MỞ ĐẦU .1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.8
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước .8
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước.18
1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu.19
1.4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu .21
Kết luận Chương 1.24
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM.25
2.1. Vị trí pháp lý, vai trò của đại biểu Quốc hội trong Quốc hội Việt Nam.25
2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và yêu cầu hoạt động của ĐBQH Việt Nam.32
2.3. Các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội Việt Nam.48
2.4. Hoạt động của đại biểu Quốc hội một số nước thế giới và những bài
học kinh nghiệm.54
Kết luận Chương 2.68
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .69
3.1. Khái quát thực trạng cơ cấu, chất lượng đại biểu Quốc hội và quy định
pháp luật về hoạt động của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay .69
3.2. Thực trạng hoạt động của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay .78
3.3. Thực trạng các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội ở
Việt Nam hiện nay .102
3.4. Về phương thức hoạt động của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.106
Kết luận Chương 3.111
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .112
4.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.112
4.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.120
Kết luận Chương 4.147
171 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 392 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoạt động của đại biểu quốc hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã quy định cụ thể về việc tổ chức
để ĐBQH chất vấn tại kỳ họp QH và phiên họp UBTVQH; cách thức xác định số
lượng ĐBQH cần thiết để kiến nghị QH bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức
vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn; v.v...
Nhìn chung, các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của ĐBQH cho
đến hiện nay đã ngày càng hoàn thiện, điều chỉnh hầu hết những nội dung cơ bản về
vai trò, trách nhiệm của ĐBQH trong lĩnh vực giám sát của QH nói chung.
76
3.1.2.3. Quy định pháp luật về hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước của Đại biểu Quốc hội
Trên cơ sở quy định tại Điều 70 Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ, quyền
hạn của QH, Luật TCQH năm 2014 đã quy định các nhiệm vụ, quyền hạn của QH
trong lĩnh vực quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, mà thường xuyên và
phổ biến nhất là thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng về kinh tế-xã hội và
bầu, phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước. Theo đó, trong việc quyết
định các vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội, QH có thẩm quyền:
(i) Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản
phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hằng năm của đất nước; chủ
trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc
gia; (ii) Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy
định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản
thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ
chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân
sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; (iii) Quyết
định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách cơ bản về đối
ngoại của Nhà nước (Điều 7 Luật TCQH năm 2014).
Trong việc bầu các chức danh trong bộ máy nhà nước, QH có thẩm quyền:
bầu Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên UBTVQH; bầu Chủ
tịch nước, Phó Chủ tịch nước; bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban
của Quốc hội; bầu Thủ tướng Chính phủ; bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bầu Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc
gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, Tổng thư ký Quốc hội (Điều 8 Luật TCQH năm
2014). Quốc hội phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước: phê chuẩn đề
nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao về việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê
chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh theo đề nghị của Chủ
tịch nước; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia theo đề nghị
của Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 9 Luật TCQH năm 2014).
Là thành viên của QH, ĐBQH có trách nhiệm tham gia các hoạt động của
QH, trong đó có việc tham gia thảo luận, quyết định khi QH thảo luận, quyết định
về các vấn đề quan trọng về kinh tế-xã hội và bầu, phê chuẩn các chức danh trong
bộ máy nhà nước như đã nêu trên.
77
3.1.2.4. Quy định pháp luật về hoạt động tiếp xúc, giữ mối liên hệ với cử tri
của Đại biểu Quốc hội
Luật TCQH năm 2014 (Điều 27) quy định về trách nhiệm của ĐBQH với cử
tri, quy định ĐBQH phải thường xuyên tiếp xúc với cử tri, liên hệ chặt chẽ và chịu
sự giám sát của cử tri, việc tiếp xúc cử tri không phải chỉ giới hạn ở địa phương nơi
bầu ra ĐBQH mà còn cả nơi cư trú, làm việc của ĐBQH.
Từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII, QH đã ban hành Nghị quyết về đổi mới, cải tiến
để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội [53], trong đó có nội dung
về đổi mới hoạt động tiếp xúc cử tri; UBTVQH đã phối hợp với Đoàn Chủ tịch Ủy
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Nghị quyết về việc tiếp xúc
cử tri của ĐBQH [90].
Việc QH ban hành Luật tiếp công dân năm 2013 và UBTVQH ban hành
Nghị quyết số 759/2014/UBTVQH ngày 15-5-2014 quy định chi tiết về hoạt động
tiếp công dân của các cơ quan của QH, ĐBQH, HĐND và đại biểu HĐND các cấp
đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ thể hơn về thẩm quyền và trách nhiệm tiếp công
dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân của các cơ
quan của QH, của Đoàn ĐBQH và ĐBQH, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động
tiếp công dân...
Có thể nói, các quy định của pháp luật hiện hành đã giúp các ĐBQH thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình trong các lĩnh vực lập pháp, giám sát, quyết
định các vấn đề quan trọng, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân và các hoạt động tại kỳ
họp QH... Nhờ vậy, các ĐBQH đã phát huy tốt vai trò, trách nhiệm người đại biểu
nhân dân, đã cố gắng nỗ lực trong việc thực hiện trách nhiệm của mình, chấp hành
tốt quy định của Luật TCQH, Nội quy kỳ họp QH và các văn bản pháp luật có liên
quan; tích cực tham gia hoạt động tại các cơ quan của QH, Đoàn ĐBQH mà ĐBQH
là thành viên; đã triển khai nhiều hoạt động với tư cách cá nhân ĐBQH để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
ĐBQH thường xuyên gắn bó, nắm bắt ý kiến, kiến nghị của cử tri không
những ở đơn vị bầu cử mà còn cả của cử tri ở nhiều địa phương khác trong cả nước,
phát hiện các vấn đề bức xúc trong đời sống kinh tế - xã hội để đề xuất ý kiến; đẩy
mạnh thực hiện quyền chất vấn trên tinh thần dân chủ, thẳng thắn xây dựng, hiệu
quả... Đặc biệt, tại các kỳ họp QH, các ĐBQH thực sự trở thành trung tâm của các
kỳ họp, phát huy trách nhiệm cao trước Tổ quốc, Nhân dân trong thảo luận, quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước, thể hiện chính kiến rõ ràng, trách nhiệm,
thẳng thắn, công tâm, nhất là khi thảo luận về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà
78
nước; về những đạo luật lớn và khó về bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa
vụ của công dân; cho ý kiến về những vấn đề lớn như về bảo vệ chủ quyền biển
đảo; đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông... Các ĐBQH chuyên
trách đã ngày càng khẳng định rõ vai trò là lực lượng nòng cốt để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả, chất lượng hoạt động của QH, các cơ quan của QH, Đoàn ĐBQH.
Tuy nhiên, pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri còn thiếu
những cơ chế để tăng cường trách nhiệm của ĐBQH trước cử tri; cơ chế để Nhân
dân có thể nắm bắt được đầy đủ thông tin về ĐBQH, để giám sát ĐBQH một cách
thực chất hơn.
