MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU . 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu . 8
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu . 35
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ DỊCH
VỤ QUẢNG CÁO THưƠNG MẠI TRỰC TUYẾN TRÊN MẠNG
INTERNET. 42
2.1. Khái quát lý luận về dịch vụ quảng cáo thương mại trực tuyến
trên mạng internet . 42
2.2. Lý luận pháp luật về dịch vụ quảng cáo thương mại trực tuyến
trên mạng internet . 63
Chương 3: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ QUẢNG CÁO THưƠNG
MẠI TRỰC TUYẾN TRÊN MẠNG INTERNET TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY. 91
3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về dịch vụ quảng cáo thương
mại trực tuyến trên mạng internet ở Việt Nam hiện nay . 91
3.2. Thực trạng thực thi pháp luật về dịch vụ quảng cáo thương mại
trực tuyến trên mạng internet ở Việt Nam hiện nay . 110
Chương 4: PHưƠNG HưỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ QUẢNG CÁO THưƠNG MẠI TRỰC
TUYẾN TRÊN MẠNG INTERNET Ở VIỆT NAM . 127
4.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về dịch vụ quảng cáo thương mại trực
tuyến trên mạng internet . 127
190 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 558 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật về dịch vụ quảng cáo thương mại trực tuyến trên mạng internet tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác chủ thể còn lại trong nền kinh tế như công chúng, người dùng internet
(người tiếp nhận quảng cáo) hay các cơ quan nhà nước với vai trò quản lý và
hỗ trợ hoạt động của người quảng cáo. Ngược lại, người quảng cáo cũng có
những nghĩa vụ pháp lý cụ thể với cơ quan nhà nước và người tiếp nhận
quảng cáo. Trong một số trường hợp, các chủ thể không chỉ chịu trách nhiệm
riêng dựa trên vai trò của mình trong hoạt động QCTMTT mà có thể liên đới
để cùng nhau chịu trách nhiệm khi xảy ra các hành vi thực hiện không đúng
nghĩa vụ của mình.
Mặt khác, Luật Thương mại 2005 tiếp cận dưới góc độ mục đích của
chủ thể trong các quan hệ hợp đồng nên gọi tên các chủ thể như vậy, còn Luật
Quảng cáo 2012 lại gọi tên các chủ thể dưới góc độ hoạt động mà các chủ thể
đó thực hiện nên chia thành: Người quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng
cáo, người phát hành quảng cáo, người chuyển tải sản phẩm quảng cáo, người
tiếp nhận quảng cáo và người cho thuê địa điểm, phương tiện quảng cáo.
2.2.5.3. Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại trực tuyến trên mạng
internet
Trong Luận án này, tác giả không đề cập đến những hợp đồng thiết kế
sản phẩm quảng cáo mà các công ty thiết kế hoàn thành dựa trên yêu cầu từ
người quảng cáo vì hợp đồng này đối với phương thức quảng cáo truyền
thống cũng vậy, không có sự khác biệt với QCTMTT, hầu như không ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện DVQCTMTT. Kết quả của hợp đồng này,
người quảng cáo đã có được thông điệp, sản phẩm quảng cáo để triển khai
QCTMTT trên mạng internet.
81
Luật Thương mại 2005 có đưa ra hai loại hợp đồng trong hoạt động này
là: Hợp đồng dịch vụ QCTM giữa bên thuê QCTM và bên cung ứng dịch vụ
QCTM; và hợp đồng phát hành QCTM giữa người phát hành QCTM và bên
thuê phát hành quảng cáo. Còn trong Luận án, tác giả sẽ xem xét cụ thể hơn
các loại hợp đồng có thể xuất hiện trong quan hệ pháp luật giữa các chủ thể
của DVQCTMTT. Qua phần chủ thể đã đề cập phía trên, có thể thấy mối
quan hệ giữa ba chủ thể cơ bản của QCTMTT được thực hiện dựa trên hai
loại hợp đồng cơ bản là hợp đồng cung ứng dịch vụ QCTM và hợp đồng phát
hành QCTM.
