Luận án Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU .1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG

VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.8

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án.8

1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu đề tài luận án .23

1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu. Giả thuyết nghiên cứu và

câu hỏi nghiên cứu .29

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP

PHÁP LÝ THEO PHÁP LUẬT.33

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý.33

2.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức hoạt động trợ giúp pháp lý .51

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý .63

Chương 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ THEO

PHÁP LUẬT VIỆT NAM .72

3.1. Thực trạng pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.72

3.2. Thực tiễn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam .90

3.3. Đánh giá chung về thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật

Việt Nam.104

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

HIỆN NAY.113

4.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật

Việt Nam hiện nay .113

4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật

Việt Nam hiện nay .119

KẾT LUẬN .144

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC

GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .146

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.147

pdf159 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 524 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng lý; Hungary cấp thông qua Bộ hành chính công và tư pháp). Đồng thời, nhiều nước đã huy động tài chính từ các nguồn hợp pháp khác cho hoạt động TGPL như: nguồn tài trợ từ chương trình hợp tác quốc tế (Argentina); đóng góp từ các cá nhân (Ấn Độ); đóng góp của luật sư tư (Malaysia); tiền mặt và tài sản đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, kinh phí triển khai các dự án, tiền thu được từ hoạt động kinh doanh của cơ quan TGPL, các nguồn thu khác (Hàn Quốc); đóng góp của người được TGPL (Hà Lan, Ailen, Nhật Bản, Hàn Quốc). Nguồn lực thực hiện hoạt động TGPL còn được phản ánh tập trung ở nguồn nhân lực đảm bảo triển khai các hoạt động TGPL thể hiện trên các phương diện như: số lượng tổ chức, người thực hiện TGPL; trình độ đào tạo về chuyên môn, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp TGPL; mức độ chuyên nghiệp và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn hành nghề TGPL của những người cung cấp dịch vụ TGPLNếu như con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công của mọi hoạt động xã hội thì nguồn nhân lực TGPL có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động TGPL. Ở những nước có hệ thống TGPL, vai trò của nguồn nhân lực trước hết thuộc về hệ thống TGPL nhà nước, đội ngũ TGVPL trực thuộc và đội ngũ luật sư. Chính vì vậy, các biện pháp củng cố tổ chức, nâng cao trình độ, tăng cường trách nhiệm và kỹ năng hoạt động của các lực lượng này luôn là các biện pháp dành được sự quan tâm hàng đầu trong hoạt động TGPL ở các quốc gia. 2.3.4. Môi trường xã hội Yếu tố môi trường xã hội tuy không đóng vai trò quyết định nhưng ảnh hưởng đáng kể tới nhu cầu, phạm vi và hiệu quả hoạt động TGPL. Môi trường xã hội thể hiện trước hết ở mức độ đồng thuận xã hội và nhận thức chung về trách nhiệm của cộng đồng. Một xã hội nhân văn, có mức độ đồng thuận cao, đa số người dân có sự hiểu biết về trách nhiệm đối với cộng đồng, có 70 sự ủng hộ và tin tưởng vào chủ trương, chính sách xã hội của nhà nướcsẽ là nền tảng tốt cho việc thực hiện hiệu quả hoạt động TGPL. Một tình trạng ngược lại sẽ khiến cho hoạt động TGPL sẽ rơi vào tình trạng bế tắc, mang tính hình thức. Ở bình diện rộng lớn hơn, môi trường xã hội thuận lợi cho hoạt động TGPL chính là một xã hội cởi mở, dân chủ, minh bạch của hợp thể các công dân tự do, công dân trưởng thành - công dân có tính tích cực chính trị, tính tích cực công dân. Điều này cũng liên quan đến việc thừa nhận và đề cao tính trách nhiệm và sự ủng hộ của xã hội đối với việc hỗ trợ, giúp đỡ cho những đối tượng gặp khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ pháp lý liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Môi trường xã hội của hoạt động TGPL gắn với đòi hỏi một số chuẩn mực nhất định của văn hóa nói chung, văn hóa nhân quyền trong