MỞ ĐẦU 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN 7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7
1.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu 21
Tiểu kết Chương 1 24
Chương 2 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 25
2.1. Quan niệm về Nhân dân theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh 25
2.2. Nhân dân là mục tiêu và động lực của sự nghiệp cách mạng
Việt Nam 43
Tiểu kết Chương 2 70
Chương 3 SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ HỒ CHÍ MINH LÀ ĐƯA NHÂN DÂN LÊN ĐÚNG VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA
NHÂN DÂN
72
3.1. Giải phóng Nhân dân, đưa Nhân dân lên địa vị là chủ và làm
chủ xã hội, làm chủ đất nước 72
3.2. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân 87
Tiểu kết Chương 3 103
Chương 4 Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN
DÂN ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở NƯỚC TA 105
4.1. Công cuộc đổi mới phải đạt tới mục tiêu và lý tưởng của nhân dân
Việt Nam 105
4.2. Công cuộc đổi mới chỉ thành công khi phát huy được toàn bộ
sức mạnh của nhân dân 128
Tiểu kết Chương 4 146
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
171 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 377 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về nhân dân và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tiêu điểm là cách mạng trên lĩnh vực xã hội. Tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh bàn đến nhiều hình thái cách mạng xã hội khác nhau như cách mạng
giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng vô sản, dân tộc cách mạng, giai cấp cách mạng, thế giới cách
mạng, Mỗi hình thái có đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ, tính chất khác nhau.
Xét đến cùng, giải phóng Nhân dân là mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của tất cả
các hình thái bởi bản chất đích thực của cách mạng là giải phóng con người.
Trong đó, về cơ bản và cần kíp trước mắt thì giải phóng Nhân dân là mục tiêu,
nhiệm vụ, nội dung chủ yếu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, rộng hơn
nữa là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
77
Cách mạng giải phóng dân tộc sau khi xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đã
trở thành thuật ngữ chính trị phổ biến trong thế kỷ XX. Đây "là cuộc cách mạng
nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập, thực hiện quyền dân
tộc tự quyết và xây dựng nhà nước dân tộc" [23, tr.8]. Hồ Chí Minh không nêu
lên định nghĩa một cách đầy đủ và trực tiếp về thuật ngữ "Cách mạng giải phóng
dân tộc". Song, trong một số tác phẩm, đặc biệt là Đường Cách mệnh, Hồ Chí
Minh nêu khái niệm "Dân tộc cách mệnh". Có thể hiểu "Dân tộc cách mệnh"
mà Hồ Chí Minh đề cập chính là cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc "Dân
tộc cách mệnh" giải quyết nhiệm vụ cấp bách đầu tiên của tình cảnh Nhân dân
Việt Nam là bị ngoại trị. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta, giải phóng Nhân
dân không thể triệt để nếu chỉ đánh đuổi ngoại xâm thống trị. Cùng với thực
dân đế quốc, các thế lực nội phản bán nước làm tay sai, tập trung chủ yếu ở
địa chủ, phong kiến, tư bản phản động, cũng đang áp bức, bóc lột Nhân dân.
Cách mạng giải phóng dân tộc hướng đến đối tượng đấu tranh là thực dân đế
quốc thống trị đến từ bên ngoài. Cuộc cách mạng ấy không giải phóng Nhân
dân bằng cách thủ tiêu ách thống trị từ nội tại đất nước. Vì thế mà Hồ Chí
Minh đề cập đến cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với nghĩa tuy nó giải
quyết nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến như một cuộc cách mạng dân
chủ tư sản, nhưng nó không phải do giai cấp tư sản lãnh đạo mà do giai cấp
công nhân lãnh đạo, nó chống đế quốc đến cùng và không thành lập quyền
thống trị của tư bản mà thành lập quyền thống trị của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh, đó "là cách mạng dân chủ mới".
"Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam tiến hành từ năm 1930 dưới
ngọn cờ "độc lập tự do" của Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân" [63, tr. 327]. Thắng lợi
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước trong mùa xuân 1975 kết thúc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân khi hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ đánh đổ sự
thống trị của chủ nghĩa thực dân đế quốc và ngụy quyền tay sai, xóa bỏ tàn
78
tích của chế độ phong kiến, thực hiện quyền tự do, dân chủ cho Nhân dân và
xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ, mở đường cho xã hội phát triển.