Một là, hợp đồng cung ứng dịch vụ quảng cáo thương mại trực tuyến
Đây là hợp đồng được kí kết giữa bên cung ứng DVQCTMTT và bên
thuê DVQCTMTT. Trong đó, bên thuê DVQCTMTT chính là người quảng
cáo, những người có nhu cầu thực hiện chiến dịch quảng cáo, đưa thông điệp
quảng cáo của mình đến công chúng, người dùng internet. Bên cung ứng dịch
vụ quảng cáo là các mạng lưới quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng
cáo, những chủ thể được phép thực hiện các dịch vụ quảng cáo theo quy định
của pháp luật chuyên ngành.
- Về hình thức, hợp đồng này phải được ghi nhận dưới hình thức văn
bản theo quy định của Luật Thương mại 2005.
- Về nội dung, người kinh doanh quảng cáo có thể thực hiện nhiều giai
đoạn trong DVQCTMTT hay nói cách khác, thường là họ cung cấp các “giải
pháp tổng thể” cho người quảng cáo, cụ thể là: (i) Phát hành, đăng tải thông
điệp quảng cáo bằng những cách thức, phương tiện khác nhau như tìm kiếm
lựa chọn những người phát hành quảng cáo có những “vị trí đẹp” trên các
trang web, ứng dụng, video... của các nền tảng công nghệ hoặc là sử dụng
chính những nền tảng công nghệ của mình để thực hiện những công việc nhất
định như đưa lên các banner của các trang web (nếu người kinh doanh quảng
cáo có các trang web), đưa vào các từ khóa tìm kiếm (nếu người kinh doanh
quảng cáo có các công cụ tìm kiếm); (ii) Theo dõi giám sát hoạt động của
82
chiến dịch quảng cáo và gửi báo cáo định kỳ hay cũng có thể có sự điều chỉnh
trong việc phát hành quảng cáo nếu thấy rằng chiến dịch chưa có hiệu quả;
(iii) Đồng hành cùng thương hiệu, tư vấn và xử lý khi có sự cố thông tin đối
với thương hiệu... cũng như thực hiện các công việc liên quan đến chiến dịch
truyền thông thương hiệu cho người quảng cáo.
Hai là, hợp đồng phát hành quảng cáo (hợp đồng hợp tác quảng cáo)
- Hợp đồng với một bên là người phát hành quảng cáo:
Với mục đích chính để phát hành thông điệp, sản phẩm quảng cáo thì
một bên chủ thể trong hợp đồng này là người phát hành quảng cáo, người này
đã sở hữu được những sản phẩm công nghệ trên mạng internet (trang web, trò
chơi, ứng dụng, video) có thể đặt thông điệp quảng cáo vào đó. Hoạt động
chính của người này là làm cho sản phẩm về mặt công nghệ của mình phổ biến
hơn đối với công chúng, song song với đó, thông điệp quảng cáo gắn kèm cũng
sẽ phổ biến đến công chúng, các khách hàng tiềm năng trên mạng internet.
Hợp đồng phát hành quảng cáo có thể được giao kết trực tiếp giữa
người phát hành quảng cáo này với chính người quảng cáo khi người quảng
cáo đã nhắm sẵn là chiến dịch quảng cáo này sẽ được phát hành trên một kênh
hay một sản phẩm nào đó, tức là đã có sự lựa chọn cụ thể từ người quảng cáo.
Mặt khác, hợp đồng này cũng có thể phát sinh giữa người phát hành
quảng cáo với các mạng lưới quảng cáo, những người kinh doanh quảng cáo.
Loại hợp đồng này thường phổ biến hơn do người quảng cáo thường tìm đến
các mạng lưới quảng cáo để dễ dàng thông qua mạng lưới mà tiếp cận được
nhiều vị trí đặt quảng cáo, thay vì phải làm việc với từng người phát hành
quảng cáo đơn lẻ. Trong trường hợp này, các mạng lưới thường đi “thu mua”
sẵn nhiều vị trí đặt quảng cáo khi thấy những người phát hành quảng cáo có
tiềm năng.