xã hội, trước hết là những chuẩn mực liên quan đến trình độ nhận thức, thói quen và hiểu biết về quyền, mức độ phổ biến của quyền, mức độ tôn trọng nhân phẩm và nhân cách cá nhân, mức độ sẵn sàng đối với việc thực thi nhân quyền, tinh thần dân chủ và khoan dung, năng lực vận dụng công cụ pháp luật bảo vệ quyền, năng lực tiếp cận dựa trên quyền, năng lực kết hợp thực hiện quyền với việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống hàng ngày. Trên thực tế, trình độ dân trí nói chung, văn hóa nhân quyền nói riêng là điều kiện tinh thần rất quan trọng quyết định mức độ thực thi hoạt động TGPL vì nếu coi văn hóa nhân quyền là sự hiểu biết, mức độ phổ biến và năng lực vận dụng các quy định về quyền để hiện thực hóa các quyền của bản thân và tôn trọng quyền của người khác thì sự thiếu vắng hoặc hạn chế trong hiểu biết và năng lực vận dụng đó sẽ trở thành rào cản làm vô hiệu hóa ở các chừng mực khác nhau đối với cả luật pháp, cả những điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo thực hiện quyền con người, trong đó có quyền được TGPL. 71 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 TGPL một loại hình dịch vụ công có tính chất xã hội và nhân văn đặc biệt, được thực hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. TGPL là việc nhà nước và xã hội thông qua hoạt động của các tổ chức chuyên trách TGPL của nhà nước, các cơ quan, tổ chức, cá nhân để thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho những đối tượng nhất định hoặc trong những trường hợp cần thiết nhằm bù đắp, hỗ trợ cho người thụ hưởng, giúp họ có điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Khác với nhiều dịch vụ hành chính công, TGPL có những đặc điểm mang tính bản chất và có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội trên nhiều phương diện. TGPL được hầu hết các nước trên thế giới thực hiện như là một trong những biểu hiện của tính nhân văn, nhân đạo, dân chủ của nhà nước và xã hội hiện đại. TGPL phản ánh khía cạnh bảo đảm quyền con người thuộc trách nhiệm của nhà nước, vì vậy phải được pháp luật điều chỉnh. Các chế định chủ yếu liên quan đến nguyên tắc, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, lĩnh vực, hình thức, thủ tục hoạt động TGPLvà trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý, triển khai, phối hợp hoạt động TGPL. Mặc dù có những mô hình pháp lý khác nhau nhưng các thuộc tính căn bản của TGPL đều được nhận diện đồng thuận ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Là một chính sách xã hội ưu việt của nhà nước nhưng hiệu quả hoạt động TGPL chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó vai trò quan trọng thuộc về một số yếu tố như: chính trị, pháp luật, nguồn lực, xã hội. Mỗi yếu tố có khả năng tác động khác nhau nhưng tính chi phối của chúng luôn đặt ra yêu cầu gia tăng ảnh hưởng tích cực đi đôi với hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực của chúng trong bối cảnh cụ thể của mỗi quốc gia. 72 Chƣơng 3 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 3.1. Thực trạng pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 3.1.1. Quá trình xây dựng và phát triển pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam Ở nước ta, Hiến pháp và pháp luật là đại lượng thể hiện ý chí của đông đảo nhân dân lao động, là sự dung hoà lợi ích giữa các giai tầng, phù hợp với trật tự pháp luật XHCN. Một mặt, các văn bản này ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của chủ thể pháp luật, trong đó đặc biệt là các quyền cơ bản của công dân, mặt khác, thiết lập những cơ chế bảo đảm thực thi các quyền và nghĩa vụ cơ bản nhằm hạn chế sự tuỳ tiện, lạm quyền, vi phạm quyền từ phía các chủ thể có quyền lực khác. Với vị trí là một trong những phương thức thực hiện pháp luật, từ góc độ điều chỉnh pháp luật, TGPL thuộc chức năng xã hội của nhà nước, thể hiện tính ưu việt của pháp luật XHCN và của chế độ đối với nhóm người cần được hưởng sự giúp đỡ, hỗ trợ, bảo vệ từ nhà nước và xã hội. 3.