LỜI CAM ĐOAN . i
LỜI CẢM ƠN . ii
MỤC LỤC . iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT. vi
DANH MỤC BẢNG . vii
DANH MỤC HÌNH . viii
LỜI MỞ ĐẦU . 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU . 10
1.1. Các nghiên cứu về nghèo đa chiều . 10
1.1.1. Nghiên cứu ngoài nước . 10
1.1.2. Nghiên cứu trong nước . 12
1.2. Các nghiên cứu về thể chế. 14
1.2.1. Nghiên cứu ngoài nước . 14
1.2.2. Nghiên cứu trong nước . 14
1.3. Các nghiên cứu về tác động của thể chế đến nghèo đa chiều . 16
1.3.1. Nghiên cứu ngoài nước . 16
1.3.2. Nghiên cứu trong nước . 20
1.4. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu .21
1.4.1. Các vấn đề chính được đề cập tới trong các nghiên cứu . 21
1.4.2. Những vấn đề chưa được đề cập đến trong các nghiên cứu và khoảng trống
nghiên cứu . 22
Tiểu kết chương 1 . 25
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA THỂ CHẾ ĐẾN NGHÈO
ĐA CHIỀU . 26
2.1. Nghèo đa chiều . 26
2.1.1. Khái niệm nghèo đa chiều . 26
2.1.2. Thước đo nghèo đa chiều . 28
2.2. Thể chế . 36
2.2.1. Khái niệm thể chế và các yếu tố cấu thành thể chế. 36
230 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 384 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tác động của thể chế đến nghèo đa chiều ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0752***
Vùng ĐBSH -0,36** -0,0447** -0,37** -0,0458**
Vùng TDMNPB 0,08 0,0101 0,07 0,0091
Vùng BTB và DHMT 0,10 0,013 0,12 0,0149
Vùng Tây Nguyên 0,39** 0,0486** 0,38** 0,0472**
Vùng Đông Nam Bộ -0,75*** -0,0932*** -0,72*** -0,09***
Thành thị nông thôn -0,27*** -0,0339*** -0,27*** -0,0341***
Biến cấp tỉnh
Biến trễ của Thể chế (loglpapi) -0,69** -0,086** -2,74** -0,1095*
LogTNBQ -0,14 -0,018 -0,14 -0,0177
Tỷ lệ hộ gia đình sống ở thành thị 0,11 0,0147 0,009 0,0011
Phân chia tỉnh theo thu nhập
Thu nhập thấp
Thu nhập trung bình
Thu nhập cao
Thu nhập rất cao
-0,63***
-0,83***
-0,88***
-1,28***
-0,1133***
-0,1376***
-0,1427***
-0,1762***
-6,01
-7,93
-17,75**
-18,79**
-0,1064***
-0,1315***
-0,1345***
-0,1743***
Biến tương tác
Thu nhập x thành thị
Thu nhập thấp x thành thị
Thu nhập trung bình x thành thị
Thu nhập cao x thành thị
Thu nhập rất cao x thành thị
1,5
1,98
4,71**
4,86**
Hệ số chặn 3,45* 10,73**
Biến giả năm Có Có
ICC 0,27 0,26
AIC 8656,189 8651,146
Log likelihood -4306,0946 -4299,5729
Nguồn: Tính toán từ VHLSS 2016, 2018; ký hiệu các mức ý nghĩa * p < 0,1, **p <
0,05, ***p < 0,01
120
Kết quả bảng trên cho thấy, biến thể chế có tác động tích cực đến giảm nghèo
đa chiều và vẫn có ý nghĩa thống kê. Xét tác động của các nhóm thu nhập đến xác suất
rơi vào nghèo đa chiều của các hộ gia đình, các biến này đều có dấu âm và có ý nghĩa
thống kê, nhưng về giá trị, có thể thấy với những địa phương có trình độ phát triển
khác nhau thì xác suất rơi vào nghèo đa chiều của hộ sống tại những địa phương đó là
khác nhau, cụ thể, khi hộ sống ở các địa phương có mức thu nhập rất cao xác suất
nghèo đa chiều của hộ giảm 17,62%, ở địa phương có mức thu nhập cao giảm 14,27%,
địa phương có mức thu nhập trung bình giảm 13,76% và mức giảm thấp nhất là
11,33% ở những địa phương có mức thu nhập thấp.