3.2. Thực trạng hoạt động của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Ưu điểm trong hoạt động của ĐBQH
Thứ nhất, về hoạt động của ĐBQH trong lĩnh vực lập hiến, lập pháp: ở góc
độ nghiên cứu, có thể nhận thấy hoạt động của ĐBQH trong lĩnh vực lập pháp có
nhiều ưu điểm, xét ở cả khía cạnh thể chế và thực tiễn hoạt động, có thể nhận diện
điều này qua một số nội dung cơ bản sau đây:
(i) Là thành viên của QH, với sự đóng góp, tham gia trực tiếp của ĐBQH,
QH đã ban hành một khối lượng văn bản quy phạm pháp luật lớn nhất từ trước đến
nay với chất lượng ngày càng nâng cao (tính đến hết kỳ họp thứ 10 (tháng 11/2015),
QH khóa XIII đã ban hành 100 luật, bộ luật, dự kiến kỳ họp thứ 11, QH tiếp tục
xem xét, thông qua 7 dự án luật (Nhiệm kỳ QH khóa IX thông qua được 53 luật,
nhiệm kỳ QH khóa XI thông qua được 84 luật, bộ luật; nhiệm kỳ QH khóa XII
thông qua được 67 luật, bộ luật). Ngay sau khi Hiến pháp mới được thông qua, QH
đã khẩn trương triển khai thực hiện đưa Hiến pháp vào cuộc sống (hơn 2 năm từ khi
Hiến pháp ra đời, đã có gần 70 đạo luật được QH thông qua, thuộc hầu hết các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội). QH khóa XIV, tại kỳ họp thứ 3 (từ 22/5 đến
21/6/2017), QH đã thông qua 12 luật, 12 nghị quyết [80]; tại kỳ họp thứ tư QH khóa
XIV, QH đã thông qua 6 luật [80]; tại kỳ họp thứ 5 (từ 21/5 đến ngày 15/6/2018),
QH đã thông qua 7 luật, 8 nghị quyết [81]. Trong nhiệm kỳ, QH đã tập trung thực
hiện một khối lượng công việc lập pháp rất lớn, xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc ban
hành mới hầu hết các bộ luật lớn, các đạo luật quan trọng, cơ bản hoàn thành hệ
thống pháp lý về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tổ chức bộ máy
nhà nước, thể chế kinh tế thị trường, luật pháp về quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân, quyền tự do dân chủ của Nhân dân. Các luật, pháp lệnh đã
thể chế hóa chủ trương của Đảng, cụ thể các quy định mới của Hiến pháp, tạo cơ sở
pháp lý đồng bộ cho việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ
79
máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; phát huy dân chủ và quyền làm chủ của
nhân dân; thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng XHCN, tôn trọng quyền tự do
kinh doanh bình đẳng, theo pháp luật; bảo đảm an sinh xã hội; vấn đề đất đai, bảo
vệ môi trường; đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
với nhiều nội dung đổi mới, tiến bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế, cụ thể hóa và bảo
đảm các quyền con người, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin; tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; củng cố quốc phòng,
bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội, an sinh xã hội; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Hoạt động của ĐBQH trong việc tham gia công tác soạn thảo các dự án luật,
pháp lệnh đã được nâng lên một bước rõ rệt cả chất lượng và số lượng. Việc phân
tích chính sách, đánh giá tác động trước khi xây dựng dự thảo luật đã được coi trọng
hơn, kỹ thuật soạn thảo văn bản có tiến bộ rõ rệt. Việc thẩm tra các dự án được các cơ
quan của QH tiến hành tích cực, khẩn trương, bảo đảm yêu cầu về điều kiện, chất
lượng dự án trình QH. Cơ quan thẩm tra chủ động phối hợp với cơ quan soạn thảo
ngay từ đầu và nghiên cứu, khảo sát thực tế, tham khảo, lấy ý kiến của chuyên gia,
các đối tượng chịu sự tác động của văn bản,...nên báo cáo thẩm tra nhìn chung bảo
đảm chất lượng, tính phản biện cao, là cơ sở quan trọng để QH, các ĐBQH thảo luận,
cho ý kiến và biểu quyết thông qua các dự án luật.
Việc thảo luận, thông qua dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết tại kỳ họp QH,
phiên họp của UBTVQH ngày càng đi vào nề nếp, đúng quy trình, tiết kiệm thời
gian nhưng vẫn bảo đảm chất lượng. Việc bố trí nội dung, thời lượng thảo luận ở tổ
và hội trường về các dự án luật tương đối phù hợp, khoa học, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc nghiên cứu tài liệu của đại biểu QH và phục vụ nghiên cứu, thảo luận, cho
ý kiến, tiếp thu giải trình và hoàn thiện dự án trình thông qua. Các văn bản QPPL
được QH, UBTVQH ban hành cơ bản bám sát yêu cầu của cuộc sống và đáp ứng
các tiêu chí của hệ thống pháp luật về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai
và minh bạch. Số lượng văn bản luật có quy định cụ thể, trực tiếp điều chỉnh các
quan hệ xã hội đã có sự gia tăng đáng kể, không phải chờ văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành khi triển khai thực hiện.
