao tuổi nước ta.
Sau khi Hội người cao tuổi Việt Nam được thành lập (10/5/1995), Ban
Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 59/CT-TW Về chăm sóc người
cao tuổi , trong đó ghi: Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của
người cao tuổi là trách nhiệm của Đảng, nhà nước và toàn xã hội. Hội người
cao tuổi Việt Nam mới được thành lập, cần được nhanh chóng ổn định về tổ
chức và mở rộng hoạt động ở cơ sở”.
Bên cạnh đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu: Đối với
các lão thành cách mạng, những người có công với nước, các cán bộ nghỉ
hưu, những người cao tuổi thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc
sức khỏe, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp
ứng nhu cầu thông tin, phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất
nước và các hoạt động xã hội; nêu gương tốt, giáo dục lí tưởng và truyền
thống cách mạng cho thanh niên, thiếu niên .
Năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 117/CP về chăm sóc
người cao tuổi và hỗ trợ hoạt động cho Hội người cao tuổi Việt Nam. Chỉ thị
khẳng định: Kính lão đắc thọ là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, Đảng
và Nhà nước ta coi việc quan tâm, chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần
của người cao tuổi là đạo lý của dân tộc, là tình cảm và trách nhiệm của toàn
85
Đảng, toàn dân. Các cấp chính quyền đã đề ra nhiều chính sách thể hiện sự
quan tâm đó. Để phát huy truyền thống của dân tộc, thực hiện chủ trương
chính sách của Đảng và hỗ trợ hoạt động của Hội người cao tuổi, Thủ tướng
đã chỉ thị Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo các cơ quan chức năng, đơn vị
thuộc quyền thường xuyên quan tâm làm tốt công tác chăm sóc người cao
tuổi. Công tác này cần được thể hiện trong các kế hoạch phát triển kinh tế- xã
hội ngắn hạn và dài hạn của địa phương. Trong chỉ tiêu xây dựng gia đình văn
hoá, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư: chỉ đạo các cơ quan văn hoá,
thông tin, giáo dục và đào tạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhân
dân, nhất là thế hệ trẻ về ý thức, thái độ và nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ kính
trọng người cao tuổi.
Chính sách đối với người cao tuổi trong thời gian này có bước tiến bộ hơn
so với giai đoạn trước. Một mặt vai trò quan trọng của người cao tuổi tiếp tục
được khẳng định, một mặt Nhà nước đã có những hành động cụ thể về mặt
chính sách giành cho người cao tuổi như chăm sóc giúp đỡ người cao tuổi, phát
huy vai trò người cao tuổi và đẩy mạnh hoạt động của người cao tuổi. Thế
nhưng, chính sách đối với người cao tuổi trong thời gian này vẫn chưa được đề
cập trong những văn bản mang tính quy phạm pháp luật chuyên ngành.
3.1.3. Chính sách đối với người cao tuổi từ năm 2000 đến nay
Từ năm 2000 đến nay, chính sách đối với người cao tuổi tiếp nối những
thành tựu và nền tảng của chính sách trong những giai đoạn trước, và trở nên
hoàn thiện, bài bản và vững chắc hơn, sự quan tâm của toàn Đảng, Nhà nước
và của hệ thống chính trị đến chính sách đối với người cao tuổi.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng ghi rõ: Vận động toàn dân
tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão
thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã
hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những
86
người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa . Báo cáo khẳng định vai trò và
trách nhiệm của xã hội đối với người cao tuổi.
Năm 2000, Pháp lệnh Người cao tuổi được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
ban hành. Đây là bước đi thích hợp để chăm sóc người cao tuổi. Pháp lệnh
người cao tuổi đề cập trách nhiệm của gia đình, Nhà nước, các tổ chức, cá
nhân trong việc phụng dưỡng chăm sóc người cao tuổi trong đó chính sách
sức khỏe được quan tâm khá toàn diện. Đây được xem là một bước tiến đột
phá trong chính sách đối với người cao tuổi. Pháp lệnh về người cao tuổi trở
thành nền tảng pháp lý quan trọng cho hàng loạt những văn bản dưới luật
được ban hành.
Tiếp theo đó, Nghị định số 30/CP của Chính phủ ban hành năm 2002
Quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh người cao tuổi .
Điều 9 nêu rõ, người cao tuổi được chăm sóc sức khỏe theo quy định của Luật
bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989; người cao tuổi được hưởng dịch vụ ưu
tiên khi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế theo Nghị định số 23/ HĐBT của
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngày 24/01/1991 về Điều lệ khám,
chữa bệnh và phục hồi chức năng; Người cao tuổi từ 100 tuổi trở lên được cấp
miễn phí thẻ bảo hiểm y tế. Tiếp theo đó là Nghị định số120/CP của Chính
phủ về việc sửa đổi điều 9 của Nghị định số 30/CP năm 2002. Những quy
định về chính sách đối với người cao tuổi trở nên thiết thực, cụ thể và ngày
càng phù hợp với thực tế.
