MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU. 9
1.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài. 9
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước. 15
1.3 Nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu . 25
1.4 Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu. 26
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI . 28
2.1 Khái niệm, đặc điểm của chính sách pháp luật tố tụng hình sự đối
với dưới 18 tuổi phạm tội. 28
2.2 Nội dung, hình thức và phương tiện của chính sách pháp luật tố
tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 44
2.3. Các yếu tố tác động đến chính sách pháp luật tố tụng hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội . 57
2.4 Chuẩn mực quốc tế và chính sách pháp luật tố tụng hình sự của
một số nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội . 63
Chương 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI VIỆT
NAM . 75
3.1 Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội . 75
3.2 Thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội . 92
3.3 Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách pháp luật tố tụng hình
sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 114
169 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 387 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính sách pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng 2
CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt động có căn cứ khoa
học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan xây dựng và áp dụng pháp luật để soạn thảo
và thực hiện pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nhằm bảo đảm sự ổn định của hệ thống pháp luật TTHS, tăng
cường việc bảo vệ các quyền và tự do của người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như các
lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước bằng pháp luật TTHS (nói riêng), đồng
thời góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
CSPLTTHS có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trong việc vận dụng các
quy định của pháp luật TTHS đó vào thực tiễn tiến hành các hoạt động TTHS như
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện,
nhằm phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật các
loại tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Đồng thời, CSPLTTHS đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội là nền tảng cho việc bảo đảm và bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội trong quá trình tiến hành các biện
pháp TTHS.
CSPLTTHS có những đặc điểm, mục đích, ý nghĩa riêng trong hệ thống các
bộ phận của CSHS. Đặc điểm của CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
thể hiện trên các yếu tố như: CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
một phần của CSHS nói chung và là chính sách pháp luật trong lĩnh vực TTHS đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng của một Nhà nước; CSPLTTHS đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội góp phần tạo thành hệ thống chính sách xã hội nói chung,
là động lực, đường hướng chỉ đạo sự vận động và phát triển của các quá trình xã hội
CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm đảm bảo thực hiện tốt đường
lối về TTHS và trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi,
NCS đã xây dựng khái niệm, khái quát đặc điểm, nguyên tắc, chỉ ra mục tiêu của
CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Ngoài ra, nghiên cứu sinh còn chỉ
rõ hình thức, phương tiện và các yếu tố ảnh hưởng, tác động đến CSPLTTHS đối
74
với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây sẽ là cơ sở lý luận quan trọng cho việc khảo
sát, nghiên cứu thực trạng về CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại
chương 3 của luận án.
75
Chương 3
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI VIỆT NAM
Như đã trình bày trong Chương 2, CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội được thực hiện thông qua các phương tiện (công cụ) nhất định. Do vậy, để đánh
giá thực trạng CSPLTTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, luận án tập trung
phân tích và đánh giá trên những phương tiện của hiện tượng này, cụ thể: thực trạng
quy định của pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thực trạng áp
dụng pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các hoạt động khác có
liên quan (giải thích pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về người dưới 18 tuổi
phạm tội). Thực trạng này được đánh giá theo các nội dung của CSPLTTHS đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội đã được trình bày ở Chương 2.
3.1 Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
3.1.1 Về mục tiêu của quá trình tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Mục tiêu của quá trình TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là đảm bảo
khách quan, chính xác, nhân đạo, thân thiện phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ
trưởng thành, khả năng nhận thức và đảm bảo tôn trọng các quyền, lợi ích hợp
pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội. Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy
định về việc đối xử với người chưa thành niên phạm tội: ―Mọi trẻ em bị cáo buộc,
buộc tội, hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền được đối xử phù hợp với
sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức đó
giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản của
người khác, và giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong muốn của chúng về
sự tái hòa nhập cộng đồng‖ [5].
