MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NÔNG NGHIỆP 7
1.1. Những nghiên cứu ở ngoài nước có liên quan đến kinh tế tư nhân trong
nông nghiệp 7
1.2. Những công trình ở trong nước có liên quan đến kinh tế tư nhân trong
nông nghiệp 12
1.3. Đánh giá kết quả nghiên cứu liên quan đến kinh tế tư nhân trong nông
nghiệp đã công bố và nhiệm vụ của đề tài luận án 20
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG NÔNG NGHIỆP 23
2.1. Bản chất, hình thức, vai trò và xu hướng vận động của kinh tế tư nhân
trong nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam 23
2.2. Tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế tư nhân trong
nông nghiệp 50
2.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp ở một số tỉnh
và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Hải Dương 63
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NÔNG NGHIỆP
TỈNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2008-2017 71
3.1. Những thuận lợi và khó khăn liên quan đến kinh tế tư nhân trong nông
nghiệp ở tỉnh Hải Dương 71
3.2. Thực trạng của kinh tế tư nhân trong nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương và
kết quả đạt được 76
3.3. Hạn chế của kinh tế tư nhân trong nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương và
nguyên nhân 100
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH HẢI DƯƠNG ĐẾN
NĂM 2025, TẦM NHÌN 2030 113
4.1. Dự báo và phương hướng phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp
tỉnh Hải Dương đến năm 2025, tầm nhìn 2030 113
4.2. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương
đến năm 2025, tầm nhìn 2030 129
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 164
177 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Kinh tế tư nhân trong nông nghiệp tại tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oàn của sản phẩm.
Câu chuyện về thực phẩm bẩn có lẽ không còn xa lạ với mỗi người dân, chưa bao
giờ con đường từ dạ dày đến nghĩa địa lại gần đến thế. Một bộ phận nông dân còn
dành riêng luống rau, mảnh ruộng cho gia đình để phục vụ tiêu dùng còn phần để
bán thì theo một quy trình chăm bón khác. Người ta bón đủ loại kích thích từ bón lá,
kích thích ra hoa, đậu quả, tăng trưởng, chín; trong chăn nuôi cũng vậy, hàm lượng
kháng sinh, thuốc tăng trọng, chất tạo nạc v.v. cũng được sử dụng bừa bãi không
được kiểm soát. Việc lạm dụng phân hóa học, bón dư thừa các yếu tố dinh dưỡng
không chỉ gây lãng phí mà còn là nguyên nhân của hiện tượng lúa lốp, cây dễ nhiễm
sâu bệnh, dễ bị đổ ngã. Tâm lý và thói quen này cần phải được thay đổi và loại bỏ
ngay nếu nông dân muốn hội nhập và nông sản Việt Nam mới có thể cạnh tranh
được với hàng nông sản của các nước.
3.1.2.3. Công tác quản lý chất lượng các loại vật tư nông nghiệp còn nhiều
yếu kém, bất cập
Hiện tượng giống giả, vật tư NN kém chất lượng còn nhiều. Thống kê của
Bộ NN&PTNT cho thấy, hiện cả nước có trên 35.000 DN, đại lý và hộ gia đình sản
xuất và kinh doanh phân bón. Trong đó có 694 cơ sở sản xuất phân bón đủ điều
kiện được phép hoạt động, nhưng đa số là sản xuất nhỏ lẻ, còn tỷ lệ cơ sở có nguồn
vốn lớn và đầu tư công nghệ cao rất thấp. Hơn nữa, số lượng phân bón trong danh
76
mục lớn, trên 6.150 loại, trong khi việc ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật về chất lượng
phân bón, tiêu chuẩn dinh dưỡng vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, nên việc quản
lý gặp nhiều khó khăn, tạo kẽ hở để các DN lách luật. Năm 2017, Việt Nam sử
dụng 28 triệu tấn phân bón, trong đó nhập khẩu là 220 ngàn tấn, xuất khẩu 76 ngàn
tấn nhưng việc quản lý chất lượng phân bón hết sức phức tạp, tình trạng phân bón
giả, kém chất lượng vẫn còn xảy ra. Muốn có nông sản an toàn, chất lượng cao thì
giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu và thức ăn chăn nuôi có tính
quyết định. Nhưng thực tế nhiều loại giống, nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh giống
chưa được quản lý chặt chẽ, dẫn đến việc người dân sử dụng giống không rõ nguồn
gốc còn rất phổ biến. Tình trạng quản lý thức ăn chăn nuôi cũng có nhiều hạn chế
tương tự, chất lượng chưa đạt tiêu chuẩn như công bố trên bao bì, giá tăng cao và
nhanh... Do đó, năng suất vật nuôi hạn chế, tiêu tốn thức ăn, giảm hiệu quả chăn
nuôi. Tất cả những hậu quả đó người nông dân, chủ TT, và thậm chí cả DN phải
gánh chịu.