Bên cạnh những chính sách hướng đến đối tượng thụ hưởng là người cao
tuổi, một trong những vấn đề khác cần được quan tâm là hoàn thiện nhân sự
của cơ quan có liên quan đến người cao tuổi, đó là Hội người cao tuổi. Nhận
thấy vai trò quan trọng của Hội người cao tuổi, Chính phủ ban hành chính
sách, chế độ cho người đứng đầu hội là Chủ tịch Hội người cao tuổi cơ cơ sở
để góp phần xây dựng Hội vững mạnh, trở thành địa điểm sinh hoạt lành
87
mạnh và hiệu quả cho người cao tuổi. Cụ thể là năm 2003, Chính phủ ban
hành Nghị định số 121/CP quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức ở xã, phường, thị trấn , trong đó có ghi rõ chế độ đối với Chủ tịch
Hội người cao tuổi cấp xã.
Xét thấy việc chăm sóc sức khỏe là trọng tâm trong chính sách đối với
người cao tuổi, trong thời gian này, Nhà nước cũng giành nhiều quan tâm sâu
sắc và xứng tầm đối với hoạt động này. Năm 2004, Bộ Y tế đã ban hành
Thông tư số 02/2004/TT-BYT hướng dẫn thực hiện công tác chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi trong đó quy định: người cao tuổi được chăm sóc sức
khỏe, được khám chữa bệnh khi ốm đau, bệnh tật; được chăm sóc sức khỏe
ban đầu, được ưu tiên khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế; Uỷ ban nhân dân
các cấp có trách nhiệm đảm bảo chế độ chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi
tại địa phương. Ngành y tế chịu trách nhiệm về chuyên môn, kỹ thuật trong
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.
Thông tư này còn quy định về mạng lưới tình nguyện chăm sóc sức khỏe
tại nhà với phương châm huy động sự tham gia của cộng đồng vào chăm sóc
sức khỏe cho người cao tuổi. Thế nhưng chính sách vẫn nhấn mạnh đến tầm
chủ chốt của những đơn vị y tế ở địa phương. Cụ thể là trạm y tế xã, phường,
thị trấn có trách nhiệm quản lý sức khỏe và thực hiện chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho người cao tuổi tại địa phương. Trường hợp người cao tuổi bị tàn tật,
cô đơn không nơi nương tựa bị ốm đau nhưng không đến khám, chữa bệnh tại
nơi quy định thì trưởng trạm y tế cấp xã cử cán bộ y tế đến khám, chữa bệnh
tại nơi ở của người cao tuổi hoặc báo cáo Uỷ ban nhân dân địa phương tổ
chức đưa người bệnh đến cơ sở khám, chữa bệnhthực hiện việc ưu tiên
khám trước cho người bệnh cao tuổi (sau trường hợp cấp cứu), phát triển các
phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc nhất là ở tuyến y tế cơ sở đối với
người bệnh cao tuổi.
88
Có thể nói, Thông tư số 02/2004 của Bộ Y tế đã tiến một bước dài trong
việc thể chế hoá chính sách y tế cho người cao tuổi Việt Nam, tạo tiền đề
quan trọng cho việc xây dựng chính sách y tế mới cho người cao tuổi khi Luật
người cao tuổi được Quốc hội thông qua.
Một điểm tiến triển khác trong chính sách đối với người cao tuổi nữa là
về bảo hiểm y tế. Người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên được hưởng các chế độ bảo
hiểm y tế theo quy định tại Thông tư số 24/2003 ngày 06/11/2003 của Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành Nghị định số
120/2003/NĐ-CP ngày 20/10/2003 của Chính phủ. Khuyến khích các tổ chức,
cá nhân trong nước và nước ngoài, gia đình của người cao tuổi mua thẻ bảo
hiểm y tế cho người cao tuổi.
Có thể thấy, chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam đã có nhiều
tiến bộ vượt bật qua từng giai đoạn. Nhưng có lẽ đột phá nhất vẫn là từ năm
2004. Từ giai đoạn này trở đi, cùng với quá trình cải thiện về kinh tế-xã hội,
chính sách và tư duy chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam đã vượt
lên hẳn so với những giai đoạn trước đây.
Năm 2004 cũng là năm có nhiều bước tiến trong chính sách đối với
người cao tuổi. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 141, năm 2004 Về
việc thành lập Uỷ ban Quốc gia về người cao tuổi Việt Nam . Những năm
tiếp theo, chính sách đối với người cao tuổi năm 2006 với Quyết định số 47
của Bộ trưởng Bộ Tài chính Về việc ban hành quy chế quản lí và sử dụng
Quỹ chăm sóc người cao tuổi . Năm 2007, Nghị định 67/CP của Chính phủ
ban hành Về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội , trong đó có
đối tượng là người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo
hiểm xã hội, được hưởng 120.000 đ/tháng. Sự kiện thành lập Uỷ ban quốc gia
về người cao tuổi có thể được xem là một bước tiến bộ trong tư duy hành
động của Chính phủ về chính sách đối với người cao tuổi. Đó không chỉ đơn
89
thuần là sự nhìn nhận lại vai trò của người cao tuổi mà quan trọng hơn là sự
thay đổi về mặt tư duy khi thành lập một cơ quan chuyên phụ trách tư vấn
những vấn đề liên quan đến người cao tuổi cho Chính phủ.
Ngày 26/3/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 772/QĐ-TTg
lấy ngày 6/6 hàng năm là Ngày truyền thống người
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_chinh_sach_doi_voi_nguoi_cao_tuoi_o_viet_nam_hien_na.pdf