Mục tiêu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh hướng đến trong giải phóng
Nhân dân luôn mang tính triệt để. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh chống thực
dân đế quốc và tay sai bán nước dẫu lâu dài nhưng chắc chắn có ngày kết thúc
thắng lợi. Với kẻ thù là thói quen và truyền thống lạc hậu cản trở sự tiến bộ
của Nhân dân trong tư cách lực lượng chính trị đóng vai trò chủ thể của cách
mạng, chủ thể của chế độ, xã hội, đất nước, thì không có điểm kết thúc. Nhiều
lần, Hồ Chí Minh chỉ ra cho chúng ta thấy sự trói buộc của thói quen và
truyền thống lạc hậu đến tư duy, nhận thức và hoạt động của Nhân dân, kiềm
hãm và làm suy yếu năng lực làm chủ của Nhân dân một nước dân chủ cộng
hòa. Để giải phóng Nhân dân khỏi kẻ thù này, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có
một cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hóa – xã hội một cách bền bỉ, không
ngừng nghỉ và quyết tâm cao. Biểu hiện rõ nét của cuộc cách mạng chống thói
quen và truyền thống lạc hậu là công cuộc xây dựng đời sống mới được Hồ
Chí Minh đề cập ngay trong những hoạt động cách mạng đầu tiên, chính thức
phát động rộng rãi không lâu sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công và được duy trì, phát triển liên tục về sau.
Hồ Chí Minh ý thức rõ tính chất phức tạp và mức độ khó khăn của cuộc
cách mạng này. Người lý giải, đấu tranh chống thói quen và truyền thống lạc
hậu thì không phân định rõ được giới tuyến như với thực dân đế quốc và tay
sai. "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt" nhưng
để xác định cái cũ, cái mới, cái tốt, cái xấu trong thực tiễn sinh động và phát
triển không ngừng là vô cùng khó khăn. Do đó, để xây dựng đời sống mới,
Hồ Chí Minh chỉ ra những giá trị mang tính nền tảng và nguyên tắc: Những gì
ích nước lợi dân, những gì có lợi cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân là
cái tốt, cái mới cần giữ gìn, phát huy; ngược lại là cái cũ, cái xấu cần loại trừ.
Đây vừa là giá trị đạo đức, văn hóa, vừa là tiêu chí chính trị đòi hỏi sự chấp
hành triệt để của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
79
Theo Hồ Chí Minh, "cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải việc một hai người" [79, tr. 283]. Lực lượng tiến hành cách mạng
nhằm mục tiêu giải phóng Nhân dân không đâu khác ngoài Nhân dân nhưng
không phải lúc nào Nhân dân cũng có thể hoàn thành tốt vai trò đó. Nhân dân
được Hồ Chí Minh đề cập trong tư cách là chủ thể, lực lượng quyết định
thắng lợi của cách mạng phải là cộng đồng yêu nước được giác ngộ, "nghĩ rồi
thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh" [79, tr.
283]. "Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng, chí
có đồng , tâm mới đồng, tâm đã đồng lại phải biết cách làm thì làm mới
chóng" [79, tr. 282].
Hồ Chí Minh thấy rõ phẩm chất cao quý và sức mạnh to lớn của Nhân
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn
dân” [87, tr. 453]. Phẩm chất và sức mạnh này không phải lúc nào cũng được
khơi dậy, quy tụ và phát huy để đưa cách mạng đến thắng lợi. Chỉ khi được tổ
chức, dẫn dắt bởi một tổ chức chân chính có nhận thức và hành động đúng
quy luật, thuận lòng dân, hợp thời đại thì mới tạo nên được. Lịch sử trao sứ
mệnh đó cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong tư cách là bộ phận ưu tú từ
Nhân dân mà ra, lãnh đạo Nhân dân đấu tranh cách mạng để giải phóng đất
nước, giải phóng Nhân dân. Trong thành phần cấu thành lực lượng cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức tiên phong đóng vai trò lãnh đạo.