- Hợp đồng với một bên là người chuyển tải sản phẩm quảng cáo:
Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo là một đối tượng đặc biệt khi sử
dụng chính mình, có thể là cơ thể hay những khả năng khác của bản thân để
83
đưa sản phẩm quảng cáo đến công chúng có thể chính là người kinh doanh
dịch vụ quảng cáo để ký kết hợp đồng dịch vụ quảng cáo trong đó sử dụng
chính mình là phương tiện quảng cáo. Tương tự như ở trên, nếu người phát
hành quảng cáo có những vị trí để gắn quảng cáo thì người chuyển tải sản
phẩm quảng cáo sẽ gắn quảng cáo với mình. Đây cũng là trường hợp mà
những người nổi tiếng hợp tác với người quảng cáo để quảng cáo trực tiếp
cho họ hay hợp tác với các mạng lưới quảng cáo giống như người phát hành
quảng cáo.
Các hợp đồng phát hành quảng cáo này cũng được gọi là hợp đồng hợp
tác quảng cáo giữa các bên, nhưng nội dung cơ bản thì vẫn thể hiện mục đích
phát hành các thông điệp, sản phẩm quảng cáo qua các phương tiện, phương
thức nhất định trên mạng internet.
Ba là, hợp đồng đại lý quảng cáo
Các mạng lưới quảng cáo của nước ngoài, sở hữu các nền tảng công
nghệ được sử dụng ngay tại Việt Nam cũng đang tiến hành DVQCTMTT đối
với người dùng internet Việt Nam nhưng về mặt pháp luật thì các chủ thể này
không được phép tiến hành quảng cáo tại Việt Nam nên phát sinh ra những hợp
đồng đại lý quảng cáo được giao kết giữa mạng lưới quảng cáo của nước ngoài
với các mạng lưới quảng cáo trong nước, các công ty quảng cáo trong nước.
2.2.5.4. Quản lý nhà nước trong dịch vụ quảng cáo thương mại trực
tuyến trên mạng internet
Những rủi ro tiềm ẩn đã được trình bày ở phần trên đối với các chủ thể
tham gia vào QCTMTT là một vấn đề lớn cần lưu tâm từ phía Nhà nước, cần
có sự tác động từ Nhà nước, nói cách khác là một cơ chế quản lý nhà nước đối
với DVQCTMTT trên mạng internet để vừa phát huy những lợi ích của
QCTMTT cũng như kiểm soát được những bất trắc mà loại hình dịch vụ này
mang lại cho xã hội. Vì vậy, tác giả cũng nghiên cứu về cơ chế quản lý của
các cơ quan nhà nước đối với DVQCTMTT trên mạng internet. Các cơ quan
nhà nước có trách nhiệm quản lý DVQCTMTT trên mạng internet theo phân
84
công nhiệm vụ của cơ quan được quy định trong các văn bản pháp luật, theo
ngành, theo lĩnh vực.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà
nước về quảng cáo theo thẩm quyền. Theo quy định tại Nghị định
181/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo
thì trách nhiệm quản lý về quảng cáo nói chung thuộc về Bộ VHTTDL. Bộ
này chủ quản về việc xây dựng các cơ chế, cơ chế, chính sách, pháp luật về
hoạt động quảng cáo và các nhiệm vụ khác về quản lý quảng cáo như thành
lập Hội đồng thẩm định và tổ chức thẩm định sản phẩm quảng cáo; thanh tra,
kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm về quảng cáo theo quy định của pháp
luật; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quảng cáo Trong việc thực hiện nhiệm
vụ của mình, Bộ VHTTDL cũng nhận thức rõ sự phối hợp với các Bộ có liên
quan như Bộ Thông tin và Truyền thông trong việc thực hiện quản lý quảng
cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích
hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin.