Khi đưa thêm biến tương tác giữa thu nhập với thể chế vào mô hình, biến thể
chế có tác động âm đến xác suất nghèo đa chiều và vẫn có ý nghĩa thống kê, các biến
đặc điểm của hộ và của địa phương đều có dấu như mô hình trước. Biến tương tác
mang dấu dương và giá trị tăng dần theo mức thu nhập của các địa phương, cho thấy với
các địa phương ở mức độ phát triển khác nhau thì tác động của thể chế đến giảm nghèo đa
chiều là khác nhau và khi thể chế ngày một tốt hơn thì lợi thế sống ở các địa phương có
mức thu nhập cao sẽ giảm đi, hay nói cách khác là thể chế được cải thiện thì mức độ chênh
lệch trong xác suất rơi vào nghèo đa chiều ở những địa phương có mức thu nhập thấp
và mức thu nhập cao sẽ được thu hẹp. So sánh biến tương tác có thể thấy được ba vấn
đề như sau:
Thứ nhất, với thể chế thấp, ở các địa phương có mức độ phát triển khác nhau thì
xác suất nghèo đa chiều của hộ sống ở những địa phương đó có mức độ chênh lệch lớn,
nhưng khi thể chế tốt hơn, thì mức độ khác biệt về xác suất nghèo đa chiều của hộ sống
tại những địa phương có mức độ phát triển khác nhau là thấp hơn. Phân tích tác động
biên cho thấy, ở mức độ thể chế thấp, bằng tỷ lệ phần trăm thứ 10 của các địa phương
trong mẫu, xác suất nghèo đa chiều đối với một hộ gia đình sống ở địa phương có mức thu
nhập rất thấp với là 24,15%, xác suất nghèo đa chiều có xu hướng giảm theo mức độ phát
triển của các tỉnh, cụ thể ở tỉnh có thu nhập thấp là 10,96%, thu nhập trung bình là 7,95%,
thu nhập cao là 6% và thu nhập rất cao là 2,55%. Khi thể chế tốt hơn, bằng tỷ lệ phần trăm
thứ 90 của các địa phương trong mẫu, mức độ chênh lệch về xác suất nghèo đa chiều của
các hộ gia đình sống ở các địa phương với 5 mức độ phát triển trên có xu hướng giảm, cụ
thể, địa phương có mức thu nhập rất thấp là 16,75%, thu nhập thấp là 8,86%, thu nhập
trung bình là 6,91%, thu nhập cao là 8,66% và thu nhập cao là 4,07%.
Thứ hai, kết quả trên cho thấy ở những địa phương có mức thu nhập rất thấp và
thấp, tác động của thể chế đến nghèo đa chiều mạnh hơn so với những địa phương có
121
mức thu nhập cao hơn. Phát hiện này chỉ ra rằng, thể chế có vai trò quan trọng hơn đối
với mục tiêu giảm nghèo đa chiều ở những địa phương có mức thu nhập rất thấp và
thấp hơn là những địa phương có mức thu nhập cao và rất cao. Kết luận này của luận
án tương tự như kết quả của Li và cộng sự (1998) và Dollar và Kraay (2002), nhận
thấy rằng thu nhập của các quốc gia ở mức thấp hơn phản ứng nhanh hơn với sự thay
đổi của thể chế. Nói cách khác, về nghèo đa chiều, các “địa phương nghèo” có nhiều
khả năng được hưởng lợi từ việc cải thiện thể chế hơn các “địa phương giàu”. Thực tế ở
Việt Nam, Chính phủ có nhiều chính sách giảm nghèo ưu tiên hơn cho các vùng khó
khăn, mức sống thấp, do vậy kết quả là các khu vực như Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung
Bộ, Tây Nguyên cũng đạt được tốc độ giảm nghèo tương đối nhanh. Trong một vài năm
trở lại đây, các khu vực này có tốc độ giảm nghèo hàng năm cao hơn so với trung bình
chung của cả nước, điều này cũng phù hợp so với xu hướng giảm nghèo nói chung và
nguồn lực đầu tư giảm nghèo cho các khu vực này nói riêng, cũng như các mục tiêu đã
được đặt ra trong các chính sách có liên quan. Trong các đối tượng giảm nghèo, Chính
phủ có nhiều chính sách ưu tiên giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số (chương
trình 135, 30A...) điều đó cũng cho thấy được ở những địa phương có mức thu nhập
thấp thì thể chế có vai trò quan trọng và tác động mạnh hơn ở những địa phương có
mức thu nhập cao.