Để xây dựng lực lượng cách mạng hùng mạnh đảm bảo thắng lợi, Hồ
Chí Minh rất chú tâm củng cố mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân. Đây là
quan hệ chính trị mang tính biện chứng. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ trung thành của Nhân dân. Nhân dân là đối tượng lãnh đạo của
Đảng. Có Nhân dân, Đảng mới có quyền lãnh đạo. Nhân dân lại là lực lượng
cách mạng to lớn. Lực lượng mạnh thì Đảng mới vững, cách mạng mới thắng
lợi. Làm cho dân mạnh tức là làm cho đối tượng lãnh đạo của Đảng, làm cho
lực lượng cách mạng của Đảng vững mạnh. Đó cũng là làm cho Đảng vững
80
mạnh. Nhân dân là một tập hợp không thuần nhất. Trách nhiệm của Đảng là
phải không ngừng đoàn kết Nhân dân thành một khối, chăm lo nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần, phát huy dân chủ, khai thác trí dân, lực dân, tài dân
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Khi Đảng làm cho Nhân dân phát huy được
sức mạnh vô địch là lúc Đảng mạnh, làm cho Nhân dân trở thành anh hùng là
Đảng anh hùng. Nhân dân thế nào, rất quan trọng, quyết định Đảng thế ấy.
3.1.2. Lập ra nhà nước của Nhân dân, người dân là chủ xã hội, làm
chủ đất nước
"Cách mạng" trong quan niệm của Hồ Chí Minh rất rộng, nhưng cốt lõi
và được đề cập nhiều nhất là cách mạng chính trị - xã hội. Đối với mọi cuộc
cách mạng chính trị - xã hội, chính quyền là vấn đề cơ bản. Thiết lập và kiện
toàn nhà nước của Nhân dân là chiều hướng phát triển tất yếu của cuộc cách
mạng giải phóng Nhân dân. Ngay khi xác định cách mạng Việt Nam là sự
nghiệp giải phóng Nhân dân thì Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến "giành lấy
chính quyền về tay nhân dân" và xây dựng chính quyền trở thành công cụ
mạnh mẽ, sáng suốt để Nhân dân thực hiện vai trò là chủ xã hội, làm chủ đất
nước.
- Giành lấy và kiến lập Nhà nước của Nhân dân là điều kiện đảm bảo
đầu tiên để đưa Nhân dân lên đúng vị trí, vai trò và thực hiện đúng mục đích
của mình.
Sự nghiệp cách mạng Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn với mục tiêu
và nội dung khác nhau nhưng đều xoay quanh vấn đề chính quyền nhà nước,
cụ thể là việc giành chính quyền về tay ai và chính quyền phục vụ ai. Hồ Chí
Minh ra đi tìm đường cứu nước cũng từ sự thúc bách của khát vọng giải
phóng dân tộc mà biểu hiện tập trung là ở yêu cầu lật đổ chính quyền nhà
nước thuộc địa nửa phong kiến thiết lập nhà nước độc lập của Nhân dân.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, trước khi đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu lý luận và khảo nghiệm thực tiễn tổ chức,
hoạt động của các mô hình nhà nước tư sản nổi bật ở Anh, Pháp, Mỹ,... Hồ
81
Chí Minh xoáy sâu vào xem xét mối tương quan giữa quyền lợi của con
người, của Nhân dân được đề ra trong lý thuyết với sự thể hiện trong thực tiễn
thông qua tổ chức và hoạt động của nhà nước sở tại. Đặc biệt, Người chú ý rất
nhiều đến quyền Nhân dân kiểm soát chính phủ. Điểm mấu chốt dẫn đến
quyết định không lựa chọn các mô hình ấy của Hồ Chí Minh đó là các nhà
nước này không thỏa mãn một cách triệt để việc thực hiện vai trò làm chủ của
Nhân dân trong thực tiễn đời sống. Hồ Chí Minh nói: Cách mạng Mỹ và cách
mạng Pháp đã dạy chúng ta rằng, làm cách mạng thì không nên sợ phải hy
sinh, và đã hy sinh làm cách mạng thì nên làm cách mạng cho “đến nơi”,
nghĩa là làm cách mạng rồi thì chớ để chính quyền trong tay số ít, chính
quyền phải thuộc về dân chúng số đông. Như vậy, nếu chính quyền là vấn đề