Trên đây là những điều kiện thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến KTTN
trong NN tỉnh Hải Dương, để tận dụng những thuận lợi, khắc phục khó khăn, cần
thiết phải nghiên cứu thực trạng, để từ đó phát hiện những mặt mạnh cần phát huy,
mặt hạn chế cần khắc phục và tìm ra các giải pháp nhằm phát triển KTTN trong NN
của tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
3.2. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NÔNG NGHIỆP Ở
TỈNH HẢI DƯƠNG VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
3.2.1. Những tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong nông nghiệp
tỉnh ở Hải Dương từ năm 2008 đến 2017
3.2.1.1. Đối với hình thức là kinh tế hộ
- Sự biến đổi về số lượng và cơ cấu của hộ theo ngành kinh tế.
Cũng giống như tình hình chung của cả nước, kinh tế hộ ở tỉnh Hải Dương
tập chung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Theo kết quả điều tra nông thôn, NN và
thủy sản tỉnh Hải Dương, của Cục Thống kê tỉnh Hải Dương, năm 2016 toàn tỉnh có
421.257 hộ sản xuất cá thể, thì ở khu vực nông thôn có 364.586 hộ, chiếm 86,5%
tổng số hộ. Trong vòng 10 năm, số hộ ở nông thôn tăng 16.311 hộ, bình quân mỗi
năm tăng 1631 hộ, tuy nhiên không phải diễn ra ở tất cả các ngành, lĩnh vực. Trong
khi số hộ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thương mại và dịch vụ
77
đang có xu hướng tăng dần cả về số lượng cũng như tỷ trọng thì số hộ hoạt động
trong lĩnh vực NN lại có xu hướng giảm dần về tỷ trọng lẫn số lượng.
Bảng 3.1: Số lượng và cơ cấu hộ ở nông thôn tỉnh Hải Dương
Loại hình 2006 2011 2016
Tổng số hộ 348.255 365.954 364.586
Hộ nông nghiệp 265.246 235.823 164.207
Chiếm tỷ lệ (%) 70,6 58,6 38,9
Hộ sản xuất công nghiệp 39.387 74.923 131.130
Chiếm tỷ lệ (%) 10,4 18,6 31,1
Hộ thương mại và dịch vụ 43.622 55.208 69.249
Chiếm tỷ lệ (%) 11,3 13,9 16,4
Nguồn:Tổng hợp từ Báo cáo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản tỉnh
Hải Dương 2016, Nxb Thống kê [16]
Năm 2006 toàn tỉnh có 265.246 hộ sản xuất trong lĩnh vực NN (70,6%), năm
2011 giảm còn 235.823 hộ (58,6%), đến năm 2016 chỉ còn 164.207 (38,9%). Điều
này cũng là phù hợp và phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh nhà theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mặc dù các hộ NN vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong
cơ cấu ngành của địa phương (xem Bảng 3.1).
- Xu hướng giảm dần của hộ nông lâm thủy sản
Đi vào phân tích cụ thể cho thấy: trong lĩnh vực NN có sự sụt giảm mạnh về
số lượng hộ tham gia nhưng không đều giữa các phân ngành.
Từ bảng 3.2 cho thấy từ năm 2006 đến năm 2016 số hộ làm NN giảm từ
251.555 hộ xuống còn 165.326 hộ song vẫn chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong cơ cấu
ngành (chiếm 93%). Hộ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản tuy giảm về số lượng
nhưng lại tăng trong cơ cấu ngành, từ 5,1% năm 2006 tăng lên 6,67%, hộ lâm
nghiệp thay đổi không đáng kể, giảm từ 96 hộ xuống còn 55 hộ. Năm 2016 số hộ
tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực NN, với 165.326 hộ, chiếm 93%; kế đến là lĩnh
vực thủy sản với 12.282 hộ, chiếm 6,67%; lĩnh vực lâm nghiệp có số hộ tham gia
thấp nhất, chỉ 55 hộ, chiếm 0,03% (xem Bảng 3.2).
- Tình hình sản xuất kinh doanh của hộ NN.