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, trong thời gian vừa qua, theo đánh giá của
UNICEF Việt Nam mặc dù người dưới 18 tuổi đã có những sự phát triển về thể
chất và tinh thần, nhưng nhìn chung người dưới 18 tuổi vẫn chưa thật sự có nhận
thức đầy đủ, chín chắn về mọi vấn đề, chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống
76
nên dễ có những hành vi sai phạm, thậm chí là phạm tội. Cho nên, quan điểm của
Đảng, Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là đối xử theo cách thức phù
hợp với đặc điểm lứa tuổi, tâm sinh lý trên tinh thần tôn trọng nhân cách, phẩm
giá, tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản với mục đích giáo dục,
tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi sớm sửa chữa sai lầm, tái hòa nhập cộng đồng,
phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội là chính.
Để đảm bảo thực hiện mục tiêu này, Bộ luật TTHS năm 2015 đã có chương
riêng (chương XXVIII) quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Ngoài
các quy định tại chương XXVIII, các điều khoản khác trong Bộ luật TTHS cũng đã đáp
ứng được mục tiêu của quá trình TTHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đó là đảm
bảo các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, cụ thể:
- Quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13): đảm bảo nâng cao năng lực
và trách nhiệm chứng minh trong TTHS, loại trừ trường hợp chỉ chứng minh một chiều
theo hướng suy đoán có tội và định kiến với người dưới 18 tuổi. Nguyên tắc suy đoán
vô tội còn bảo vệ được quyền của người dưới 18 tuổi, đem đến sự cân bằng trong hoạt
động TTHS, giữa một bên là các cơ quan THTT với chức năng buộc tội và một bên là
người dưới 18 tuổi với chức năng bào chữa.
- Các quy định nhằm thực hiện và đảm bảo quyền bào chữa cho người dưới 18
tuổi phạm tội: Người bào chữa được tham gia bảo vệ quyền lợi cho người dưới 18 tuổi
ngay từ khi bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt theo quy định tại điểm g Khoản 1
Điều 58 Bộ luật TTHS; Khoản 2 Điều 72 Bộ luật TTHS đã quy định Trợ giúp viên
pháp lý có thể là người bào chữa đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi; Điểm
b Khoản 1 Điều 76 Bộ luật TTHS đã quy định người dưới 18 tuổi phạm tội là một
trong những trường hợp chỉ định bào chữa bắt buộc.
- Điểm i Khoản 2 Điều 60 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: ―Đọc, ghi chép
bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản
sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu
cầu‖[10]. Đây là điểm mới quan trọng trong nỗ lực bảo đảm quyền cơ bản của bị can,
bị cáo, trong đó có người dưới 18 tuổi.
Ngoài ra nhằm đảm bảo cho người dưới 18 tuổi thực hiện tốt quyền bào chữa và
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định một
77
số quyền cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo: (1) Được nhận các quyết định tố
tụng liên quan đến mình; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Có quyền tự do trình bày lời khai,
trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải
nhận mình có tội; (4) Được nhận bản bào chữa của người bào chữa; (5) Đề nghị thay
đổi người dịch thuật; (6) Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng
nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý.
- Quyền của người dưới 18 tuổi phạm tội bị giới hạn chỉ đặt ra trong trường hợp
cần thiết và do cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Chỉ có Tòa án là cơ
quan duy nhất có quyền áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
3.1.2 Nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Để đảm bảo được mục tiêu của quá trình TTHS đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, phù hợp với Hiến pháp và tinh thần Công ước quốc tế về quyền trẻ em,
Điều 414 Bộ luật TTHS quy định các nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
- Thứ nhất, nguyên tắc đảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm
lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của
người dưới 18 tuổi.
Để đảm bảo ―mong muốn của chúng về sự tái hòa nhập cộng đồng‖ [5], Điều
414 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người
phạm tội là người dưới 18 tuổi với mục đích giáo dục là chính, giúp đỡ họ sửa chữa
sai lầm là chủ yếu, giúp họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Theo đó, thủ tục
xử lý đối với người dưới 18 tuổi phải thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức
độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi. Việc xử lý người dưới
18 tuổi phải đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi, phải căn cứ vào độ
tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm và yêu cầu của việc phòng
ngừa tội phạm theo tinh thần nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
được quy định tại Điều 91 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2107).