cơ bản của mọi cuộc cách mạng thì đối với Hồ Chí Minh sự khẳng định vai
trò làm chủ chính quyền và thông qua làm chủ chính quyền để làm chủ xã hội,
làm chủ đất nước của Nhân dân là vấn đề cơ bản của chính quyền. Chủ nghĩa
Mác – Lênin và mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đã đáp ứng
được mong mỏi đó của Hồ Chí Minh trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Thông qua một cuộc cách mạng triệt để - Cách mạng tháng Mười – nhân dân
Nga đã thực sự có quyền làm chủ đất nước bằng một chính quyền nhà nước
của chính họ. Bài học rút ra từ Cách mạng tháng Mười đó là: Làm cách mạng
để giải phóng Nhân dân phải đi đến thành lập được nhà nước của Nhân dân để
thông qua đó thực thi quyền Nhân dân làm chủ. Đây là kim chỉ nam cho Hồ
Chí Minh và sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Mục đích của Nhân dân Việt Nam là được đứng đúng với vị trí, vai trò
là chủ và làm chủ xã hội, đất nước, được phát triển không ngừng kể cả đời
sống vật chất và tinh thần. Điều đó chỉ có thể đạt được thông qua thủ tiêu bộ
máy chính quyền thống trị và kiến lập nên chính quyền của Nhân dân. Thủ
tiêu bộ máy chính quyền thống trị và kiến lập nên chính quyền của Nhân dân
phải gắn liền với nhau, không thể có sự lựa chọn nào khác. Làm cách mạng
rồi thì chớ để chính quyền trong tay số ít bởi như vậy chỉ là sự thay thế chủ
82
thể bóc lột Nhân dân. Làm cách mạng rồi thì chính quyền phải thuộc về dân
chúng số đông mới thực hiện được mục đích của Nhân dân triệt để. Chính
quyền Nhân dân không quay trở lại biến thành công cụ bóc lột, thống trị như
các "chính quyền của số ít" mà trái lại là công cụ để Nhân dân thực thi quyền
là chủ và tiếp tục đấu tranh chống các kiềm kẹp khác để tiếp tục giải phóng
chính mình. Trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Hồ Chí Minh khởi thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua
thể hiện rõ là sau khi đánh đổ thực dân thống trị và tay sai bán nước sẽ thành
lập chính phủ công – nông – binh. Dù cách diễn đạt có khác song nhiều văn
kiện sau này vẫn khẳng định lại. Đó là lựa chọn duy nhất đảm bảo tính triệt để
của sự nghiệp cách mạng.
- Thông qua nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân để xác
lập và đảm bảo quyền là chủ và quyền làm chủ của Nhân dân.
Trở về nước sau ba mươi năm (1911- 1941), Hồ Chí Minh chủ trì Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII đánh dấu chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược, đặt nền tảng cho thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945. Tại Hội
nghị Trung ương VIII, Hồ Chí Minh đề xuất quan điểm xây dựng nhà nước
dân chủ nhân dân đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng về nhà nước kiểu
mới. Sự kiến lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ thắng lợi của
Tổng khởi nghĩa tháng 8 đã hiện thực hóa tư tưởng xây dựng nhà nước dân
chủ thực sự của Hồ Chí Minh. Những nỗ lực thiết kế, tổ chức, xây dựng Nhà
nước sau đó đều được Hồ Chí Minh chú tâm xác lập, đảm bảo quyền là chủ
và làm chủ của Nhân dân. Có thể đánh giá trên ba nét lớn:
Một là, thể chế hóa, pháp lý hóa quyền là chủ và làm chủ nhà nước của
Nhân dân.
Quyền là chủ nhà nước của Nhân dân phải được quy định bởi pháp luật.
Đó là điều kiên tiên quyết. Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Hồ
Chí Minh trong cương vị đứng đầu Chính phủ cách mạng lâm thời đã chú ý
xúc tiến soạn thảo và ban hành Hiến pháp vừa là để đảm bảo tính hợp hiến
83
của Nhà nước, vừa là để pháp lý hóa quyền là chủ nhà nước của Nhân dân.