Ngoài ra, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng phối hợp
với Bộ VHTTDL quản lý nhà nước về quảng cáo; quản lý nhà nước về nội
dung quảng cáo đối với các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt thuộc
ngành, lĩnh vực được phân công. Bên cạnh đó, theo quy định của Luật
Thương mại 2005, với vai trò quản lý nhà nước đối với các hoạt động xúc tiến
thương mại, trong đó bao gồm hoạt động QCTM, Bộ Công Thương cũng chịu
trách nhiệm quản lý DVQCTMTT. Tuy vậy, Nghị định số 81/2018/NĐ-CP
quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại lại chỉ
điều chỉnh đối với một số hoạt động xúc tiến thương mại, bao gồm khuyến
mại và hội chợ, triển lãm thương mại mà hầu như không nhắc đến hoạt động
quảng cáo thương mại được quy định trong Luật Thương mại 2005.
Với trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương, đi sâu đi
sát vào tình hình tại từng địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng có trách
85
nhiệm quản lý chung đối với hoạt động quảng cáo từ tổ chức, hướng dẫn thực
hiện các quy định của pháp luật về quảng cáo tại địa phương; thanh tra, kiểm
tra và xử lý vi phạm về hoạt động quảng cáo theo thẩm quyền và báo cáo
định kỳ việc quản lý hằng năm cho Bộ VHTTDL.
Nhìn chung, cơ chế quản lý dịch vụ QCTM ở nước ta hầu như chỉ dựa
vào sự quản lý từ phía cơ quan nhà nước, sự tham gia của các tổ chức nghề
nghiệp vào việc quản lý quảng cáo mang tính chất gián tiếp, chủ yếu dừng lại
ở việc tư vấn chính sách pháp luật hay tổ chức các hoạt động bổ trợ chứ
không tham gia một cách trực tiếp vào.
Sau đây, ta xem xét cơ chế quản lý quảng cáo ở một số nước trên thế giới:
* Ở Singapore
Về mặt lập pháp, Singapore là một trong số ít những nước trên thế giới
xây dựng Bộ luật quảng cáo và kèm theo một loạt phụ lục, trong đó Bộ luật
quảng cáo sẽ đưa ra những nguyên tắc chung, cơ bản còn các phụ lục sẽ giúp
điều chỉnh cụ thể hơn đối với các hình thức khác nhau của hoạt động quảng
cáo. Các phụ lục kèm theo giúp Nhà nước dễ dàng đưa ra các quy định thích
nghi với sự thay đổi nhanh chóng của hoạt động quảng cáo cũng như giúp các
chủ thể công dân, tổ chức có thể tiếp cận và áp dụng pháp luật dễ hơn trong
thực tiễn cuộc sống. Bộ luật quảng cáo của Singapore cũng hướng đến các đối
tượng áp dụng chính là người quảng cáo, bên bán hàng khuyến mại và các cơ
quan thông tin đại chúng. Ngoài ra, cần chú ý, một trong các nguyên tắc áp
dụng của Bộ luật nhắc đến phạm vi điều chỉnh đối với hoạt động quảng cáo là
tất cả những quảng cáo hiện diện trên lãnh thổ Singapo mà không phân biệt
nước xuất xứ [118].
Cơ quan quản lý chất lượng quảng cáo tại Singapore (ASAS) được
thành lập vào năm 1976 với mục đích chính để thúc đẩy quảng cáo một cách
đạo đức ở Singapore, là một cơ chế tự điều chỉnh trong ngành quảng cáo, là
một hội đồng tư vấn cho Hiệp hội Người tiêu dùng Singapore (CASE). ASAS
điều chỉnh các hoạt động quảng cáo thông qua Quy tắc thực hành quảng cáo
86
Singapore (SCAP) với nhận thức rằng trách nhiệm đảm bảo quảng cáo trung
thực nằm ở cả người quảng cáo và người tiêu dùng [117]. Điều này hoạt động
vì lợi ích của cả người quảng cáo và người tiêu dùng vì nó đảm bảo rằng
thông qua sự công bằng, có sự cân bằng về niềm tin và trách nhiệm giữa hai
bên. Hội đồng ASAS bao gồm đại diện từ các người quảng cáo, các đơn vị đại
lý quảng cáo, cơ quan của Chính phủ, chủ các phương tiện truyền thông và
các tổ chức hỗ trợ khác.
Về mặt thẩm quyền, đối với bất kỳ hành vi quảng cáo nào vi phạm quy
định của Bộ luật quảng cáo, ASAS có quyền yêu cầu người quảng cáo hoặc tổ
chức quảng cáo sửa đổi hoặc rút lại quảng cáo đó, giải quyết các khiếu nại, tố
cáo liên quan đến hoạt động quảng cáo và một số nhiệm vụ khác. Ngoài các biện
pháp xử lý trên, ASAS còn có thể công khai thông tin kết quả điều tra về những
hành vi vi phạm quảng cáo để người tiêu dùng được biết [118]; từ đó, người tiêu
dùng có thêm một cơ sở để đánh giá, lựa chọn sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nào
uy tín, không có những hành vi quảng cáo gian dối với người tiêu dùng.
* Ở Vương quốc Anh
Quy định quảng cáo ở Anh có nhiều hình thức khác nhau, bao gồm hệ
thống tự quản lý tiêu chuẩn được thiết lập và tôn trọng, tồn tại bên cạnh các
luật bao gồm Bảo vệ người tiêu dùng khỏi Quy định giao dịch không lành
mạnh và Bảo vệ doanh nghiệp khỏi Quy định tiếp thị sai lệch. Các cơ quan
quản lý khác nhau đóng vai trò khác nhau bao gồm ASA - quản lý hệ thống tự
quản lý [119], văn phòng Tiêu chuẩn Giao dịch của chính quyền địa phương
và Cơ quan Thị trường và Cạnh tranh (CMA). Mặc dù những người quảng
cáo có thể có các thỏa thuận hợp lý thường xuyên với ASA và Tiêu chuẩn
giao dịch, CMA tập trung vào các vấn đề có khả năng làm méo mó toàn bộ thị
trường. ASA được CAP thành lập vào năm 1962, là cơ quan quản lý quảng
cáo, chịu trách nhiệm về vấn đề quảng cáo trên cơ sở Bộ luật Quảng cáo. Từ
năm 1988, ASA có thêm thẩm quyền giải quyết khiếu nại liên quan đến quảng
cáo sai lệch và quảng cáo không bình đẳng dựa trên việc áp dụng Quy định về
87
quảng cáo sai lệch. Hiện nay, những khiếu nại tương tự được xử lý dựa trên
cơ sở của Quy định về Thương mại bất bình đẳng và Bảo vệ người tiêu dùng
và Quy định về Bảo vệ kinh doanh và Tiếp thị sai lệch năm 2008. Hơn 40
năm sau khi thành lập, hoạt động với quy chế tự điều chỉnh đối với quảng cáo
không chuyển tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, ASA bắt đầu chịu
trách nhiệm cả về quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng. Từ năm
2010 đến nay, hệ thống tự điều chỉnh trong quản lý quảng cáo đã thay đổi phù
hợp với sự thay đổi trong xã hội và sự phát triển của các phương tiện thông
tin đại chúng [118].
Tại Anh, ngành quảng cáo chịu sự điều chỉnh từ rất nhiều luật và các
văn bản khác nhau. Luật bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư chi phối việc thu
thập và sử dụng dữ liệu cá nhân để tiếp thị trực tiếp và có khả năng tác động
đến phân tích, nhắm mục tiêu lại và các loại quảng cáo hành vi trực tuyến
khác. Sự ra đời của Quy định bảo vệ dữ liệu chung vào tháng 5 năm 2018 có
ý nghĩa lớn, đặc biết đối với nhiều người quảng cáo, các nhà đại lý và tất cả
các doanh nghiệp còn chưa tuân thủ các quy định này.