Bộ luật TTHS và các văn bản pháp quy có liên quan đã quy định một số vấn
đề mang tính bắt buộc nhằm đảm bảo nguyên tắc này như: yêu cầu hoặc đề nghị cơ
quan, tổ chức cử người giám hộ, người đại diện, người thực hiện trợ giúp pháp lý,
78
người bào chữa, Bào chữa viên Nhân dân tham gia tố tụng; thông báo về hoạt động
tố tụng; xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi; phân công
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; phòng xử án được bố trí thân thiện như vị
trí của những người THTT, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên
họp trong phòng xử án được bố trí trên cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức
bàn tròn, tường trong phòng xử án màu xanh, người dưới 18 tuổi được bố trí ngồi
cạnh người đại diện, người bào chữa , người bảo vệ quyền và lợi ích cho họ, bàn,
ghế trong phòng xử án được thiết kế như bàn, ghế trong văn phòng; thẩm phán mặc
trang phục làm việc hành chính của Tòa án nhân dân (không mặc áo choàng); việc
tổ chức phiên tòa và bảo vệ phiên tòa
- Thứ hai, nguyên tắc đảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi.
Quy tắc 8.1 và 8.2 Quy tắc Bắc Kinh quy định không được công khai bất cứ
thông tin nào dẫn đến việc nhận diện người chưa thành niên phạm tội, hay nói cách
khác là phải đảm bảo giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi. Việc giữ gìn bí mật
nhằm bảo đảm danh dự, nhân phẩm cho người dưới 18 tuổi trong quãng đời tiếp theo,
giúp họ sửa chữa sai lầm, hoàn thiện bản thân, trở thành công dân có ích cho xã hội là
mục tiêu của việc xem xét, xử lý hành vi phạm tội của họ. Người dưới 18 tuổi là người
dễ bị mặc cảm xã hội, lo lắng về những thông tin của họ nếu người khác biết được sẽ
ảnh hưởng không tốt đến việc phấn đấu trở thành người có ích sau này.
Chính vì vậy, pháp luật nước ta có những quy định nhằm giúp người dưới 18
tuổi bảo đảm bí mật về đời tư và danh dự, nhân phẩm của họ. Quyền được đảm bảo
bí mật về đời tư, danh dự, nhân phẩm quy định trong pháp luật TTHS phù hợp với
quy định của Điều 21 Hiến pháp 2013: ―Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín
của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được Pháp
luật bảo đảm an toàn‖ [9]; Bộ luật TTHS năm 2015: ―Mọi hoạt động tố tụng liên
quan đến người dưới 18 tuổi phải được tiến hành trong môi trường thuận tiện cho
việc đảm bảo giữ bí mật đời tư và nhân phẩm, danh dự của họ‖ [10]. Đó là những
quy định hết sức cần thiết để bảo đảm bí mật của người dưới 18 tuổi khi tham gia
tiến trình TTHS.
79
Quyền được đảm bảo bí mật về đời tư, danh dự, nhân phẩm thể hiện tại
Khoản 2 Điều 414, Khoản 2 Điều 423 và tại Điều 25 Bộ luật TTHS: ―Trong trường
đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người
dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì
Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai‖ [10]; Khoản 2 Điều 423
Bộ luật TTHS: “Trường hợp đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới 18
tuổi thì Tòa án có thể quyết định xét xử kín” [10]. Đồng thời, điều này được thể
hiện trong các quy định của các văn bản dưới luật trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử như Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của Tòa án nhân
dân tối cao quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên;
Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH
ngày 21/8/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội về phối hợp thực hiện
một số quy định của Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi;
Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao quy định về phòng xử án; Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quy chế tổ chức phiên tòa. Cụ thể:
+ Việc lấy lời khai, hỏi cung có thể được thực hiện tại nơi học tập, lao động
và sinh hoạt của người đó hoặc nơi tiến hành điều tra. Trường hợp lấy lời khai, hỏi
cung tại nơi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử thì phải sắp xếp, bố trí phòng lấy lời
khai, hỏi cung thân thiện, nơi kín đáo, có thể là phòng cách ly (ở phiên tòa);
+ Không xét xử lưu động đối với vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi. Tiến hành xét xử kín trong một số trường hợp nhất định.
- Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của
người dưới 18 tuổi, nhà trường, oàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về
tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.
Là người phát triển chưa toàn diện, khó cân bằng cảm xúc, dễ sợ hãi... người
dưới 18 tuổi cần sự giúp đỡ về mặt tâm lý của người đại diện có kinh nghiệm, hiểu
biết về tâm sinh lý, xã hội, hiểu biết bị cáo nhằm đảm bảo quá trình tố tụng được thực
hiện chính xác, khách quan, vì lợi ích của bị cáo. Ðiều 420 Bộ luật TTHS năm 2015
80
đã quy định cụ thể: (1) Người đại diện của người dưới 18 tuổi, thầy giáo, cô giáo, đại
diện của nhà trường, Ðoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập,
lao động và sinh hoạt có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của
CQĐT, VKSND, TAND; (2) Người đại diện của người dưới 18 tuổi được tham gia
việc lấy lời khai, hỏi cung người dưới 18 tuổi; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu
cầu, khiếu nại, tố cáo; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội
người dưới 18 tuổi trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra; (3) Người đại diện của
người dưới 18 tuổi, thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Ðoàn thanh niên, tổ
chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt khi tham gia phiên
tòa có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến
hành tố tụng; phát biểu ý kiến, tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Tòa án; (4) Trong thời
hạn 24 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam,
người ra lệnh giữ, lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi
phải thông báo cho người đại diện của họ biết (Khoản 5 Điều 419 Bộ luật TTHS).
- Thứ tư, nguyên tắc tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của
người dưới 18 tuổi và bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của
người dưới 18 tuổi. Về bản chất đây là đảm bảo quyền tự bào chữa và quyền nhờ
người bào chữa.
Về cơ bản, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng có
các quyền và nghĩa vụ như đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thành niên được
quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015, trong đó có quyền tự mình bào chữa hoặc
thông qua người đại diện hợp pháp của họ mời người bào chữa.
Tuy nhiên, do những hạn chế về tâm sinh lý mà người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội không tự mình thực hiện được một số các quyền
và nghĩa vụ, nhất là quyền tự bào chữa, cho nên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ, Bộ luật TTHS đã quy định một số thủ tục đặc biệt dành cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Cụ thể: người dưới 18 tuổi có thể
nhờ luật sư, Trợ giúp viên pháp lý, người đại diện bào chữa (Khoản 1 Điều 422);
Người bào chữa có thể do bị cáo hoặc người đại diện lựa chọn (Khoản 2 Điều 422);
Nếu họ không lựa chọn hoặc người đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa
81
thì CQĐT, VKSND, TAND chỉ định người bào chữa cho họ (Khoản 3 Điều 422);
Người bào chữa cho bị cáo dưới 18 tuổi được mời hay được chỉ định đều phải có
mặt tại phiên toà, nếu người bào chữa vắng mặt thì phiên toà phải được hoãn (Điều
291); Phiên tòa xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi phải có mặt người đại diện của
bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh hoạt, trừ trường
hợp những người này vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở
ngại khách quan (Điều 423).
Bên cạnh đó, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, một số văn bản pháp
luật khác cũng quy định người bị buộc tội là người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi là
đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý (Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017).
- Thứ năm, bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Tương ứng với quy định của BLHS về nguyên tắc xử lý đối với người dưới
18 tuổi phạm tội thì BLTTHS cũng có những quy định về thủ tục tố tụng để áp
dụng. Cụ thể:
(1) Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trước hết cần xem xét khả năng
miễn trách nhiệm hình sự, phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi
phạm tội và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Khoản 2 Điều 91 BLHS quy
định: ―Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một số trường hợp và có nhiều tình tiết
giảm nh , tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 29 của BLHS, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự‖ [11]. Trong
trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự, người dưới 18 tuổi vẫn cần phải giám sát,
giáo dục nhằm giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm. Điều 92 BLHS quy định: “Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng
biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của
họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này”[11]. Điều 426 Bộ luật
TTHS quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền quyết định áp
dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục sau đây đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự: 1. Khiển trách; 2. Hòa giải tại cộng đồng; 3.