Điều 1 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: "Nước Việt Nam là một nước dân
chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam". Năm 1959, Hồ Chí Minh lãnh đạo soạn thảo và ban hành Hiến pháp
tiếp tục khẳng định: "Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
đều thuộc về nhân dân". Pháp luật là tối thượng. Sự quy định của luật pháp
đối với quyền là chủ nhà nước của Nhân dân là sự quy định cao nhất, do vậy
là sự khẳng định mạnh mẽ và chắc chắn nhất. Chỉ có trên cơ sở quy định của
pháp luật, Nhân dân mới là chủ nhà nước một cách chặt chẽ, toàn diện và bền
vững. Đó là lời tuyên bố hùng hồn nhất, thực tế nhất rằng Nhân dân đã được
giải phóng khỏi chế độ chính trị thuộc địa nửa phong kiến, chính thức đứng ở
địa vị người là chủ chế độ.
Hai là, nhà nước phải nâng cao năng lực làm chủ cho Nhân dân.
Tính triệt để của giải phóng Nhân dân thể hiện qua quyền lợi và địa vị
mà Nhân dân được thụ hưởng. Quyền lợi và địa vị đó được Hồ Chí Minh khái
quát qua phạm trù "là chủ" đi liền với "làm chủ". Đây là hai phạm trù được
Hồ Chí Minh nhắc đến rất nhiều, xem là mục tiêu trực tiếp và cao nhất của sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân. Đây là chiều
hướng phát triển không thể khác được của cuộc cách mạng giải phóng Nhân
dân.
Tiêu chí "là chủ" xác định vị thế của Nhân dân đối với chế độ chính trị
tiêu điểm là chính quyền nhà nước, với xã hội, với đất nước và với chính
mình. Tiêu chí này rất quen thuộc trong lịch sử nhân loại, là khẩu hiệu trong
nhiều phong trào đấu tranh, nhiều cuộc cách mạng đã có từ trước. Tuy nhiên,
quá trình nghiên cứu lý luận và khảo nghiệm thực tiễn ở nhiều nơi, đặc biệt ở
các nước tư bản phương Tây cho Hồ Chí Minh thấy nhân dân là chủ dưới chế
độ phong kiến, tư bản chủ nghĩa chỉ dừng lại ở khẩu hiệu. Kỳ thực trong thì
tước lục công nông, ngoài thì xâm lược bóc lột thuộc địa. Qua phân tích của
Hồ Chí Minh cho thấy các tập đoàn thống trị trong chế độ phong kiến, tư bản
84
chủ nghĩa chỉ nếu mục tiêu đưa nhân dân lên vị thế là chủ như một thủ đoạn
chính trị, một kiểu mị dân để thu hút nhân dân tham gia cuộc đấu tranh lật đổ
chế độ chính trị đương thời thiết lập chế độ do họ cầm quyền, hoặc sau đó thì
mị dân để nhân dân chấp nhận chế độ chính trị do họ cầm quyền.
Để đảm bảo tính triệt để của mục tiêu giải phóng Nhân dân, Hồ Chí
Minh luôn gắn liền tiêu chí "là chủ" với "làm chủ" và có phần nhấn mạnh luận
giải vế "làm chủ" hơn. Đưa Nhân dân lên vị thế là chủ phải được thể hiện
trong thực tiễn hành vi làm chủ. Chỉ bằng hành vi làm chủ, Nhân dân mới
chạm tới được chiều sâu nhất của giải phóng. Hồ Chí Minh khẳng định trách
nhiệm làm chủ: Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; Chính
quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra; Đoàn thể từ Trung ương
đến xã do dân tổ chức nên; Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của
dân. Để thực hiện tốt công việc to tát đó, Hồ Chí Minh yêu cầu Nhân dân phải
có năng lực tương xứng, phải xứng đáng là chủ nhân một nước tự do, độc lập.
Có như thế, Nhân dân mới thực hiện một cách tự giác và hiệu quả trách nhiệm
chính trị được tạo nên bởi vị thế, quyền lợi là chủ của mình.