(ii) Theo quy định, ĐBQH có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước
QH, dự án pháp lệnh ra trước UBTVQH theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy
định. Lần đầu tiên trong 13 khóa, QH, UBTVQH khóa XIII đã có nhiều đổi mới quan
trọng, có cơ chế để khích lệ các vị ĐBQH mạnh dạn trình sáng kiến luật (trong kỳ
họp thứ 9, tại phiên họp toàn thể sáng 27-5-2015 thảo luận về Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2016, đại biểu Trần Thị Quốc Khánh (Đoàn ĐBQH thành phố
80
Hà Nội) đề xuất việc xây dựng Luật hành chính công). Dự án cũng đã được Quốc hội
khóa XIV (tại kỳ họp thứ 5, năm 2017) cho ý kiến bước đầu. Mặc dù còn có những ý
kiến khác nhau, nhưng đây cũng là một chỉ dấu ghi nhận sáng kiến của ĐBQH trong
việc thực hiện tham gia thực hiện quyền lập pháp của QH nói chung cũng như cho
thấy tính chất khó khăn, tính khả thi của việc trao cho cá nhân ĐBQH thẩm quyền
trình dự án luật.
(iii) Phương thức hoạt động của ĐBQH đã có nhiều đổi mới, một mặt vừa bảo
đảm các nguyên tắc căn bản trong hoạt động của ĐBQH, đồng thời phát huy vai trò
của ĐBQH, bảo đảm phát huy dân chủ XHCN trong hoạt động của QH; tăng tính
tranh luận, đối thoại trong hoạt động của QH. Các ĐBQH đã nêu cao tinh thần trách
nhiệm, chủ động nghiên cứu, tích cực đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng văn
bản ban hành. UBTVQH đã tổ chức các hội nghị để tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt
của ĐBQH chuyên trách trong việc thảo luận, cho ý kiến đối với những dự án luật có
nội dung phức tạp, nhạy cảm, còn có nhiều ý kiến khác nhau trước khi trình QH xem
xét, thông qua.
Nhìn chung, hoạt động lập hiến, lập pháp của ĐBQH khóa XIII, XIV đạt
được kết quả nổi bật, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước, hội nhập quốc tế, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, về hoạt động giám sát của ĐBQH: có thể nhận thấy hoạt động giám
sát của ĐBQH có nhiều ưu điểm, xét ở cả khía cạnh thể chế và thực tiễn hoạt động,
có thể nhận diện điều này qua một số nội dung cơ bản sau đây:
(i) Hoạt động chất vấn của ĐBQH ngày càng có những tác động tích cực
trong việc thúc đẩy trách nhiệm của các chủ thể liên quan. Hoạt động chất vấn của
các ĐBQH đã cho thấy, khi thực hiện quyền chấn vấn thì không còn nhân danh cá
nhân nữa mà nhân danh quyền lực tối cao của Nhân dân, thay mặt Nhân dân yêu
cầu người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của
người bị chất vấn [64, tr.3-8]. Hoạt động chất vấn của ĐBQH tiếp tục được đổi mới
về chiều sâu, chú trọng về chất lượng, tinh thần xây dựng, trách nhiệm, tính dân
chủ, công khai, tính tranh luận, đối thoại tăng lên rõ rệt qua từng kỳ họp. Thời gian
cho hoạt động chất vấn không thể tăng thêm, nhưng các nội dung được đưa ra ngày
một nhiều và đã được phân tích, trao đổi, xử lý kỹ lưỡng nên đã tạo ảnh hưởng tích
cực, rõ nét hơn trong đời sống kinh tế -xã hội. Cách thức ĐBQH tiến hành nội dung
chất vấn và trả lời chất vấn theo nhóm vấn đề được kế thừa và phát huy một cách
hiệu quả, bảo đảm sự hài hòa giữa tính khái quát, vĩ mô trong giám sát tối cao của
QH và tính cụ thể, trực tiếp trong thực thi nhiệm vụ đại diện cho cử tri. Việc đổi
mới, cải tiến cách thức chất vấn và trả lời chất vấn theo hướng rút ngắn thời gian
81
nêu, trả lời câu hỏi đã tạo điều kiện để tăng số ĐBQH chất vấn, tranh luận, ĐBQH
không chỉ tham gia tranh luận với các thành viên CP mà còn tranh luận, làm rõ vấn đề
giữa các vị ĐBQH với nhau. Chỉ tính riêng tại kỳ họp thứ 5 (6/2018) QH khóa XIV,
đã có hơn 250 lượt ĐBQH chất vấn và tranh luận [81].