Qua kết quả điều tra 500 hộ ngẫu nhiên trên địa bàn tỉnh Hải Dương cho
thấy: đa số các hộ tiến hành sản xuất đa canh, xen canh, gối vụ nhiều loại cây trồng
78
vật nuôi theo mô hình vườn ao chuồng, rất ít số hộ chỉ chuyên canh sản xuất một
loại cây trồng hay vật nuôi cụ thể. Các loại cây trồng vật nuôi chính các hộ tiến
hành sản xuất chủ yếu là: lúa, cây ăn trái (vải, nhãn, bưởi, ổi, dưa), cây rau màu (súp
lơ, su hào, bắp cải, hành, tỏi), chăn nuôi lợn, gà, vịt, cá.
Đại đa số các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ, 92 hộ nuôi cá thì có tới 77% số
hộ được hỏi có diện tích từ 0,1-0,3 ha; 128 hộ nuôi lợn thì có tới 23% số hộ nuôi
dưới 50 con, 77% số hộ nuôi từ 50-200 con; 89 hộ chăn nuôi gà, vịt thì có tới 79%
số hộ có tổng đàn dưới 1000 con; 155 hộ trồng lúa có tới 26% số hộ được hỏi có
diện tích 0,1- 0,5 ha, số hộ trồng rau màu có diện tích lớn < 0,3 ha; cây ăn trái như
bưởi, na, vải, nhãn, ổi, chuối v.v. được trồng xen canh bên bờ ao (xem Phụ lục 1.1).
Hầu hết hộ NN sản xuất theo mô hình đa canh, sen canh các loại cây trồng vật nuôi
để tận dụng những phế phẩm. Rất ít hộ NN chỉ sản xuất một loại cây, con nhất định
Bảng 3.2: Số hộ và cơ cấu hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản tỉnh Hải Dương
qua ba kỳ tổng điều tra
Số lượng (hộ) Cơ cấu (%)
2006 2011 2016 2006 2011 2016
Tổng số 265.246 256.235 177.663 100 100 100
Hộ nông nghiệp 251.555 243.592 165.326 94,8 95,0 93,0
Hộ Lâm nghiệp 96 37 55 0,03 0,01 0,03
Hộ thủy sản 13.595 12.606 12.282 5,1 4,9 6,67
Nguồn: Báo cáo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
tỉnh Hải Dương 2016 [16, tr.63]
- Kết quả sản xuất kinh doanh của hộ NN: Với hình thức sản xuất đa canh,
xen canh và gối vụ nhiều loại cây trồng vật nuôi nên kết quả sản xuất kinh doanh
năm 2017 khá khả quan. Có 48% số hộ được hỏi sau khi trừ đi chi phí, lợi nhuận
thu được < 50 triêu đồng, 31% số hộ có lợi nhuận từ 50 - < 100 triệu đồng, 11% hộ
có lợi nhuận > 100 triêu đồng, tuy nhiên vẫn còn 10% số hộ thua lỗ. Trong vòng 8
năm qua, có đến 13% số hộ được hỏi cho kết quả thu lợi nhuận năm sau lớn hơn
năm trước, 14% số hộ được hỏi thu lợi nhuận năm sau thấp hơn năm trước, 73% số
hộ cho kết quả lợi nhuận thất thường từng năm (xem Phụ lục 1.12).
3.2.1.2. Đối với hình thức là kinh tế trang trại
- Về số lượng TT: Giai đoạn 2008-2010, khi còn áp dụng Thông tư số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK, số lượng TT tỉnh Hải Dương khá lớn, bao gồm đầy
79
đủ 5 loại hình TT (trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp và kinh
doanh tổng hợp). Theo Cục Thống Kê tỉnh Hải Dương, năm 2010, toàn tỉnh có
2.523 TT, tăng gấp 2,13 lần so với năm 2008; trong đó nhiều nhất là lĩnh vực
kinh doanh tổng hợp (1529 TT, chiếm 63%), tiếp đến là lĩnh vực chăn nuôi gia
súc, gia cầm (685 TT) hoặc nuôi thủy sản nước ngọt (263 TT), lĩnh vực trồng
trọt (36 TT), ít nhất là lĩnh vực lâm nghiệp (10 TT). Điều này cho thấy các hoạt
động dịch vụ nông nghiệp đã phát triển mạnh ở Hải Dương. Tuy nhiên, số liệu
thống kê trên chưa phải là con số cuối cùng, bởi lẽ có khá nhiều hộ nông dân làm
kinh tế TT, song do nhận thức chưa đầy đủ nên chưa làm thủ tục đề nghị xin cấp
giấy chứng nhận (xem Bảng 3.3).