Một nhà nước áp bức nhân dân, nhà nước của thiểu số thống trị đa số
Nhân dân thì không bao giờ quan tâm đến năng lực làm chủ của Nhân dân
hoặc nếu có thì chỉ mị dân. Chỉ có thông qua nhà nước của mình thì Nhân dân
mới thật sự được quan tâm nâng cao năng lực "làm chủ" để tiếp tục thực hiện
các yêu cầu, nhiệm vụ tiếp theo của sự nghiệp cách mạng. Cách mạng Việt
Nam là sự nghiệp đưa Nhân dân trở lại đúng vị trí, vai trò làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội và làm chủ chính vận mệnh của mình. Điều đó chưa thể đạt
được ngay khi Tổng khởi nghĩa mùa thu tháng 8 thắng lợi, chế độ thuộc địa
nửa phong kiến bị thủ tiêu. Mặc dù nhà nước được thành lập từ thắng lợi của
Cách mạng tháng 8 là nhà nước dân chủ nhân dân nhưng ở lúc này Nhân dân
trong tư cách "là chủ" vẫn chưa thật sự có đầy đủ năng lực để "làm chủ".
Không phải cứ nói Nhân dân là chủ thì họ sẽ làm chủ được. Do vậy, song
song với việc tổ chức tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu để Nhân dân tổ chức
85
nên nhà nước của mình, song song với việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp
để vị thế là chủ của Nhân dân được thể chế hóa thì Hồ Chí Minh chú ý ngay
đến "giáo dục tinh thần của nhân dân", diệt giặc dốt, thực hành đời sống mới
để giải phóng Nhân dân khỏi những kiềm kẹp của thói quen, truyền thống lạc
hậu. Thực tiễn đó cho thấy, đồng thời với việc tiến hành các hoạt động để
khẳng định vị thế "là chủ" của Nhân dân là những nỗ lực từ rất sớm để nâng
cao năng lực "làm chủ". Hồ Chí Minh xem đó là chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước. Chỉ có nhà nước của Nhân dân mới thật sự chăm lo làm giàu năng
lực làm chủ của Nhân dân. Khi đó Nhân dân mới là chủ Nhà nước, là chủ xã
hội, là chủ đất nước một cách trọn vẹn.
Ba là, xây dựng nhà nước trở thành công cụ cốt yếu để Nhân dân thực
hiện vai trò làm chủ xã hội, làm chủ đất nước.
Nhà nước là tổ chức đặc biệt duy nhất có chức năng quản lý xã hội và
đại diện chủ quyền, lãnh thổ quốc gia. Ai nắm quyền lực nhà nước sẽ sử dụng
quyền lực đó để tổ chức, quản lý xã hội, trở thành người đại diện cho đất
nước. Một nhà nước của Nhân dân phải được Nhân dân sử dụng như là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ đối với xã hội và đất nước mình. Giúp
Nhân dân làm tốt vai trò làm chủ xã hội và đất nước là sự hoàn thành trách
nhiệm cao nhất mà một nhà nước của Nhân dân mong muốn.
Hồ Chí Minh không "nhốt" quyền và trách nhiệm là chủ của Nhân dân
trong mối quan hệ với nhà nước. Trên con đường đi đến giải phóng triệt để, là
chủ và làm chủ nhà nước vô cùng quan trọng đối với Nhân dân nhưng không
phải là duy nhất. Nhân dân phải dùng nhà nước của mình để vươn ra làm chủ
xã hội, làm chủ đất nước. Nhân dân đưa ý chí của mình vào tổ chức và hoạt
động của Nhà nước, cụ thể là vào pháp luật, chính sách để xã hội vận hành,
đất nước phát triển theo mong muốn của mình. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
điều này. Người thường yêu cầu "phải đi đúng đường lối quần chúng" cũng
chính là để chính sách, pháp luật phản ánh được ý chí của Nhân dân và thông
qua đó mà giúp Nhân dân tổ chức, quản lý xã hội.
86
Thực hành đời sống mới để Nhân dân làm chủ xã hội, làm chủ đất
nước. Đây là biện pháp có hiệu quả nhằm xóa bỏ những tàn dư lạc hậu do chế
độ cũ để lại; là biện pháp từng bước giáo dục các tầng lớp nhân dân nhận thức
được tính ưu việt của chế độ mới và trách nhiệm của mình đối với xã hội,
nhận thức được quyền làm chủ đất nước của nhân dân do cách mạng mang
lại. Hồ Chí Minh nói: "thực hành đời sống mới để trở nên những công dân
mới, xứng đáng với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" [tập 4, tr. 194]; "đồng
bào ta sẽ phấn đấu cho một đời sống mới, ai cũng góp sức vào cuộc kháng
chiến lâu dài, để làm cho nước ta được hoàn toàn tự do độc lập" [81, tr.196].