Thứ ba, với các địa phương có mức thu nhập cao và rất cao, thể chế lại có tác
động tiêu cực đến nghèo đa chiều. Cụ thể, ở những địa phương có mức độ thể chế thấp,
bằng tỷ lệ phần trăm thứ 10 của các địa phương trong mẫu, xác suất rơi vào nghèo đa
chiều của những hộ sống ở các địa phương có mức thu nhập cao và rất cao là 6% và
2,55%, nhưng khi thể chế tốt hơn, bằng tỷ lệ phần trăm thứ 90 của các địa phương trong
mẫu, xác suất rơi vào nghèo đa chiều của những hộ tại 2 nhóm địa phương trên có xu
hướng tăng lên, lần lượt là 8,66% và 4,07%. Điều này được lý giải bởi các khu vực đô
thị, người nghèo lại dễ bị tổn thương bởi tác động từ các cú sốc xã hội có liên quan tới
giá cả, khủng hoảng kinh tế. Trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, lạm phát đặc biệt cao
vào năm 2008 và 2011, nối tiếp sau đó là khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới và tình
trạng suy giảm kinh tế ở Việt Nam vào các năm 2009 và 2012, và đặc biệt là đại dịch
Covid-19 từ cuối năm 2019 đã gây ra nhiều cú sốc, ảnh hưởng tới các nhóm nghèo ở
khu vực đô thị và đặt ra những yêu cầu về cách nhìn nhận mới, tiếp cận mới trong chính
sách giảm nghèo đối với vấn đề này. Khi các chính sách giảm nghèo ở Việt Nam chủ
yếu tập trung vào các khu vực vùng sâu, vùng xa hoặc các khu vực ven biển, bãi
ngang nhiều ý kiến đã cho rằng hệ thống chính sách cũng cần quan tâm hơn tới các
122
vùng đô thị, nông thôn đồng bằng để tránh tình trạng các khu vực này trở thành “vùng
lõm” về giảm nghèo.
• Nhóm mô hình 4: Đánh giá tác động của các khía cạnh cụ thể của thể chế
cũng như tương tác của các khía cạnh thể chế với việc sống ở thành thị, nông thôn đến
xác suất nghèo đa chiều của hộ, bao gồm các mô hình với kết quả như sau:
Bảng 4.15: Kết quả ước lượng tác động của từng khía cạnh của thể chế đến nghèo
đa chiều (Mô hình 7)
Biến Hệ số β Tác động biên
Biến cấp hộ
Quy mô hộ 0,0484*** 0,006***
Giới tính của chủ hộ -0,2018*** -0,0252***
Chủ hộ có tuổi từ 30 đến 59 -0,5235*** -0,0655***
Chủ hộ có tuổi từ 60 trở lên -0,2361** -0,0295**
Số trẻ em dưới 5 tuổi trong hộ 0,1149*** 0,0143***
Trình độ đào tạo của chủ hộ -0,6031*** -0,0754***
Vùng ĐBSH -0,4398** -0,0550**
Vùng TDMNPB 0,5245*** 0,0656***
Vùng BTB và DHMT 0,191** 0,0239**
Vùng Tây Nguyên 0,5559*** 0,0695***
Vùng Đông Nam Bộ -0,896*** -0,1121***
Thành thị nông thôn -0,27*** -0,0337***
Biến cấp Tỉnh
LogTNBQ -0,4601*** -0,0575***
Tỷ lệ hộ gia đình sống ở thành thị 0,5328** 0,0666**
Tham gia của người dân ở cơ sở -0,6659* -0,0833*
Công khai, minh bạch trong việc ra quyết
định
0,7582* 0,0949*
Trách nhiệm giải trình với người dân 0,6030** 0,0754**
Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công -0,2899 -0,0362
Thủ tục hành chính công -0,9835** -0,1231**
Cung ứng dịch vụ công -1,7391** -0,2176**
Hệ số chặn 7,21***
123
Biến giả năm Có
ICC 0,27
AIC 8705,983
Log likelihood -4329,9914
Nguồn: Tính toán từ VHLSS 2016, 2018; ký hiệu các mức ý nghĩa * p < 0,1, **p <
0,05, ***p < 0,01
Mô hình 7 là mô hình tập trung phân tích tác động của 6 khía cạnh cụ thể của
thể chế đến xác suất rơi vào tình trạng nghèo đa chiều của hộ. Kết quả ước lượng của
các biến đặc trưng của hộ có dấu tương tự như các mô hình trước. Để có góc nhìn sâu