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2006 Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, mặc dù chính quyền cách mạng có rất nhiều biện pháp thực tế để ổn định và phát triển đất nước, đem lại quyền lợi cho dân nghèo nhưng trên phương diện điều chỉnh pháp luật, hầu như chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về đối tượng, hình thức, phạm vi, phương thức, trình tự TGPL miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Cho đến trước năm 1986, tuy có rất nhiều hoạt động xét về bản chất là việc giúp đỡ pháp lý cho nhân dân một cách miễn phí, gắn với hoạt động tiến hành hoặc tham gia tố tụng của tòa án, bào chữa viên nhân dân, luật sư 73 và được pháp luật điều chỉnh ở các mức độ khác nhau2 nhưng vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào chính thức ghi nhận chế định TGPL. Thậm chí thuật ngữ TGPL vẫn chưa tồn tại trong đời sống pháp luật của quốc gia. Các quan hệ xã hội có tính chất TGPL được điều chỉnh bởi chế định “tư pháp bảo trợ” gắn với mô hình hóa các quan hệ xã hội về quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa của “người bị can, người bị cáo” và quá trình thực thi công vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân để tránh nguy cơ các quyền tự do, dân chủ và các quyền cơ bản của con người bị xâm hại cũng như thể hiện tính công khai, minh bạch của hoạt động xét xử. Các quan hệ xã hội này phát sinh khi một công dân bị truy cứu trách nhiệm hình sự và trở thành bị can, bị cáo nhưng không có khả năng tự bào chữa với một bên là công dân khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý (được vào danh sách bào chữa). Trong quan hệ này còn có nhà nước - chủ thể quyền lực và có trách nhiệm bảo đảm các quyền và lợi ích cơ bản của công dân hoặc quyền và lợi ích của xã hội thông qua cơ quan đại diện là Toà án và một bên là “người bị can, người bị cáo” trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Như vậy, ngay từ quy định này, pháp luật đã xác định chủ thể đặc biệt là Nhà nước khi Nhà nước vừa có chức năng truy cứu trách nhiệm pháp lý vừa có chức năng bảo 2Tại Điều 44, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định: “Trong việc đại hình, nếu trước TAND phúc thẩm khu hoặc thành phố một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật sư, hoặc bào chữa viên để bào chữa”. Sắc lệnh số 113/SL ngày 28/6/1946 cũng quy định “nguyên cáo hoặc bị cáo trong một việc hộ có quyền xin tư pháp hỗ trợ”. xét xử). Phạm vi người tham gia bào chữa tiếp tục được mở rộng hơn khi Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949 (được Sắc lệnh số 144 ngày 22/12/1949 sửa đổi) cho phép nguyên cáo, bị can, bị cáo có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình trước Toà án xử việc hộ và thương mại trừ Tòa án binh tại mặt trận. Thông tư ngày 24/10/1956 của Bộ Tư pháp xác định rõ: “dưới chế độ DCND quyền bào chữa là một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền tự do dân chủ của người công dân” và quyền tự do bào chữa là “thành trì cần thiết cho các quyền tự do khác”. Theo đó, dưới chế độ ta, nếu bị can không được sử dụng đầy đủ quyền bào chữa thì không gọi là có công lý. Thông tư số 22-HCTP ngày 18/02/1957 của Bộ Tư pháp quy định: “trong khi chờ đợi việc chấn chỉnh và mở rộng chế độ bào chữa, các Toà án nên tranh thủ trình bày với chính quyền và các đoàn thể sẵn sàng cử cán bộ đứng ra bào chữa khi cần đến [ 11]. 74 vệ. Toàn bộ chi phí cho hoạt động của những người được cử ra bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho người bị can, bị cáo cũng như từ hoạt động công vụ được bảo đảm từ ngân sách nhà nước và do công khố chịu với một định mức nhất định. Người bị can, bị cáo được quyền yêu cầu tư pháp bảo trợ mà không phải chi trả bất cứ một khoản chi phí nào từ việc thụ hưởng đó. Từ sau Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), cùng với việc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nhằm “thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân”, “vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để góp phần thực hiện các mục tiêu trên, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quan tâm chỉ đạo: “Cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày; cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn dịch vụ không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tiếp tục khẳng định cần “tổ chức hình thức tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí”. Trên cơ sở đó, Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 và Nghị định số 15 – HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chế Đoàn luật sư năm 1989 đã xác định rõ một số vụ việc luật sư giúp đỡ cho đối tượng mà không được thu phí như: bào chữa cho bị can, bị cáo theo chỉ định của các cơ quan tiến hành tố tụng ( trường hợp này, luật sư sẽ nhận thù lao từ cơ quan chỉ định bào chữa). Ngoài ra, những công dân có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế hoặc các trường hợp đặc biệt khác nếu có đơn yêu cầu thì Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư có thể xét miễn hoặc giảm thù lao cho họ. Hoạt động giúp đỡ pháp luật, trong đó có giúp đỡ pháp luật miễn phí của chuyên viên tư vấn pháp luật của Văn phòng dịch vụ pháp lý còn được đề cập tại Thông tư số 1119/QLTPK ngày 24/12/1987 và Công văn số 75 870/CV/QVLL ngày 26/10/1989 của Bộ Tư pháp. Theo đó, cho phép các Hội Luật gia và Đoàn Luật sư được mở Văn phòng tư vấn pháp luật nhằm giúp đỡ pháp luật cho các đối tượng, trong đó có một số vụ việc giúp đỡ miễn phí. Đặc biệt, vào năm 1997, trên cơ sở thực hiện thí điểm hoạt động TGPL tại một số tỉnh, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734 ngày 06/09/1997 thành lập tổ chức thực hiện TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách, tạo cơ sở để hình thành hệ thống tổ chức thực hiện TGPL chuyên trách của nhà nước, từ đó hình thành một loại hình nghề nghiệp mới, bổ sung thêm cho sự đa dạng, phong phú của thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, tạo sự cân bằng giữa thị trường dịch vụ pháp lý có thu phí (thị phần của luật sư) với thị trường dịch vụ pháp lý miễn phí (thị phần của nhà nước và của xã hội thực hiện). Sự điều chỉnh này là kịp thời, khách quan, thể hiện sự chuyển biến rất tích cực trong nhận thức về điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cơ bản đã phát sinh trong lĩnh vực TGPL, khi mà sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội đã trở nên rõ nét, nhu cầu tìm hiểu pháp luật, được giúp đỡ, hỗ trợ pháp luật của công dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt ngày càng tăng. Sự điều chỉnh này không chỉ thiết lập một loại chủ thể mới của hoạt động TGPL mà còn điều chỉnh trực tiếp các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình người được TGPL yêu cầu các tổ chức thực hiện TGPL thụ lý vụ việc và thực hiện TGPL cho họ, cũng như các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện vụ việc TGPL và trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước về TGPL. Cùng với Quyết định 734/TTg, đã có 16 văn bản của Liên Bộ Tư pháp - Tài chính - Nội vụ - Lao động, Thương binh và Xã hội, của Bộ trưởng BTP được ban hành để cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện Quyết định 734/TTg. Bên cạnh đó, các lĩnh vực pháp luật có liên quan như: pháp luật về luật sư, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng dân sự... cũng có sự điều chỉnh theo hướng tương 76 thích với các quan hệ xã hội mới về TGPL3. 3.1.1.2. Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2017 Cùng với những thành tựu to lớn đạt được trong quá trình đổi mới đất nước, hoạt động TGPL ngày càng trở thành mối quan tâm chung của xã hội, trở thành định hướng cơ bản trong chính sách xã hội của Đảng và nhà nước ta. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, khuyến khích phát triển nghề luật sư trong bối cảnh hội nhập quốc tế đều đã phản ánh rõ nét tinh thần này. Đặc biệt Nghị quyết số 48 đã chỉ rõ: “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; 3 Năm 2001, Pháp lệnh Luật sư được thông qua đã thiết lập cơ chế pháp lý để khuyến khích, huy động đội ngũ luật sư tham gia TGPL miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách (Điều 6) thông qua hình thức hành nghề của luật sư là các Văn phòng luật sư và Công ty Luật. Ngày 05/8/2002, Bộ trưởng BTP ban hành Quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề luật sư kèm theo Quyết định số 356b/2002/QĐ-BTP. Theo Quy tắc này, việc thực hiện TGPL là nghĩa vụ cao cả của các luật sư - một trong các chủ thể chính của QHXH về TGPL. Khi thực hiện TGPL, luật sư phải tận tâm, tích cực thực hiện như đối với các vụ việc có thù lao và nghĩa vụ thực hiện TGPL là một trong những quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà luật sư phải tuân thủ trong quá trình hành nghề của mình (Quy tắc 4). Để khuyến khích những người có kiến thức pháp luật tham gia tư vấn pháp luật trong phạm vi khả năng, ngày 11/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 65/2003/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động tư vấn pháp luật. Nghị định đã tạo cơ sở pháp lý hình thành các quan hệ pháp luật về loại hình tư vấn pháp luật của chủ thể quan hệ pháp luật là các Trung