Bảng 3.3: Số lượng trang trại ở Hải Dương phân theo lĩnh vực hoạt động
Đơn vị: Trang trại
Năm 2008 2010 2011 2012 2014 2015 2016 2017
Tổng số 1179 2523 289 506 579 715 1138 955
TT trồng trọt 68 36 - - - - - -
TT chăn nuôi 385 685 272 419 505 642 1104 935
TT nuôi trồng TS 138 263 13 16 26 26 13 17
TT lâm nghiệp 16 10 0 0 0 0 0 0
TT tổng hợp 572 1529 4 68 44 43 21 44
Chỉ số phát triển %
Tổng số 100 213,9 11,4 175,1 110,2 123,4 159,1 87,4
TT trồng trọt 100 52,9 - - - - - -
TT chăn nuôi 100 177,9 39,7 154,0 121,6 127,1 171,9 84,6
TT nuôi trồng TS 100 190,5 4,9 123,0 100,0 100,0 50,0 130,7
TT lâm nghiệp 100 62,5 - - - - - -
TT tổng hợp 100 127,3 0,26 1700 89,7 97,7 48,8 209,5
Nguồn: Tổng hợp Niên giám Thống kê tỉnh Hải Dương 2011, 2017 và Phòng CN&XD, Cục
Thống kê tỉnh Hải Dương [13, tr.92; 15, tr.304; 17]
Năm 2011, theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT, áp dụng tiêu chí mới
thì số lượng TT giảm mạnh từ 2523 xuống chỉ còn 282, (giảm 89% so với năm
2010). Nhưng chủ yếu giảm mạnh ở TT kinh doanh tổng hợp (từ 1539 năm 2010
giảm còn 4 năm 2011); tương ứng, các TT chăn nuôi giảm từ 685 xuống còn 226,
80
các TT nuôi trồng thủy sản giảm từ 263 xuống còn 13. Tuy nhiên, để thích ứng với
sự thay đổi của đời sống kinh tế xã hội, các hộ nông dân tỉnh Hải Dương không
ngừng vươn lên sản xuất hàng hóa, quy mô lớn. Từ năm 2011 đến nay, số lượng TT
tăng nhanh chóng qua các năm, từ 282 TT (năm 2011), tăng lên 525 TT (năm
2013), 579 TT (năm 2014), hai năm sau tăng gấp đôi 1138 TT (năm 2016), năm
2017 còn 955 TT, giảm 173 TT so với năm 2016. Số TT này chủ yếu là các TT
chăn nuôi, hầu hết bỏ chuồng, không dám tái đàn vì giá thịt lợn hơi xuống quá thấp.
Trong vòng 7 năm, số lượng TT tăng gấp 3,4 lần, bình quân mỗi năm tăng 31,63%,
trong đó chủ yếu là sự phát triển nhanh chóng của các TT chăn nuôi: từ 272 TT
(năm 2011), tăng dần qua các năm, đến năm 2017 đạt 1104 TT, chiếm 96,3% tổng
số TT toàn tỉnh. Trang trại kinh doanh tổng hợp có diễn biến bất thường, năm 2011
chỉ có 4 TT, đến năm 2012 tăng mạnh lên đến 68 TT, nhưng giảm dần còn 21 TT
vào năm 2016, năm 2017 tăng lên 44 TT. Trang trại nuôi trồng thủy sản có thay đổi
qua các năm nhưng không đáng kể, năm 2017 có 17 TT, chiếm 1,14%. Điều đặc
biệt là không còn TT nào hoạt động trong lĩnh vực trồng trọt và lâm nghiệp.
Xét về tốc độ phát triển, các TT chăn nuôi luôn có tốc độ phát triển mạnh
nhất, thất thường từng năm ở giai đoạn đầu. Nhưng từ năm 2013 đến nay tốc độ
phát triển của TT chăn nuôi đi vào ổn định, năm sau cao hơn năm trước: Năm 2013
đạt đạt 99%, năm 2014 đạt 121%, năm 2015 đạt 127% và năm 2016 đạt 171%.
Tính cả giai đoạn (2011-2016), tốc độ tăng trưởng trung bình của các TT chăn nuôi
là 12%/năm. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng của các TT nuôi trồng thủy sản lại có
xu hướng giảm sút từ 190,5% vào năm 2010, giảm dần còn 50% vào năm 2016; các
TT tổng hợp có tốc độ tăng trưởng thất thường và có xu hướng giảm dần trong
những năm gần đây (xem hình 3.1).
- Sự phân bố của TT tỉnh Hải Dương theo địa bàn hoạt động.