* Ở Hoa Kỳ
Việc tiếp thị và quảng cáo trên Internet đều phải tuân theo luật, cũng
như bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác Các quy tắc cơ bản được thực
thi bởi FTC theo Đạo luật Ủy ban Thương mại Liên bang. FTC có nhiệm vụ
đưa ra các tuyên bố chính sách, hướng dẫn chi tiết, hội thảo và các thông báo
hiện tại cho các quy định quảng cáo. Đối với tiếp thị và tiếp thị trên Internet, có
một bộ luật hoàn toàn mới để bảo vệ quyền riêng tư của người tiêu dùng và đảm
bảo quảng cáo trực tuyến trung thực [120]. Những luật bảo vệ người tiêu dùng
áp dụng cho các hoạt động thương mại trên các phương tiện truyền thông khác
cũng áp dụng cho các doanh nghiệp internet. Điều quan trọng là việc tiết lộ dữ
liệu về các điều khoản của giao dịch phải được đặt gần với yêu cầu.
88
* Ở Trung Quốc
Trong nhiều năm qua, Chính phủ Trung Quốc đã chuyển sự tập trung
sang việc quy định chặt chẽ hơn việc quảng cáo và gần đây là quảng cáo trực
tuyến. Nối tiếp việc sửa đổi Luật quảng cáo được thực hiện vào năm 2015,
Cục Quản lý Công nghiệp và Thương mại (SAIC) mới ban hành văn bản
“Các biện pháp tạm thời cho Quản trị Quảng cáo Internet” (phần Phụ lục),
bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1 tháng 9 năm 2016 [122]; trong đó, Trung Quốc
ngầm thể hiện sự kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các người quảng cáo muốn
quảng bá hàng hóa, dịch vụ của mình tại đất nước này. Luật quảng cáo này
được áp dụng công bằng với cả các công ty Trung Quốc cũng như các công ty
nước ngoài tại đây. Các quy định về quảng cáo này được soạn lại từ Luật
Quảng cáo năm 1994 và dài gấp đôi bản cũ. Nó được ban hành để tăng cường
việc bảo vệ người tiêu dùng và có những quy định mạnh mẽ hơn đối với các
người quảng cáo. Quy định mới đã làm rõ nội dung nào được coi là quảng cáo
trên Internet, trực tiếp đưa ra các quy tắc cho các đơn vị quảng cáo trực tuyến,
và phác thảo các biện pháp điều tra cũng như hình phạt cho những người vi
phạm [121]. Do tính phổ biến của quảng cáo trực tuyến tại Trung Quốc, các
quy định sẽ có tác động rộng rãi đến hành động của các người quảng cáo và
nhà khai thác nền tảng.
2.2.5.5. Bảo vệ quyền lợi của người dùng internet trong quảng cáo
thương mại trực tuyến trên mạng internet
Người dùng internet trong quá trình sử dụng internet của mình gặp phải
các QCTMTT trên mạng internet được cài đặt, phân phối tự động thông qua
các mã quảng cáo trên các trang web, các trò chơi mình tham gia. Người dùng
internet do đó đóng vai trò là người tiếp nhận quảng cáo theo quy định của
Luật Quảng cáo 2012. Trong quá trình tương tác với các QCTMTT, người
dùng internet – người tiếp nhận quảng cáo có thể trở thành người tiêu dùng
trong thương mại điện tử khi nhờ thông điệp quảng cáo mà mình tiếp nhận trở
thành người mua hàng hóa, sản phẩm, sử dụng dịch vụ được quảng cáo.