hơn về tác động của thể chế đến nghèo đa chiều, luận án tiến hành phân tích tác động
của từng khía cạnh của thể chế đến nghèo đa chiều. Kết quả ước lượng của mô hình
cho thấy hai kết luận sau:
Một là, ba khía cạnh là ‘tham gia của người dân ở cấp cơ sở’, ‘thủ tục hành
chính công’ và ‘cung ứng dịch vụ công’ có tác động tích cực đến nghèo đa chiều, cả
ba tác động của ba biến này đều có ý nghĩa thống kê. Biến “tham gia của người dân ở
cấp cơ sở” có dấu âm, điều đó cho thấy sự tham gia của người dân đặc biệt là những
người nghèo vào các quyết định chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương sẽ giúp giảm
xác suất rơi vào nghèo đa chiều của hộ. Cụ thể, với sự tham gia của người dân ở cấp
cơ sở tốt hơn thì xác suất nghèo đa chiều của hộ đó giảm 8,33%. Tương tự vậy, khi
‘thủ tục hành chính công’ và ‘cung ứng dịch vụ công’ được cải thiện thì xác suất
nghèo đa chiều của hộ giảm đi tương ứng là 12,31% và 21,76%. Tương tự, dù kết quả
ước lượng không có ý nghĩa thống kê nhưng kết quả cũng chỉ ra “kiểm soát tham
nhũng trong khu vực công” cũng có tác động tốt đến nghèo đa chiều, cụ thể nếu tham
nhũng trong khu vực công không được kiểm soát hoặc được kiểm soát ở mức độ thấp,
xác suất rơi vào nghèo đa chiều của hộ là 10,64%, khi mức độ tham nhũng trong khu
vực công được kiểm soát ở mức độ tốt hơn thì xác suất rơi vào nghèo đa chiều của hộ
giảm xuống còn 9,6%.
Hai là, với hai khía cạnh còn lại là “công khai, minh bạch trong quá trình ra
quyết định” và “trách nhiệm giải trình với người dân” có tác động tiêu cực đến nghèo
đa chiều và có ý nghĩa thống kê. Kết luận cho thấy, địa phương càng công khai, minh
bạch trong quá trình ra quyết định, thêm vào đó tính trách nhiệm giải trình với người
dân càng lớn thì nghèo đa chiều tại địa phương càng có xu hướng tăng. Điều này có
thể được lý giải bởi, trong thời gian vừa qua, chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo
lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều không chỉ tác động đến người nghèo mà còn
124
là cơ sở để xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho từng địa phương có hiệu
quả. Bởi vậy, điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo nghiêm túc, trách nhiệm và
chính xác để nhận dạng đối tượng nghèo, qua đó, có giải pháp hỗ trợ phù hợp nhu cầu
của hộ nghèo, cận nghèo. Việc bình xét hộ nghèo và hộ cận nghèo thường diễn ra vào
tháng 11 hàng năm nhưng việc bình xét này lại hay phát sinh những vấn đề bất thường
dẫn đến nhiều hộ khá giả, có điều kiện, lại lọt vào danh sách hộ cận nghèo (theo Đài
Truyền hình Việt Nam, 2020). Quy trình rà soát được tạo ra với một chuỗi liên kết
công việc và trách nhiệm của các cán bộ từ cấp thôn, xã đến cấp huyện. Nhưng chỉ cần
một công đoạn trong quy trình này vì bất kỳ lý do gì trở nên đứt gãy sẽ tạo ra ngay
những kết quả sai lệch. Chính vì vậy, sự công khai, minh bạch trong quy trình rà
soát danh sách hộ nghèo, cũng như tính trách nhiệm của các cán bộ thực hiện việc
rà soát cao lên thì đối tượng nghèo sẽ được xác định đúng và đầy đủ hơn, điều đó
có thể sẽ làm tăng trình trạng nghèo đa chiều của địa phương, nhưng trên hết là
những hộ đúng thực chất là hộ nghèo sẽ xác định được đúng khía cạnh thiếu hụt, từ
đó các chính sách hỗ trợ sẽ có hiệu quả cao hơn.