+ Xét theo địa bàn hoạt động: Các TT phát triển mạnh và phân bố ở hầu
khắp các huyện, thị trong tỉnh nhưng không đều, năm 2010 tập trung chủ yếu ở
Nam Sách (677 TT), Ninh Giang (290 TT), Gia Lộc (285 TT), Chí Linh (239 TT),
Kinh Môn (192 TT), thành phố Hải Dương (180 TT). Đây là những địa bàn có điều
kiện khá thuận lợi về đất đai, khí hậu cho phát triển ngành chăn nuôi gia súc, gia
cầm và trồng trọt, đặc biệt là các vùng chuyên canh rau màu vụ đông phát triển rất
mạnh; Ở các huyện như Kim Thành, Ninh Giang, Thanh Hà, Tứ Kỳ lại có rất ít,
thậm chí cả huyện chỉ có 4 TT như ở Kim Thành.
81
Kể từ năm 2011 đến nay, số TT phát triển mạnh nhưng phân bố không đều
giữa các địa phương trong tỉnh, số TT tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi: thị xã
Chí Linh và huyện Kinh Môn, nơi có địa hình đồi núi, rất thuận lợi cho việc chăn thả
gia súc, gia cầm, chăn nuôi thủy sản nước ngọt và mở rộng quy mô sản xuất. Năm
2016 riêng thị xã Chí Linh có 296 TT, chiếm 26%, huyện Kinh Môn có 164 TT,
chiếm 14,4% số lượng TT của tỉnh. Tuy nhiên theo báo cáo kết quả điều tra nông lâm
nghiệp và thủy sản năm 2016, hầu hết các tranh trại ở miền núi hoạt động kém hiệu
quả hơn các trang trại ở các huyện đồng bằng. Trong ba năm trở lại đây, các huyện ở
khu vực đồng bằng như Kim Thành, Tứ Kỳ, Gia Lộc cũng có số lượng TT tăng đột
biến trên dưới 100 TT. Các huyện còn lại thay đổi không đáng kể (xem Bảng 3.4).
Hình 3.1: Sự biến động của các loại trang trại qua các năm
Nguồn: Tổng hợp Niên giám Thống kê tỉnh Hải Dương 2011, 2017 và Phòng CN&XD, Cục
Thống kê tỉnh Hải Dương [13, tr.92; 15, tr.304; 17]
- Lao động làm việc trong các trang trại
Trong 8 năm qua, kinh tế TT ở Hải Dương phát triển mạnh về số lượng, đã khai
thác có hiệu quả diện tích đất mặt nước, đất hoang hóa, đất ven sông, góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Nhưng chủ
yếu sử dụng lao động của bản thân mà ít thuê ở bên ngoài, bởi phần lớn TT ở tỉnh Hải
Dương có quy mô nhỏ. Tại thời điểm 1/7/2016, các TT sử dụng 2879 lao động, trong
82
đó lao động của chủ là 2434 người, chiếm 84,5%, lao động thuê ngoài thường xuyên là
445 người, chiếm 15,5%. Lao động bình quân trên một TT vốn đã ít, những năm gần
đây lại có xu gướng giảm, năm 2008 bình quân mỗi trang trại sử dụng 8 lao động, năm
2011 giảm xuống 3,7 lao động và còn 2,5 lao động năm 2016 (Phụ lục 5). Do phần lớn
là TT chăn nuôi, chủ TT đầu tư thiết bị, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quy
trình chăm sóc nên chỉ cần thuê ít lao động cũng có thể đáp ứng được yêu cầu công
việc, chứ không như các TT trồng trọt cần nhiều lao động.
Bảng 3.4: Số trang trại phân theo địa bàn hoạt động qua các năm
ĐVT: trang trại
2008 2010 2011 2013 2015 2016 2017
Toàn tỉnh 1179 2523 282 525 715 1138 995
H. Chí Linh 134 239 107 119 125 296 286
H. Kinh Môn 183 192 112 124 124 164 111
H. Kim Thành 4 94 15 105 114 121 117
H. Nam Sách 196 667 8 24 26 48 43
TP. Hải Dương 95 180 9 10 12 19 18
H. Thanh Hà 14 113 2 23 27 24 24
H. Cẩm Giàng 77 84 14 40 69 68 56
H. Bình Giang 101 161 - 3 22 35 40
H. Gia Lộc 177 285 2 2 55 92 74
H. Tứ Kỳ 20 35 8 41 72 148 137
H. Ninh Giang 12 290 2 10 10 60 37
H. Thanh Miện 166 173 3 24 62 63 59
Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Hải Dương 2011, 2017,
Cục Thống kê tỉnh Hải Dương [13, tr.92; 15, tr.303]
- Hiện trạng sử dụng đất của các TT: Cùng với sự tăng lên của số lượng TT
thì tổng diện tích đất của TT cũng tăng, nhưng bình quân diện tích đất trên một TT
trong vòng 8 năm qua thay đổi không đáng kể, bình quân mỗi TT chỉ có từ 1ha đến
1,5 ha, năm 2016 chỉ còn 1,01 ha một TT (Phụ lục 5). Theo tiêu chí quy định tại
Thông tư số 27/2011 của Bộ NN&PTNT, thì diện tích đất của các TT đang sử dụng
là quá hạn hẹp. Tuy nhiên trong những năm gần đây, chỉ có TT chăn nuôi hoạt
động, với đặc thù không cần nhiều quỹ đất như TT trồng trọt nen đây là điều dễ
hiểu ở Hải Dương.