(ii) ĐBQH tham gia ngày càng sâu rộng, toàn diện hơn vào hoạt động giám sát
của QH, các cơ quan của QH nói chung. Các vị ĐBQH đã tiến hành nhiều nội dung
giám sát quan trọng, từ những vấn đề kinh tế vĩ mô đến các vấn đề dân sinh bức xúc
với nhiều hình thức phong phú, luôn bám sát và phản ánh thực tiễn đời sống kinh tế -
xã hội. Thông qua giám sát, nhiều hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành của các
ngành, các cấp được phát hiện; nhiều kiến nghị qua giám sát đã được các cơ quan
nghiêm túc thực hiện, tạo chuyển biến tích cực, góp phần củng cố, tăng cường niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
(iii) Điểm mới của nhiệm kỳ QH khóa XIII, XIV là ĐBQH tiến hành chất
vấn trực tiếp, thường xuyên hơn những người đứng đầu các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các nghị quyết của QH về hoạt động giám sát chuyên đề và hoạt
động chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII, thể hiện việc theo dõi, giám sát đến cùng
việc thực hiện nghị quyết của QH, đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát, chất vấn
nhiệm kỳ vừa qua, rút ra những bài học cần thiết để tiếp tục hoàn thiện chức năng
quan trọng này của QH. Quốc hội đã ra nghị quyết về việc tiếp tục thực hiện các
nghị quyết của QH về hoạt động giám sát chuyên đề và hoạt động chất vấn, yêu cầu
Thủ tướng Chính phủ, các vị bộ trưởng, trưởng ngành tiếp tục thực hiện có kết quả
những vấn đề đã hứa trước QH và cử tri cả nước.
Thứ ba, về hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước còn nhiều khó
khăn, ĐBQH đã tập trung trí tuệ, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri, thực hiện
vai trò quyết định những chủ trương lớn của đất nước từ đổi mới nền kinh tế, đưa
nền kinh tế vượt qua khó khăn thách thức; phát triển khoa học, văn hóa, giáo dục,
môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu cho tới đối phó với những thách thức đe
dọa an ninh chính trị, bảo vệ độc lập chủ quyền, xây dựng đất nước. QH khóa XIII,
XIV đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng quyết định việc phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước; điều chỉnh các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011 – 2015, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội các năm 2016,
2017, 2018 sát thực tiễn hơn; tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội, tái cơ cấu nền kinh tế để nâng cao chất lượng, hiệu quả và
đề ra những chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể đối với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp, tạo chuyển biến tích cực, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
82
Là thành viên của QH, các vị ĐBQH khóa XIII, XIV kịp thời quyết định
các chính sách mang tính quốc kế dân sinh, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đất
nước. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, QH đã có nhiều quyết sách đồng bộ để
ứng phó kịp thời; thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa thận trọng,
linh hoạt; quyết định giảm các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết và kém hiệu quả;
quyết liệt bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế
lạm phát, phục hồi và tạo đà tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, tiếp tục
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Nhiều quyết sách giải quyết
kịp thời những bức xúc từ cuộc sống như: công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây
dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện; tăng cường các biện pháp đấu
tranh, phòng chống tội phạm; dành ngân sách hỗ trợ đóng tàu đánh bắt xa bờ, bảo
vệ chủ quyền biển đảo; tiếp nhận người nghiện ma túy vào các cơ sở tiếp nhận đối
tượng xã hội; tăng lương cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách còn khó
khăn... được nhiều cử tri đồng tình ủng hộ.