89
Là đối tượng thụ động trong hoạt động QCTM này, pháp luật chủ yếu
quy định về quyền của chủ thể theo hướng bảo vệ lợi ích cho chủ thể, còn
nghĩa vụ chỉ là nghĩa vụ chứng minh thiệt hại nếu muốn đòi bồi thương cho
thiệt hại của mình gây ra do quảng cáo. Theo đó, người tiếp nhận quảng cáo
thực hiện việc mua hàng hóa, sản phẩm, sử dụng dịch vụ được quảng cáo thì
cũng như những người tiêu dùng khác thường gặp phải vấn đề đầu tiên là việc
được cung cấp thông tin sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ không chính xác, gây
nhầm lẫn dẫn đến việc quyền lợi trực tiếp bị xâm hại. Vấn đề này được quy
định ngay tại Luật Quảng cáo cũng như có thể áp dụng các quy định về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Vấn đề thứ hai có thể gặp phải ở tất cả người dùng internet tiếp nhận
quảng cáo dù là người tiêu dùng hay không: Để đặt các quảng cáo tự động
một cách có hiệu quả nhất (tức là tìm đến đúng khách hàng mục tiêu), những
đơn vị phân phối, phát hành quảng cáo đã sử dụng những cách thức nhất định
để thu thập thông tin về sở thích, hoạt động của người đó thông qua những
hoạt động của họ trên internet. Đây không phải là một vấn đề hoàn toàn mới
mẻ. Trong thực tế đối với các hoạt động quảng cáo truyền thống thì người
phát hành quảng cáo cũng đã thực hiện những nghiên cứu, khảo sát nhất định
về người tiêu dùng để phát hành quảng cáo tại những địa điểm phù hợp nhất,
tiềm năng nhất. Tuy nhiên, trong môi trường internet thì việc tìm ra đối tượng
khách hàng tiềm năng nhất trong việc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
của người quảng cáo lại có thể nảy sinh ra nhiều vấn đề phức tạp hơn. Môi
trường internet dễ dàng trong việc trao đổi thông tin, trong một thời gian
ngắn, với những công nghệ, chương trình máy tính nhất định có thể thu thập
được thông tin của một nhóm khách hàng lớn. Câu chuyện này liên quan đến
an toàn thông tin mạng và công nghệ thông tin, được quy định chủ yếu trong
Luật Công nghệ thông tin và Luật An toàn thông tin mạng.
90
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Sau khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật về DVQCTMTT
trên mạng internet, cho phép rút ra các kết luận sau:
1. DVQCTMTT trên mạng internet ứng dụng các công nghệ mạng máy
tính, các phương tiện điện tử để nhằm mục đích xúc tiến cho hoạt động
thương mại của các thương nhân, tức là hình thức quảng bá thông tin cho
thương nhân sử dụng môi trường internet để đưa thông điệp của thương nhân
đến các khách hàng mục tiêu trong công chúng. DVQCTMTT trên mạng
internet có nhiều lợi ích khi có thể quảng bá nhanh chóng, dễ dàng thông tin
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà không giới hạn ranh giới địa lý, nhưng cũng
đặt ra những thách thức với công tác quản lý nhà nước và sự ảnh hưởng đến
toàn thể xã hội.