- Kết quả đạt được của TT
+ Số lượng gia súc gia cầm của TT: Như trên đã phân tích, những năm gần
đây số lượng TT chăn nuôi tăng mạnh, các TT chủ yếu chăn nuôi lợn, gà, nuôi cá
83
nước ngọt và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đàn của tỉnh, tại thời điểm 1/7/2016, các
TT chăn nuôi có 108.179 con lợn, chiếm 17% tổng đàn lợn; 1.629,3 nghìn con gia
cầm, chiếm 17,1% tổng đàn gia cầm toàn tỉnh, tạo ra khối lượng lớn sản phẩm
NLTS cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ của thị trường [16, tr.26].
+ Giá trị thu được từ nông lâm thủy sản của các trang trại: Theo Báo cáo sơ
bộ kết quả tổng điều tra nông thôn, NN và thủy sản tỉnh Hải Dương năm 2016, giá
trị thu được từ NLTS của các TT tăng 26,6 lần so với năm 2011, bình quân thu nhập
2.288,1 triệu đồng/TT/năm. Trong đó các TT ở huyện miền núi Chí Linh, Kinh
Môn có thu nhập bình quân thấp hơn các TT ở các huyện đồng bằng. Năm 2016 các
TT ở miền núi có thu nhập trung bình từ 1656 đến 1833 triệu đồng/TT thì ở các
huyện đồng bằng có thu nhập trung bình cao hơn nhiều. Điển hình Thanh Hà là
huyện có số lượng TT ít nhất trong tỉnh nhưng giá trị thu từ NLTS bình quân trong
năm của mỗi TT trong huyện rất cao, năm 2011 chỉ có 432,5 triệu đồng/TT/năm,
đến năm 2016 tăng lên 7.318,9 triệu đồng/TT/năm, trong vòng 5 năm tăng 17,28
lần. TT ở các huyện: Nam Sách, Cẩm Giàng, Bình Giang cũng cho thu nhập lớn
hơn mức trung bình của tỉnh từ 3000 đến 4000 triệu đồng mỗi năm (xem phụ lục 5).
+ Thu nhập của trang trại: Cùng với sự gia tăng của số lượng TT và sự
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, sự mạnh dạn học hỏi tiếp thu tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất nên thu nhập của các TT tỉnh Hải Dương trong vòng 8 năm
qua tăng mạnh. Năm 2008 thu nhập của toàn bộ TT là 62.244 triệu đồng, bình quân
thu nhập 52,8 triệu đồng một TT. Sau 8 năm tổng thu nhập của toàn bộ TT trong
tỉnh năm 2016 là 2.453,7 tỷ đồng, thu nhập bình quân mỗi TT đạt 2156 triệu đồng,
tăng 41,5 lần so với năm 2008 (xem Phụ lục 4).
Qua phân tích cho thấy, quỹ đất và lao động bình quân một TT sử dụng rất
hạn hẹp, nhưng thu nhập bình quân một TT lại rất cao, và tăng liên tục trong những
năm qua, cho thấy hiệu quả hoạt động sản xuất của TT là rất lớn.
3.2.1.3. Đối với hình thức là doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân trong
nông nghiệp
- Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
+ Xét theo nhóm ngành kinh tế
Trong 8 năm qua, số lượng DN trên địa bàn tỉnh Hải Dương tăng mạnh,
nhưng không đều giữa các giai đoạn. Giai đoạn 2008-2010 số lượng DN tăng 577
84
DN, bình quân mỗi năm tăng 129 DN. Năm 2011-2012 do tác động của khủng
hoảng kinh tế thế giới, nhiều DN lâm vào tình trạng phá sản hoặc ngừng hoạt động,
trong 2 năm liền cả tỉnh chỉ tăng thêm 15 DN. Kể từ năm 2014 khi nền kinh tế dần
đi vào ổn định và phục hồi, số DN trong tỉnh tăng rất nhanh, năm 2013 có 4469 DN,
đến năm 2015 là 5114 DN, năm 2017 đạt 6017 DN, trong vòng 4 năm tăng 1548
DN, bình quân mỗi năm tăng 387 DN (xem Bảng 3.5).