Các vị ĐBQH cũng đã thảo luận, cân nhắc thận trọng và khẳng định sự cần
thiết, tính đúng đắn của chủ trương đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long
Thành; xác định đây là dự án quan trọng đặc biệt cấp quốc gia, có ý nghĩa lớn đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng động lực phát triển kinh tế - xã hội phía
Nam và cả nước. Trên cơ sở đó, QH đã thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư
dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, chỉ rõ mục tiêu xây dựng và xác định
những vấn đề cốt yếu trong chủ trương đầu tư dự án như: quy mô dự án, tổng mức
đầu tư và cơ cấu đầu tư, công nghệ áp dụng, diện tích đất sử dụng và thời gian, lộ
trình thực hiện. Bên cạnh đó, QH cũng đã ban hành Nghị quyết về điều chỉnh một
số nội dung và giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương đầu tư xây
dựng đường Hồ Chí Minh theo Nghị quyết số 38/2004/QH11 của QH khóa XI.
Tại kỳ họp thứ nhất, QH khóa XIII, XIV đã bầu những người đứng đầu các
cơ quan nhà nước và phê chuẩn việc bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ; quyết
định về cơ cấu tổ chức của Chính phủ. QH khóa XIII, XIV cũng đã bầu, phê chuẩn
việc miễn nhiệm, bổ nhiệm một số chức danh do QH bầu hoặc phê chuẩn. Trong đó,
QH khóa XIII cũng đã tiến hành xét bãi nhiệm tư cách ĐBQH đối với 2 ĐBQH. Sự
lãnh đạo của Đảng về công tác nhân sự trong hoạt động của ĐBQH được bảo đảm.
Yêu cầu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, bám sát thực tiễn
trong quyết sách của QH trong 02 nhiệm kỳ gần đây ngày càng được thể hiện sâu
sắc hơn. Về cơ bản, ý kiến phát biểu của ĐBQH trên diễn đàn đều xuất phát từ đời
sống hàng ngày, thể hiện ý chí, mong muốn và nguyện vọng của người dân, lấy mục
tiêu lo việc của dân để bàn thảo và quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước.
83
Nhìn chung, hoạt động của ĐBQH trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước ngày càng hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, vì lợi ích của quốc
gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, góp phần vào ổn định kinh tế
vĩ mô, đưa nền kinh tế từng bước vượt qua khó khăn, tiếp tục tăng trưởng, thúc đẩy
chuyển dịch mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội [54].
Việc phát huy dân chủ thông qua việc đề cao trách nhiệm giải trình, tính đối thoại,
tranh luận, phối hợp của các vị ĐBQH trong hoạt động này được bảo đảm.
Thứ tư, về hoạt động tiếp xúc, giữ mối liên hệ với cử tri của ĐBQH
Là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, do cử tri bầu ra, QH Việt Nam
không ngừng đổi mới trên các lĩnh vực hoạt động, đóng góp quan trọng vào quá trình
xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Mối quan hệ giữa đại biểu với cử tri - cử tri
với đại biểu ngày càng được tăng cường, gắn bó chặt chẽ đã góp phần quan trọng vào
hoạt động của QH. Tăng cường mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri, bảo đảm ĐBQH
gắn bó chặt chẽ và tăng cường trách nhiệm với cử tri là một trong những nhân tố
quyết định chất lượng hoạt động của đại biểu, của QH. Kết quả hoạt động nổi bật của
QH trong thời gian vừa qua đã thể hiện sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân, đã tạo niềm tin và nhấn mạnh sự gắn bó của cử tri với ĐBQH [67].