2. Pháp luật về DVQCTMTT trên mạng internet điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện DVQCTMTT trên
mạng internet nhằm mục đích sinh lợi. Pháp luật về DVQCTMTT trên mạng
internet được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, nội dung chính mà Luận
án nghiên cứu bao gồm việc xem xét các quy định về điều kiện kinh doanh
DVQCTMTT trên mạng internet, các chủ thể tham gia vào DVQCTMTT trên
mạng internet, hợp đồng DVQCTMTT trên mạng internet, quản lý nhà nước đối
với hoạt động này và việc bảo vệ quyền lợi người dùng internet sử dụng sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ từ người quảng cáo. Nhìn chung, pháp luật về
DVQCTMTT trên mạng internet không chỉ dựa trên các quy định nền tảng của
pháp luật về quảng cáo cũng như pháp luật về QCTM, dịch vụ QCTM trong
Luật Thương mại, mà xét về đặc trưng dịch vụ này được thực hiện trong môi
trường mạng internet, có thể thấy rằng, dịch vụ này còn được điều chỉnh bởi các
quy định của pháp luật về công nghệ thông tin, về cung cấp dịch vụ nội dung số
trong Luật Công nghệ thông tin và các văn bản pháp luật có liên quan đến việc
xử lý các hoạt động sử dụng công nghệ thông tin sai phạm
91
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ QUẢNG CÁO
THƢƠNG MẠI TRỰC TUYẾN TRÊN MẠNG INTERNET
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về dịch vụ quảng cáo
thương mại trực tuyến trên mạng internet ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ quảng cáo
thương mại trực tuyến trên mạng internet
Dựa trên khái niệm về người kinh doanh dịch vụ quảng cáo tại Khoản 6
Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 thì hoạt động kinh doanh dịch vụ quảng cáo
được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình quảng cáo theo hợp đồng cung ứng dịch vụ quảng cáo với người quảng
cáo. Quá trình quảng cáo bao gồm nhiều công đoạn và các công đoạn có thể
được thực hiện dưới nhiều loại hợp đồng dịch vụ quảng cáo như hợp đồng
dịch vụ QCTM, hợp đồng phát hành QCTM Trong quá trình quảng cáo, có
thể kể đến hai công đoạn chính là tạo ra sản phẩm quảng cáo và phân phối,
phát hành sản phẩm quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo. Điều kiện
kinh doanh dịch vụ quảng cáo có thể có hai dạng điều kiện cơ bản là điều kiện
đối với đối tượng quảng cáo (sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ) và điều kiện để
kinh doanh các dịch vụ quảng cáo.
3.1.1.1. Về điều kiện đối với đối tượng quảng cáo thương mại trực
tuyến trên mạng internet
Để thực hiện hoạt động quảng cáo cho một đối tượng quảng cáo nhất
định thì chủ thể tham gia cần lưu ý những điều kiện nhất định về tính chất
hợp pháp của đối tượng quảng cáo đó như nếu quảng cáo cho hoạt động kinh
doanh thì hoạt động kinh doanh này phải có giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh hay nếu quảng tài sản thuộc loại tài sản có giấy chứng nhận quyền sở
92
hữu (hoặc quyền sử dụng) thì phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu (hoặc
quyền sử dụng) tài sản. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật
các nước trên thế giới, khi nói về nội dung quảng cáo thường cũng đưa ra
những tiêu chí nhất định đối với các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt như
thuốc, rượu bia, thuốc lá hay các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có liên quan
đến các đối tượng như trẻ em. Nghị định 181/2013/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật quảng cáo 2012 đã đưa ra những điều kiện cụ
thể đối với các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt như thuốc, mỹ phẩm,
thực phẩm, phụ gia thực phẩm, sữa và sản phẩm dinh dưỡng bổ sung, thuốc
bảo vệ thực vật, phân bón, chế phẩm sinh học từ Điều 3 đến Điều 11.
Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo chỉ được phép thực hiện hoạt
động quảng cáo đối với các đối tượng quảng cáo đặc biệt này sau khi được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận nội dung quảng cáo. Cụ thể là trách
nhiệm xác nhận nội dung quảng cáo các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt
này thuộc về các cơ quan là Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Bộ Công Thương theo lĩnh vực các cơ quan này được phân công quản lý hoặc
theo phân cấp thẩm quyền xác nhận theo quy định.
Ví dụ, theo Điều 3 của Nghị định, quảng cáo thuốc phải có nội dung
phù hợp với các tài liệu liên quan như giấy phép lưu hành, tờ hướng dẫn sử
dụng được Bộ Y tế phê duyệt, chuyên luận về thuốc đã được ghi trong Dược
thư Quốc gia và bao gồm những nội dung như: Tên thuốc; hoạt chất của
thuốc; chỉ định của thuốc; chống chỉ định hoặc k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_phap_luat_ve_dich_vu_quang_cao_thuong_mai_truc_tuyen.pdf