Bảng 3.5: Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Hải Dương
phân theo nhóm ngành kinh tế
Năm 2008 2010 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Tổng số DN 2744 3321 4329 4469 4587 5114 5759 6017
- DN NLTS 344 333 340 343 346 342 320 325
Cơ cấu (%) 12,5 9,3 7,8 7,6 7,5 6,7 5,5 5,4
Trong đó
NN & DV có liên quan 335 321 319 321 323 325 306 311
LN & DV có liên quan 0 0 0 1 2 1 0 0
KT & NT thủy sản 9 12 21 21 21 16 14 14
- DN CN & XD 1181 1393 1563 1547 1607 1795 2089 2178
Cơ cấu (%) 43,0 39,2 36,1 34,6 35,0 35,1 36,4 36,1
- DN TM & DV 1219 1825 2426 2579 2634 2977 3350 3514
Cơ cấu (%)) 44,5 51,5 56,1 57,8 57,4 58,2 63,5 58,4
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương 2011, 2016 và Phòng CN & XD,
Cục Thống kê tỉnh Hải Dương cung cấp [13, tr.266; 14, tr.95; 17]
Tuy nhiên số lượng DN chỉ tập trung tăng mạnh ở hai nhóm ngành CN &
XD, thương mại và dịch vụ. Nhóm ngành NLTS, số lượng DN đã ít, lại tăng giảm
thất thường và có xu hướng giảm dần cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng số DN
của tỉnh. Năm 2008 cả tỉnh có 344 DN nông lâm thủy sản đạt 12,5%, đến năm 2015
còn 342 DN, đạt 6,7% và năm 2017 còn 325 DN, đạt 5,4%. Trong bản thân nhóm
ngành NLTS, các DN cũng chủ yếu tập trung ở phân ngành NN và dịch vụ có liên
quan, có tới 311/325 DN hoạt động trong lĩnh vực này, còn lại 14 DN hoạt động
trong lĩnh vực khai thác và nuôi trồng thủy sản.
+ Xét theo loại hình DN.
Các DN thuộc KTTN tham gia trong lĩnh vực NN cũng rất hạn chế: năm
2017 có 325 DN NLTS thì có đến 288 DN tập thể, chiếm 88%; 3 DN nhà nước,
85
chiếm 0,9%; còn lại 34 DN thuộc KTTN, chiếm 10%. Trong tổng số 34 ND thuộc
KTTN trong NN, có 7 DN tư nhân, 13 công ty TNHH, 14 công ty cổ phần, không
có công ty hợp danh và DN FDI nào tham gia ở lĩnh vực NN. Đây là một hạn chế
rất lớn, để có thể phát triển NN, trong những năm tới, chính quyền tỉnh Hải Dương
cần có biện pháp để thu hút DN FDI đầu tư vào NN. Dù vậy, trong những năm qua
cơ cấu DN NLTS tỉnh Hải Dương cũng có chuyển biến tích cực, cơ cấu DN nhà
nước trong NN có xu hướng giảm dần từ 1,5% năm 2008 giảm xuống còn 0,9%
năm 2017, DN tập thể cũng tương tự tự giảm từ 94% xuống còn 88% năm 2017.
Ngược lại cơ cấu các DN thuộc KTTN lại tăng dần từ 5% năm 2008 tăng lên 10%
năm 2017, cao hơn 9 lần so với mức trung bình của cả nước. Điều này cho thấy tín
hiệu đáng mừng về sự phát triển các DN thuộc KTTN trong NN ở tỉnh Hải Dương
(xem Bảng 3.6).