Qua các nhiệm kỳ QH, các vị ĐBQH đã thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc cử tri,
nhờ đó, đã thu thập được nhiều ý kiến, kiến nghị của cử tri. Từ kỳ họp thứ 2 đến kỳ
họp thứ 9 của QH khoá XIII, UBTVQH đã chỉ đạo Ban dân nguyện tiếp nhận, phân
loại và chuyển 14.604 kiến nghị của cử tri cả nước đến các cơ quan có thẩm quyền
xem xét, giải quyết, trả lời cử tri theo quy định của pháp luật, trong đó có 1.413 kiến
nghị đối với các cơ quan của QH, cơ quan của UBTVQH; 12.984 kiến nghị đối với
Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ; 187 kiến nghị đối với TAND tối cao và
VKSND tối cao; 20 kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức khác. Cử tri cũng ngày
càng có ý thức cao, tâm huyết trong việc thể hiện tâm tư, nguyện vọng, đóng góp ý
kiến, kiến nghị vào việc tham gia xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương và cả nước. Có nhiều cơ chế để cử tri đóng góp ý kiến vào các quyết định
của QH như việc đa dạng các hình thức tiếp xúc cử tri (việc tiếp xúc cử tri được
thực hiện đa dạng theo chuyên đề, theo giới hoặc nơi công tác, ở nhiều nơi khác
ngoài địa phương ứng cử, tiếp xúc ở cơ quan, linh hoạt theo từng địa bàn; đã quan
tâm đến các vùng sâu, vùng xa...), đăng tải dự thảo luật để cử tri đóng góp ý kiến
trên trang Dự thảo Online [124]; tăng cường cơ chế đối thoại giữa cử tri và ĐBQH;
tăng cường số lượng các phiên họp được phát thanh, truyền hình trực tiếp của QH,
UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của QH. Địa bàn tiếp xúc được mở rộng tới các
84
thôn, bản, xã, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Nội dung, chương
trình, thời điểm tiếp xúc cử tri được chuẩn bị kỹ lưỡng, thông báo công khai trên
các phương tiện thông tin đại chúng để cử tri biết, tham dự. Các hoạt động tiếp xúc
cử tri theo chuyên đề, lĩnh vực, đối tượng đã được các Đoàn ĐBQH quan tâm tổ chức
và thực hiện khá hiệu quả. Việc thu thập ý kiến, kiến nghị của cử tri đã bao gồm tất cả
các kiến nghị với QH, CP, các bộ, ngành và cả những vấn đề cụ thể, bức xúc tại địa
phương, cơ sở. Công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc tổ
chức, phục vụ hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH ngày càng chặt chẽ và tăng cường
hơn... Những cải tiến đó đã khắc phục từng bước tính hình thức, hội nghị, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho cử tri tham gia các cuộc tiếp xúc với ĐBQH và tạo được
không khí dân chủ, cởi mở, thẳng thắn, góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Nhà
nước với Nhân dân nói chung và giữa ĐBQH với cử tri nói riêng. Các ý kiến, kiến
nghị của cử tri đã được ghi nhận, phản ánh kịp thời hơn với QH và các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền giải quyết, qua đó, góp phần bảo đảm cho công tác xây dựng
pháp luật, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước phù hợp với
thực tế, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân cả nước.
Cùng với việc tiếp công dân thường xuyên, việc tiếp công dân tại mỗi kỳ họp
QH được chuẩn bị chu đáo, bảo đảm mọi công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh với QH đều được tiếp, giải thích, hướng dẫn kịp thời, đúng quy định của
pháp luật; có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan để kịp thời xử lý tình trạng
công dân đến khiếu nại, tố cáo tập trung đông người không đúng nơi quy định. Việc
tổ chức nơi tiếp công dân riêng của QH đã được triển khai một bước, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả tiếp công dân của QH... nên mặc dù số lượng công dân đến
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với các cơ quan của QH, của UBTVQH tăng
nhiều so với nhiệm kỳ trước (nhiệm kỳ khóa XII tiếp và phối hợp tiếp 28.630 lượt
người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về 9.921 vụ việc, trong đó có 400 lượt đoàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hoat_dong_cua_dai_bieu_quoc_hoi_o_viet_nam_hien_nay.pdf