Tóm lại, giải phóng Nhân dân để đưa Nhân dân lên địa vị là chủ và làm
chủ phải đạt tới "tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Việc thiết lập
nhà nước của Nhân dân và thông qua nhà nước ấy để Nhân dân thực hiện vị
thế là chủ luôn tồn tại với vai trò là nội dung chính trị trung tâm của cách
mạng Việt Nam. Để đảm bảo củng cố, phát huy được quyền lợi và địa vị làm
chủ của Nhân dân, cuộc cách mạng giải phóng Nhân dân sau khi thành công
phải vận động theo chiều hướng của cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh khẳng
định: Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận
khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành
được thắng lợi hoàn toàn. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ" [89, tr.563]. Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định chiều hướng phát triển
đó của cuộc cách mạng giải phóng Nhân dân là bởi công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội là sự nghiệp của chính Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
87
3.2. CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ
CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
3.2.1. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là của Nhân dân và do
Nhân dân
Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa xã hội là một chế độ chính trị cao hơn,
tiến bộ hơn chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa và là giai đoạn đầu của chế độ
cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân
lao động là chủ và nhân dân lao động làm chủ; Nhà nước là của dân, do dân,
vì dân, dựa trên khối đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công – nông
– trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Về mặt kinh tế, chủ nghĩa xã hội có chế
độ kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, phân phối theo nguyên tắc làm theo năng lực hưởng
theo lao động, có phúc lợi xã hội. "Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa,
ngân hàng,... làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai
không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ
con" [87, tr. 390]. Về văn hóa – xã hội, chủ nghĩa xã hội là xã hội văn minh,
tiến bộ, có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không
còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và
lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có
điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự
nhiên.
Ruth Fisher, đại biểu Đảng Cộng sản Đức tại Quốc tế Cộng sản, nhận
xét về Hồ Chí Minh: "Theo bản tính, anh thiên về hành động hơn là những
cuộc tranh luận về học thuyết" [trích theo 167]. Nhận định tinh tế này được sự
đồng tình của nhiều học giả trong và ngoài nước. Hồ Chí Minh nghiên cứu lý
thuyết chủ nghĩa xã hội và nêu ra các quan niệm không chỉ đơn thuần để làm
giàu trí óc của mình và hướng đến các cuộc tranh luận lý thuyết. Thiên về
hành động, Hồ Chí Minh dành nhiều thời gian của mình cho xây dựng chủ
88
nghĩa xã hội theo phương châm mang tính nguyên tắc: của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân.
Nói công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vị trí chủ thể của nhân dân đối với giai đoạn
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trong con đường cách mạng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xét trên phạm vi chung, vị
trí chủ thể sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Nhân dân có được xuất
phát từ vị trí, vai trò của Nhân dân đối với đất nước, xã hội và sự nghiệp cách
mạng. Điều này vốn được xác lập từ lâu, rất rõ ràng và thống nhất cao nên Hồ
Chí Minh đề cập như là sự khẳng định hơn là luận giải nguyên nhân. Xét
riêng ở góc độ mối quan hệ với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh từ nhiều hoàn cảnh và mức độ khác nhau đã luận giải vì sao Nhân dân
đóng vai trò chủ thể. Những luận giải đó chính là các quan điểm của Hồ Chí
Minh xem xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp do Nhân dân thực hiện và
lấy phục vụ Nhân dân làm mục tiêu. Nói cách khác, làm rõ vai trò của Nhân
dân trong tư cách lực lượng thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và vị trí của
Nhân dân như là mục tiêu bao trùm của sự nghiệp này, chính là cung cấp
những cơ sở thuyết phục để lý giải vị trí chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nhân dân. Đây cũng chính là mối quan hệ biện chứng giữa ba mệnh đề
"của Nhân dân" – "do Nhân dân" – "vì Nhân dân" trong tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh về xây dựng chủ n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tu_tuong_chinh_tri_ho_chi_minh_ve_nhan_dan_va_y_nghi.pdf