Bảng 3.6: Số lượng và cơ cấu doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản
tỉnh Hải Dương phân theo loại hình doanh nghiệp
ĐV: Doanh nghiệp
Năm 2008 2010 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Tổng số DN NLTS 344 333 340 342 346 342 320 325
1. DN Nhà nước 5 4 4 4 4 4 3 3
2. Hợp tác xã 322 315 314 312 299 308 288 288
3. DN thuộc KTTN 17 14 22 32 43 30 29 34
- DN tư nhân 4 3 4 6 7 6 4 7
- CT. TNHH 6 5 9 17 21 10 11 13
- CT cổ phần 7 6 9 9 15 14 14 14
- CT hợp danh 0 0 0 0 0 0 0 0
4. DN FDI 0 0 0 0 0 0 0 0
Cơ cấu (%)
1. DN Nhà nước 1.5 1.2 1.2 1.2 1.2 1.2 0.9 0,9
2. Hợp tác xã 94 95 92 91 86 90 90 88
3. DN thuộc KTTN 5 4 6 9 12 9 9 10
4. DN FDI 0 0 0 0 0 0 0 0
Nguồn: Phòng CN & XD, Cục Thống kê tỉnh Hải Dương [17]
86
- Về quy mô doanh nghiệp
+ Quy mô lao động
Lao động trong các DN NLTS tỉnh Hải Dương trong những năm qua cũng có
xu hướng giảm cùng với số lượng DN. Năm 2008 các DN giải quyết việc làm cho
gần 9699 lao động, đến năm 2017 giảm xuống còn 6760 lao động, trong đó lao động
chủ yếu làm việc trong các DN nhà nước và các HTX. Các HTX hoạt động kém hiệu
quả nên số lao động trung bình trong các DN này giảm dần từ 24 lao động năm 2008
giảm xuống còn 16 lao động năm 2017. Đối với DN nhà nước, số lao động bình quân
trong mỗi DN có tăng nhưng không nhiều từ 398 lao động năm 2008 tăng lên 587 lao
động năm 2017. Ngược lại, số lao động làm việc trong các DN thuộc KTTN trong
NN tuy không nhiều, nhưng trong những năm gần đây đang có xu hướng thu hút
thêm nhiều lao động tham gia. Năm 2008, trong tổng số 17 DN thuộc KTTN chỉ thu
hút được 141 lao động làm việc, bình quân mỗi DN tạo ra 8 vị trí việc làm.
Bảng 3.7: Lao động trong các doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản
tỉnh Hải Dương qua các năm
ĐV: Người
Năm 2008 2010 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Tổng số 9699 8246 11264 7880 7235 7785 6653 6766
1.DN Nhà nước 1989 1.859 1.941 1.950 1.943 1.917 1.766 1761
Lao độngTB/DN 398 465 485 490 486 479 589 587
2. Hợp tác xã 7569 6.224 9.072 5.743 5.078 5.645 4.476 4476
Lao động TB/DN 24 20 29 18 17 18 16 16
3. DN thuộc KTTN 141 163 251 187 214 223 411 529
Lao động TB/DN 8 12 11 6 5 7 14 16
- DN tư nhân 25 30 33 34 20 28 24 49
Lao động TB/DN 6 10 8 6 3 5 6 7
- Công ty TNHH 35 43 91 61 79 80 97 130
Lao động TB/DN 5.8 8.6 10.1 3.6 3.8 8.0 8.8 10
- Công ty cổ phần 81 90 127 92 115 115 290 351
Lao động TB/DN 11.6 15.0 14.1 10.2 7.7 8.2 20.7 25
Nguồn: Phòng CN & XD, Cục Thống kê tỉnh Hải Dương [17]
Năm 2017 cùng với sự tăng lên của số lượng DN thì số lao động tham gia
trong khu vực KTTN ngày càng nhiều, có đến 529 lao động làm việc trong 34
DN, bình quân mỗi DN tạo ra 15 vị trí việc làm cho người lao động. Tuy là con số
rất khiêm tốn nhưng cũng cho thấy sự phát triển của các DN thuộc KTTN trong
87
NN tỉnh Hải Dương. Trong đó, năm 2008 loại hình Công ty TNHH chỉ có 5,8 lao
động/DN thì đến năm 2017 tăng lên 10 lao động/DN; loại hình Công ty cổ phần
cũng có số lao động tăng tương ứng theo các năm từ 11,6 lao động/DN tăng lên 25
lao động/DN. Điều đó cho thấy các DN thuộc KTTN trong NN đang phát triển và
có xu hướng mở rộng quy mô, thu hút thêm nhiều lao động vào làm việc. Xu
hướng này càng rõ hơn khi xem xét tốc độ tăng của quy mô nguồn vốn trong các
DN thuộc KTTN trong NN (xem Bảng 3.7).
+ Quy mô nguồn vốn
Trong khoảng thời gian từ 2008 - 2017, tổng nguồn vốn (bao gồm cả vốn cố
định và vốn lưu động) của các DN NLTS tỉnh Hải Dương tăng liên tục, từ 1136 tỷ
đồng tăng lên 4070 tỷ đồng. Trong đó, các DN nhà nước được ưu đãi và dễ tiếp cận
nguồn vốn nên quy mô vốn của các DN này chiếm tỷ trọng lớn nhất, năm 2017 đạt
3632 tỷ đồng, chiếm 89,2%; vốn của các DN tập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_kinh_te_tu_nhan_trong_nong_nghiep_tai_tinh_hai_duong.pdf