Mô hình 8, là mô hình tập trung phân tích tác động từng khía cạnh cụ thể của thể
chế đến xác suất rơi vào tình trạng nghèo đa chiều của hộ sống ở thành thị, nông thôn.
Kết quả ước lượng của mô hình được thể hiện tóm tắt ở bảng sau (chi tiết xem tại phụ
lục):
Bảng 4.16: Kết quả ước lượng tác động của từng khía cạnh của thể chế đến nghèo
đa chiều, theo khu vực thành thị - nông thôn
Tác động của Thể chế đến
nghèo đa chiều ở khu vực
thành thị
Tác động của thể chế đến
nghèo đa chiều ở khu vực
nông thôn
Hệ số β Tác động biên Hệ số β Tác động biên
Tham gia của người dân ở
cơ sở
0,98 0,0601 -1,03** -0,1508**
Công khai, minh bạch
trong việc ra quyết định
-0,26 -0,0159 1,22** 0,1779**
Trách nhiệm giải trình với
người dân
1,25* 0,0765* 0,43 0,0638
Kiểm soát tham nhũng
trong khu vực công
0,21 0,0131 -0,48 -0,0695
125
Tác động của Thể chế đến
nghèo đa chiều ở khu vực
thành thị
Tác động của thể chế đến
nghèo đa chiều ở khu vực
nông thôn
Hệ số β Tác động biên Hệ số β Tác động biên
Thủ tục hành chính công -0,19 -0,0115 -1,24 -0,1809
Cung ứng dịch vụ công -3,18** -0,1945** -2,25** -0,3278**
Biến giả năm Có Có
ICC 0,21 0,35
AIC 1369,079 7258,22
Log likelihood -664,53941 -3609,1098
Nguồn: Tính toán từ VHLSS 2016, 2018; ký hiệu các mức ý nghĩa * p < 0,1, **p <
0,05, ***p < 0,01
Kết quả ở bảng trên cho thấy,
Thứ nhất, ở khu vực nông thôn, tác động tích cực của thể chế là đến xác suất
nghèo đa chiều của hộ thể hiện ở các khía cạnh ‘Tham gia của người dân ở cơ sở’,
‘Công khai, minh bạch trong việc ra quyết định’ và ‘Cung ứng dịch vụ công’, các khía
cạnh này đều có tác động có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, ở khu vực thành thị, khía
cạnh ‘Trách nhiệm giải trình với người dân’ và ‘cung ứng dịch vụ công’ là có tác động
tốt và có ý nghĩa thống kê đến xác suất nghèo đa chiều của hộ.
Thứ hai, dấu của các tác động biên của các khía cạnh thể chế cho thấy, ở khu
vực thành thị cần chú trọng cải thiện các khía cạnh: ‘tham gia của người dân ở cấp cơ
sở’, ‘Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công’ và đặc biệt là cần cải thiện khía cạnh
‘Trách nhiệm giải trình với người dân’; trong khi đó ở khu vực nông thôn cần cải thiện
các khía cạnh ‘Công khai, minh bạch trong việc ra quyết định’ và ‘Trách nhiệm giải
trình với người dân’ nếu muốn cải thiện tình trạng nghèo đa chiều của các hộ tại khu
vực đó.