tâm tư vấn pháp luật của tổ chức, đoàn thể xã hội; các tổ chức tư vấn pháp luật được thực hiện tư vấn pháp luật có thu phí để bù đắp cho hoạt động tư vấn pháp luật miễn phí cho thành viên, hội viên và tham gia tư vấn pháp luật cho người nghèo và đối tượng chính sách. Các QHPL về TGPL trong hoạt động tố tụng được điều chỉnh theo hướng kế thừa các quy định của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 vẫn quy định các trường hợp án chỉ định người bào chữa sẽ do cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị Đoàn luật sư giới thiệu Văn phòng luật sư hoặc đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân tham gia bào chữa. 77 thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp”; “hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”. Đồng thời, Nghị quyết đưa ra giải pháp“đẩy mạnh hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách theo hướng xã hội hoá”. Thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng và nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc phát triển TGPL ở Việt Nam, ngày 29/06/2006, Quốc hội khóa XI tại Kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý đồng thời với với Luật Luật sư. Sự ra đời của 2 Đạo luật này đã thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động giúp đỡ, hỗ trợ về mặt pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là người nghèo và đối tượng chính sách, người dân tộc thiểu số. Đặc biệt, việc Quốc hội thể chế hóa chính sách cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo của Đảng bằng một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao là Luật đã tạo ra sự đột phá lớn về mặt thể chế, đánh dấu bước chuyển nhảy vọt về mức độ và phạm vi điều chỉnh, đưa các quan hệ xã hội cơ bản về TGPL vào phạm vi điều chỉnh ổn định của Luật. Sự nâng tầm từ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ lên thành Luật mà không cần qua bước ban hành Nghị định, Pháp lệnh đã khẳng định sự nhìn nhận, đánh giá tích cực của Quốc hội đối với vị trí, vai trò của TGPL trong đời sống pháp luật, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại. Để triển khai Luật TGPL, chỉ trong vòng 10 năm (từ năm 2006 đến trước khi ban hành Luật Trợ giúp pháp lý 2017), Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình cấp có thẩm quyền 45 văn bản, trong đó có 03 Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 01 Chỉ thị và 05 Quyết định. Đồng thời, Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành có liên quan trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý hướng dẫn, triển khai và tổ chức thực hiện Luật. Kết quả là đã có 11 Thông tư liên tịch được ban hành để hướng dẫn các nội dung thực hiện TGPL trong hoạt 78 động tố tụng; việc giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính; hướng dẫn về tổ chức bộ máy và kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan TGPL nhà nước; thực hiện TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu sốBộ Tư pháp cũng đã đề xuất Bộ Tài chính ban hành 02 Thông tư, Bộ Nội vụ ban hành 01 Thông tư và ban hành theo thẩm quyền 12 Thông tư, 10 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp để hướng dẫn thi hành Luật TGPL. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng đã đề xuất sửa đổi, bổ sung vấn đề TGPL trong một số văn bản pháp luật có liên quan như: Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng Hành chính, Luật Khiếu nại, Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng quy định rõ chức danh Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; bổ sung quyền được TGPL trong Luật Phòng, chống mua bán người; Luật Người cao tuổi; Luật Người khuyết tật. Ở địa phương, nhiều cấp ủy Đảng đã ban hành Nghị quyết, thông báo về định hướng lãnh đạo của Đảng đối với công tác TGP. Các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã ban hành chỉ thị để tăng cường công tác TGPL, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Luật trợ giúp pháp lý, kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ của Trung tâm TGPL Trên cơ sở đó, hoạt động TGPL đã có những chuyển biến quan trọng, thu nhận được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý 2006 và các văn bản pháp luật có liên quan về TGPL đã bộc lộ một số bất cập của điều chỉnh pháp luật so với tình hình và yêu cầu mới. Một số hạn chế chính có thể được nhận diện như: (i) Điều chỉnh pháp luật về TGPL chưa thiết lập được