82
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn‖ [10]. Theo đó, Điều 427 Bộ luật TTHS quy định về
trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp khiển trách; Điều 428 Bộ luật TTHS quy định về trình
tự, thủ tục áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng; Điều 429 Bộ luật TTHS quy định
về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
(2) Trong trường hợp cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới
18 tuổi thì cần căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Điều 416 Bộ luật TTHS quy định những vấn đề cần xác định khi tiến hành tố tụng
đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi: ―1. Tuổi, mức độ phát triển về thể
chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi; 2.
Ðiều kiện sinh sống và giáo dục; 3. Có hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi
giục; 4. Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội‖ [10].
(3) Khi tiến hành tố tụng, cần ưu tiên áp dụng biện pháp giám sát, chỉ áp dụng
biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế khi thật sự cần thiết, đồng thời, thời hạn áp dụng
biện pháp ngăn chặn cũng ngắn hơn. Khoản 1 Điều 419 BLTTHS quy định:
1. Chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết.
Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám
sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Thời hạn tạm giam
đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn
tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại Bộ luật này [10].
(4) Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và đã áp dụng một trong các biện pháp
nhưng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Khoản 6 Điều 423 Bộ luật
TTHS quy định: “Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối
với bị cáo thì Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng”
[10]. Theo đó, Điều 430 Bộ luật TTHS quy định về trình tự, thủ tục áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Đồng thời, BLHS cũng quy định không xử phạt tù chung thân hoặc tử
hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Khoản 5 Điều 91 BLHS); Tòa án chỉ
83
áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy
các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương
ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội (Khoản 6 Điều 91 BLHS); Án đã tuyên đối với
người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái
phạm nguy hiểm (Khoản 7 Điều 91 BLHS).
- Thứ sáu, bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi.
Yêu cầu bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi rất quan trọng, tác động đến “nhịp độ” phát triển bình thường của
người dưới 18 tuổi. Tuy không có điều khoản cụ thể quy định về thời hạn điều tra,
truy tố, xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhưng một số quy định có liên
quan cũng đã thể hiện tinh thần của nguyên tắc này, chẳng hạn như: Khoản 1 Điều
419 Bộ luật TTHS: “Thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên” [10].
3.1.3 Thủ tục tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi cũng là một trong những loại thủ
tục đặc biệt của TTHS, được qui định trong Phần thứ bảy - Thủ tục đặc biệt,
Chương XXVIII - Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi của Bộ luật TTHS
năm 2015, gồm 18 Điều từ Điều 423 đến Điều 430. Các quy định này nhằm mục
đích đưa ra những thủ tục tố tụng sao cho phù hợp với các nguyên tắc xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội đã được quy định trong BLHS và các nguyên tắc tiến
hành tố tụng. Ngoài Điều 413 và Điều 414 quy định về phạm vi áp dụng và nguyên
tắc tiến hành tố tụng (đã trình bày cụ thể ở trên), các quy định về thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi được thể hiện trên các điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quy định về tiêu chuẩn, thành phần của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng.
Về tiêu chuẩn: đối với người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng bắt
buộc phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ
84
án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học
giáo dục đối với người dưới 18 tuổi (Điều 415) hoặc Khoản 1 Điều 423 quy định:
―Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là giáo viên
hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người
dưới 18 tuổi‖ [10].
Về thành phần tham gia tố tụng: pháp luật TTHS quy định bắt buộc phải có
người bào chữa, người đại diện của người dưới 18 tuổi, thầy cô giáo, đại diện nhà
trường, Ðoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và
sinh hoạt (Điều 291; Điều 420; Điều 423). Cụ thể: Điều 291 quy định: ―Người bào
chữa cho bị cáo dưới 18 tuổi được mời hay được chỉ định đều phải có mặt tại phiên
toà. Nếu người bào chữa vắng mặt thì phiên toà phải được hoãn‖; Khoản 1 Điều
423 quy định: “Phiên tòa xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi phải có mặt người đại
diện của bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_chinh_sach_phap_luat_to_tung_hinh_su_viet_nam_doi_vo.pdf