4.3. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng tới tác động của thể chế đến nghèo
đa chiều ở Việt Nam
4.3.1. Nhân tố thuộc về năng lực thể chế
4.3.1.1. Nhân tố về tư duy, năng lực, thái độ và đạo đức của các cơ quan, cá
nhân và các bán bộ quản lý nhà nước các cấp
126
Thời gian qua, trong quá trình “khơi thông” điểm nghẽn về thể chế quản lý
hành chính nhà nước (được xác định là 1 trong ba đột phá Chiến lược giai đoạn 2011-
2020), nhất là chủ trương xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính và hành động đã trở
thành một cam kết chính sách cụ thể của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2020, việc cải
cách hành chính nhà nước ở Việt Nam đã có nhiều thành quả tốt đẹp đem lại niềm tin
của người dân và cải thiện các vị trí xếp hạng trên phạm vị quốc tế liên quan đến cải
cách thể chế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề, trong đó một yếu tố mang tính chủ
quan, đó là sự hạn chế tư duy, năng lực, kể cả những bất cập trong thái độ, đạo đức của
các cơ quan, cán bộ quản lý ở các cấp được xác định là có ảnh hưởng nhiều đến tiến
trình cải cách hành chính thể chế nói chung và có ảnh hưởng không tích cực đến việc
chỉ đạo, điều hành và quản lý phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giảm nghèo và gắn
kết các yếu tố này với nhau nói riêng.
Thứ nhất, tư duy kinh tế giản đơn cộng với tâm lý chạy theo tăng trưởng về số
lượng (còn được gọi là bệnh thành tích) đưa đến tình trạng chất lượng, hiệu quả kinh tế
thấp, lãng phí nhiều, gây ra nhiều tổn thất về kinh tế, về xã hội và môi trường.
Thứ hai, do điểm xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu, văn hóa chính trị nước
ta tiềm ẩn những nhược điểm lớn, thường thỏa mãn với những mong muốn trước mắt,
với lý lẽ số đông, với triết lý chung chung chứ không vươn tới những cơ sở khoa học,
những quy luật khách quan, nên dễ kìm hãm sự đổi mới, cải cách kịp thời. Mặt khác,
do xuất phát từ kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nên ảnh hưởng của nền văn hóa và tâm lý
tiểu nông khá đậm, biểu hiện ở tính tự mãn sau những thắng lợi, tâm lý chạy theo
thành tích, hám danh hám lợi khi có chức quyền. Khi những nhược điểm ấy trở nên
phổ biến hoặc xuất hiện ở những người đứng đầu thì nó làm bào mòn dần sức sống và
khả năng sáng tạo của văn hóa.
Thứ ba, cải cách hành chính diễn ra chậm, có dấu hiệu của tình trạng lợi ích
nhóm chi phối hoạt động thực thi pháp luật, đang tạo ra trở lực cho việc duy trì trật tự,
kỷ cương xã hội, vi phạm nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước đã được khởi động từ năm 2001, nhưng qua 15 năm đến nay
vẫn chưa tạo ra được những chuyển biến căn bản và rõ nét. Vấn đề các nhóm lợi ích
can thiệp vào hoạt động thực thi pháp luật đã được thẳng thắn vạch ra trong nhiều
Nghị quyết quan trọng của Đảng nhưng chưa có cơ chế hữu hiệu để kiểm soát. Đây
cũng là một lý do khiến tình trạng tham nhũng, lãng phí, bao che, thân hữu có xu
hướng diễn ra nghiêm trọng và phổ biến, như rất nhiều khảo sát, nghiên cứu của các cơ
quan nhà nước và tổ chức quốc tế đã chỉ rõ. Đây là một rào cản lớn cho quá trình tăng
trưởng kinh tế, gắn kết với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
127
Thứ tư, năng lực, kinh nghiệm quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý thực hiện các
mục tiêu nhiệm vụ của chương trình, chính sách giảm nghèo ở địa phương chưa đồng
đều, hạn chế đến hiệu quả công tác tham mưu cho các cấp chính quyền. Bên cạnh đó,
năng lực quản lý, tổ chức triển khai thực hiện Chương trình, Chính sách giảm nghèo ở
các địa phương chưa đồng đều mặc dù cùng một cơ chế thực hiện: có tỉnh thực hiện
đúng tiến độ, hiệu quả cao trong khi một số tỉnh gặp khó khăn khi triển khai các nội
dung về giao xã làm chủ đầu tư, cơ chế đặc thù trong đầu tư xây dựng... trong các
Chương trình và Chính sách giảm nghèo (theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,
2020).