quy định mang tính nguyên tắc thể hiện trong Hiến pháp về quyền được TGPL (đặc biệt sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành). Việc mô hình hóa các quan hệ xã hội liên quan đến TGPL chưa kịp thời, không theo kịp với sự phát triển của TGPL trong thực tiễn; (ii) Một số yêu cầu cụ thể của hoạt động TGPL chưa được chế định hóa hoặc chưa phù hợp: khái niệm TGPL, phạm vi chủ thể, đối tượng, 79 lĩnh vực, hình thức TGPL, nội dung quản lý nhà nước về TGPL ở địa phương, dự liệu nguồn nhân lực, nguồn tài chính thực hiện TGPL; phạm vi thẩm quyền của tổ chức thực hiện TGPL trong tham gia tố tụng và quan hệ hành chính...; (iii) Pháp luật về TGPL vẫn chưa thiết lập được một cơ chế phù hợp trong theo dõi, đánh giá việc thực hiện pháp luật, dẫn đến tình trạng cục bộ trong soạn thảo, trong tổ chức thực hiện, chủ quan trong đánh giá về mức độ hoàn thiện của pháp luật. Trên thực tế, nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong công tác TGPL do sự thay đổi trong thể chế và bối cảnh kinh tế - xã hội, ngày 01/6/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 – 2025 theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa với lộ trình phù hợp với đặc thù từng vùng, miền, khu vực tiến tới sau năm 2025 người thực hiện TGPL là luật sư hành nghề, bảo đảm cho các đối tượng thuộc diện được TGPL được cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, có chất lượng; chuyển các Trung tâm TGPL nhà nước theo hướng từ việc chủ yếu cung cấp dịch vụ TGPL hiện nay thành cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL, tinh giản tổ chức, bộ máy và biên chế; cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong việc tiếp cận dịch vụ TGPL của nhà nước. Sự ra đời của Đề án đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới công tác TGPL trong thời gian tới; đưa ra những giải pháp trong công tác TGPL nhằm mang lại lợi ích cho nhà nước, xã hội và trực tiếp là đối tượng được thụ hưởng dịch vụ TGPL, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, Đề án không giúp khắc phục được nguyên nhân căn bản của tình hình là do những khiếm khuyết của pháp luật và những lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật về TGPL. 3.1.1.3. Những điểm mới của Luật Trợ giúp pháp lý 2017 Nhằm khắc phục tình hình nói trên, ngày 20/6/2017 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý 2017 số 11/2017/QH14 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) mở ra một giai đoạn mới cho hoạt động TGPL với nhiều nội dung 80 mới nổi bật. Luật Trợ giúp pháp lý 2017 được xây dựng xuất phát từ tinh thần lấy người được TGPL làm trung tâm nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL theo hướng chuyên nghiệp hóa, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nhà nước và xã hội nhằm cung cấp kịp thời dịch vụ pháp lý cho người yếu thế không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý và những người thuộc diện chính sách. Luật Trợ giúp pháp lý 2017 được bố cục thành 8 chương, 48 điều quy định về người được TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL, hoạt động TGPL và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động TGPL. Những nội dung mới của Luật 2017 so với Luật 2006 và các văn bản liên quan thể hiện ở những điểm căn bản sau: Thứ nhất, khẳng định rõ nét hơn trách nhiệm của nhà nước trong TGPL và phân biệt rõ hoạt động này với dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các tổ chức xã hội. Kế thừa quy định của Luật 2006 xác định TGPL là trách nhiệm của nhà nước, Luật 2017 dành 01 điều quy định về vấn đề này với tiêu đề "Chính sách của Nhà nước về trợ giúp pháp lý" (Điều 4), làm rõ vai trò của nhà nước, qua đó bảo đảm được bản chất, mục tiêu đặt ra về TGPL. Tại khoản 1 Điều 4 khẳng định "Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước", đồng thời khẳng định việc hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp vào TGPL để khích lệ sự tham gia nhiều hơn nữa của các lực lượng xã hội đối với hoạt động TGPL. Bằng các quy định cụ thể trong Luật đã tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện, tiêu chuẩn tham gia thực hiện TGPL và các chủ thể này khi ký hợp đồng thực hiện TGPL được nhà nước chi trả thù lao thực hiện vụ việc. Luật Trợ giúp pháp lý 2017 đã bổ sung 01 Đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_hoat_dong_tro_giup_phap_ly_theo_phap_luat_viet_nam_h.pdf
Tài liệu liên quan