4.3.1.2. Sự phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước và tài
chính
Những tồn tại trong quá trình phân cấp quản lý nói chung và đặc biệt liên quan
đến giảm nghèo là phân cấp trong Chương trình xoá đói giảm nghèo như sau:
Thứ nhất, trong phân bổ nguồn lực của Chương trình, rất khó có thể theo dõi
việc phân bổ từ nguồn ngân sách Nhà nước và theo dõi các nguồn này được sử dụng
như thế nào? Trong thực tế có sự khác nhau rất lớn trong nguồn lực phân bổ theo tỉnh
dẫn đến kết quả các các hộ nghèo ở các vùng khác nhau được nhận hỗ trợ ở mức kinh
phí khác nhau. Tuy nhiên do phần lớn kinh phí của các dự án XĐGN vẫn do cấp huyện
và tỉnh kiểm soát, trong khi trách nhiệm thực hiện lại nằm cấp xã, dẫn đến việc bị động
của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện. Mặc dù trong quá trình lập kế hoạch cấp
xã có sự tham gia thảo luận của người dân địa phương, tuy nhiên do kế hoạch cuối
cùng lại do UBND huyện và tỉnh phê duyệt nên khiến cho chính quyền xã lúng túng
trong việc xây dựng kế hoạch dài hạn.
Không có sự liên kết giữa lập kế hoạch hoạt động và lập kế hoạch ngân sách
từ cấp trung ương đến địa phương. Đối với ban thường trực ở các huyện, xã không
tham gia vào quá trình phân bổ ngân sách nên không có cơ hội tác động đến các
nguồn lực được phân bổ cho phù hợp với nhu cầu của các cấp địa phương. Báo cáo
nhận định mối liên kết giữa thông tin từ dưới lên và thông tin từ trên xuống còn rất
hạn chế, đôi khi chỉ mang tính hình thức. Ngoài ra ngân sách phân bổ từ trung ương
cũng không ổn định dẫn đến khó khăn cho công tác lập kế hoạch dài hạn, chính vì
vậy công tác lập kế hoạch từ cấp xã vẫn chưa mang tính thực tế. Nơi nào mà các xã
chỉ thụ động hưởng lợi ích hoặc nhận hỗ trợ bằng hiện vật, ở đó khả năng thất thoát
vốn lớn hơn do người dân thiếu trách nhiệm và thiếu sự tham gia. Phần lớn công
128
việc theo dõi tỷ lệ hộ nghèo cũng được lái theo các mục tiêu ưu tiên cấp cao hơn và
rất khác so với những gì trên thực tế.
Thứ hai, do phân cấp quản lý của Chương trình XĐGN theo hướng từ trên
xuống, hệ thống phụ thuộc vào việc ban hành các văn bản hướng dẫn kịp thời và rõ
ràng từ trung ương cho các địa phương cho các hợp phần của chương trình. Việc chậm
ban hành các hướng dẫn và sự thiếu rõ ràng của các văn bản từ cấp trung ương dẫn đến
việc các địa phương sử dụng những văn bản hướng dẫn của năm trước đó. Ngoài ra
điều này còn gây ra sự lúng túng trong quá trình thực hiện, đặc biệt là các cán bộ dễ bị
chỉ trích là vi phạm thủ tục. Khi các hướng dẫn được ban hành để thay thế các hướng
dẫn tạm thời thì lại mất thời gian cho công tác hướng dẫn chỉ đạo thực tế. Điều này
cho thấy các thủ tục hành chính của chúng ta tương đối công kềnh, thiếu cơ chế
khuyến khích cho các cấp địa phương triển khai chương trình. Cụ thể, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội (2020) chỉ ra một số địa phương còn lúng túng trong thực hiện
một số nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và dự án nhân rộng mô
hình giảm nghèo vì Thông tư số 18/2017/TT-BNNPTNT hướng dẫn một số nội dung
thực hiện hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và dự án nhân rộng mô hình
giảm nghèo thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn
2016-2020 được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành chậm (ban hành
ngày 09/10/2017).
Tồn tại thứ ba trong phân cấp đó là năng lực của cán bộ địa phương chưa đáp
ứng được với những công việc mà họ được giao từ chương trình XĐGN. Ở cấp tỉnh,
huyện, xã trách nhiệm giám sát được giao cho Ban chỉ đạo Giảm nghèo chủ yếu là trưởng
ban các ngành. Tuy nhiên người được giao trách nhiệm không chỉ giám sát chương trình
XĐGN mà còn cả các chương trình phát triển kinh tế xã hội khác do đó trong nhiều
trường hợp cán bộ địa phương lơ là trong việc giám sát các hoạt động của Chương trình.
Ngoài ra tại các địa phương không có cán bộ chuyện trách hỗ trợ cho ban chỉ đạo tỉnh do
nhân sự thay đổi, không bố trí biên chế cho cán bộ giảm nghèo. Công tác nâng cao năng
lực cho cán bộ cơ sở và cộng đồng về cơ chế phân cấp trao quyền, áp dụng cơ chế đầu tư
đặc thù chưa thực sự gắn kết giữa học tập và thực hành, chưa gắn với từng công trình, dự
án, tổ nhóm cụ thể nên hiệu quả còn hạn chế, ảnh hưởng bất lợi đến việc thực hiện phân
cấp và trao quyền (theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2020).
Thứ tư đó là sự thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin từ cấp trung ương đến
cấp tỉnh, huyện xã. Mặc dù xã là đối tượng hưởng lợi nhưng họ tiếp cận các thông tin về
các dự án và chương trình rất hạn chế, nhất là đối với đồng bào miền núi, vùng sâu vùng
xa. Cán bộ xã cảm nhận họ chưa được trao quyền để chất vấn các lý do phân bổ ngân sách
129
cũng như nguyên nhân thay đổi các phân bổ này, trong khi đó cấp huyện không thông báo
cho cấp xã về các nguyên nhân thay đổi. Giữa các cấp liên quan từ trung ương xuống tỉnh,
từ tỉnh xuống huyện và từ huyện xuống xã có ít thông tin về quy trình phân bổ ngân sách
và chi tiết ngân sách trong khi tiêu chí được xây dựng chung chung và không rõ ràng. Các
xã chỉ lập kế hoạch giảm nghèo sau khi đã nhận được tiêu chí phân bổ của cấp huyện
nhưng các thông tin không đầy đủ về nguồn lực phân bổ dẫn đến các xã gặp khó khăn
trong việc tích cực triển khai chương trình. Trong thực tế cán bộ xã và người dân không
đóng góp đầu vào cho việc ra quyết định về tính hợp lý của các khoản đầu tư cũng như
không cam kết hỗ trợ tài chính cho quá trình vận hành bảo dưỡng vì vậy các công trình
đầu tư thường không bền vững.
4.3.1.3. Nhân tố về hệ thống các chính sách liên quan đến giải quyết mối quan
hệ giữa thể chế và nghèo đa chiều
a. Sự bất cập trong các chính sách phân phối thu nhập và tài sản
Trước hết, là xu hướng tích tụ tài sản sản xuất (đất đai, tài chính) vào một
nhóm ngày càng gia tăng.
Phù hợp với nền kinh tế thị trường, Việt Nam đang thực hiện chính sách phân
phối theo tài sản sản xuất, tức là thu nhập của các nhóm dân cư phụ thuộc vào quy mô
tài sản mà họ chiếm giữ và được huy động cho hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay
đang tồn tại sự bất công bằng trong tiếp cận tài sản sản xuất sau một thời gian chịu sự
tác động của kinh tế thị trường. Trong nông nghiệp, trước đổi mới kinh tế, phân chia
đất đai ở Việt Nam là tương đối công bằng trong các hộ gia đình vì dựa trên sở hữu tập
thể về đất đai. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới kinh tế, chính sách giao đất giao
rừng được thực hiện. Diễn biến của thị trường đất đai qua 27 năm (1992-2019) đã dẫn
đến sự phân hoá, xuất hiện nhóm hộ giàu có nhiều diện tích sản xuất nông nghiệp hơn
các nhóm hộ còn lại. Đồng thời, tỷ lệ các hộ gia đình không có đất nông nghiệp ở nông
thôn có xu hướng tăng lên do chính sách thu hồi đất nông nghiệp sử
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tac_dong_cua_the_che_den_ngheo_da_chieu_o_viet_nam.pdf