MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 9
1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận chung về tự do và trách nhiệm
đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ 9
1.2. Những công trình nghiên cứu về nội dung của vấn đề tự do và trách nhiệm
đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ 24
1.3. Những công trình nghiên cứu về bài học trong việc kết hợp hài hòa giữa
tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ ở
Việt Nam hiện nay 28
1.4. Giá trị của những công trình được tổng quan và những vấn đề luận án cần
tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm 33
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỰ DO VÀ TRÁCH
NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ 35
2.1. Quan niệm về tự do và trách nhiệm đạo đức 35
2.2. Tự do, trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ 57
2.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và khoa học, công nghệ 62
Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM
ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ 71
3.1. Tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ 71
3.2. Trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ 92
Chương 4: TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ BÀI HỌC ĐỐI
VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY 116
4.1. Một số vấn đề về tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học,
công nghệ được đặt ra hiện nay 117
4.2. Bài học đối với các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng
khoa học, công nghệ 122
4.3. Bài học đối với Nhà nước Việt Nam trong việc quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học và ứng dụng công nghệ hiện nay 128
KẾT LUẬN 141
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 144
PHỤ LỤC 159
165 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vấn đề tự do, trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng đắn của
chúng, thì đó chính là tự do chân chính trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện
đại - kết quả của sự phát triển vượt bậc trong hoạt động khoa học, công nghệ
là những minh chứng tuyệt vời, chứng minh rằng các nhà khoa học đã càng
ngày càng đạt đến tự do khi nghiên cứu và ứng dụng thành công các phát
minh, khám phá khoa học của mình vào thực tiễn, phục vụ cho nhu cầu cuộc
sống ngày càng phát triển của con người. Các thành tựu của hoạt động khoa
học, công nghệ có mặt ở mọi lĩnh vực nghiên cứu.
Nhìn tổng thể, nhờ có tác động sâu sắc của hoạt động khoa học, công
nghệ mà nền kinh tế thế giới chuyển dần từ nền kinh tế công nghiệp sang một
loại hình kinh tế mới dựa trên chất xám và kỹ thuật, công nghệ cao, được gọi
là kinh tế tri thức. Đồng thời, hoạt động khoa học, công nghệ đã giảm dần ý
nghĩa của khoảng cách không gian, tạo điều kiện thúc đẩy giao lưu văn hóa
giữa các quốc gia, thúc đẩy sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu
rộng, phát triển nhanh chóng mậu dịch quốc tế, đầu tư trên phạm vi toàn cầu.
Từ đó, dẫn tới sự hình thành nền kinh tế toàn cầu hoá, với những biểu hiện rõ
nét: thương mại quốc tế phát triển mạnh; đầu tư nước ngoài tăng trưởng
nhanh; thị trường tài chính quốc tế mở rộng; các công ty xuyên quốc gia với
chi nhánh ở nhiều nước khác nhau, nắm trong tay lượng của cải vật chất rất
lớn và chi phối nhiều ngành kinh tế quan trọng. Ngược lại, toàn cầu hoá kinh
tế lại thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đẩy nhanh
đầu tư và khai thác triệt để khoa học, công nghệ, tăng cường sự hợp tác quốc
tế giữa các nước.
Có thể kể đến một số thành tựu của những lĩnh vực khoa học, công nghệ
được xem là mũi nhọn trong hoạt động khoa học, công nghệ hiện nay như:
lĩnh vực kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ y - sinh học
73
+ Lĩnh vực kỹ thuật điện tử
Trong đó, thành tựu nổi bật nhất của kỹ thuật điện tử là việc phát minh
và áp dụng máy vi tính điện tử. Từ khi chiếc máy vi tính điện tử đầu tiên trên
thế giới ra đời vào giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX đến nay, máy vi tính đã trải
qua nhiều thế hệ, không ngừng được cải tiến, với tính năng ngày càng phong
phú, tốc độ xử lý thong tin ngày càng cao, kích cỡ ngày càng nhỏ gọn, và đã
trở thành một phương tiện giao tiếp hữu hiệu, gần như không thể thiếu được
trong cuộc sống hiện đại.
Thành tựu của khoa học và công nghệ điện tử giúp hàng triệu người kết
nối với nhau qua điện thoại di động, với sức mạnh xử lý, dung lượng lưu trữ
và sự tiếp cận tri thức không giới hạn. Thành tựu của khoa học và công nghệ
điện tử cũng giúp tạo ra những bước tiến bộ đột phá về công nghệ mới nổi
trong các lĩnh vực như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng Internet, phương
tiện tự hành, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu
mới, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử.
Trong công nghiệp điện tử, Việt Nam đã tự sản xuất các vi mạch điện tử;
đã tự thiết kế, chế tạo thành công máy biến áp điện lực 3 pha 500KV-3x150
MVA; công nghiệp quốc phòng đang vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao
mới từ việc chế tạo được các tàu hộ vệ tên lửa cỡ nhỏ tấn công nhanh, hệ
thống thông tin, rađa quân sự cảnh báo sớm. Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã
hoạt động 3 lần trong nửa thế kỷ vừa qua, một lần vào năm 1963, một lần vào
năm 1984, và lần gần đây nhất là vào năm 2011. Điều này đã chứng minh
Việt Nam có khả năng cung cấp một nguồn nguyên liệu hạt nhân ổn định
+ Lĩnh vực công nghệ thông tin
Do sự phát triển và kết hợp của công nghệ vi điện tử và các ngành khoa
học, công nghệ mới khác (như công nghệ vi sóng, công nghệ cáp quang, công
nghệ vệ tinh) các phương tiện thông tin hiện đại đã được sản xuất và sử
dụng ngày càng phổ biến. Các công nghệ thông tin mới đã làm cho việc
74
truyền thông tin không những có dung lượng lớn, chất lượng tốt, diện phủ
rộng, nhanh chóng linh hoạt, an toàn đáng tin cậy, với rất nhiều hình thức và
chức năng mới (như máy fax, điện thoại di động, truyền hình kỹ thuật số,
truyền hình vệ tinh), mà còn không ngừng được đổi mới với tốc độ rất
nhanh. Cho đến ngày nay, hoạt động trong lĩnh vực thông tin đã và đang là
đòn bẩy cho nhiều ngành công nghiệp mới phát triển.
Ngày nay, công nghệ thông tin được ứng dụng trong mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội. Ứng dụng công nghệ thông tin là một nhiệm vụ ưu
tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, là phương
tiện chủ lực để rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước.
Có thể nói, những thành tựu trong lĩnh vực công nghệ thông tin là niềm
tự hào của khoa học và công nghệ hiện đại. Nó mở ra những khả năng to lớn,
tạo điều kiện cho con người nhận thức thế giới xung quanh, tạo cơ hội cho sự
hiểu biết, hợp tác và xích lại gần nhau giữa các dân tộc, quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, công nghệ thông tin hiện nay vẫn là một ngành công nghiệp
trẻ, năng động và ngày càng có những đóng góp đáng kể vào nền kinh tế.
Những phát minh trong lĩnh vực này ở Việt Nam còn ít, chủ yếu là nhập khẩu,
chuyển giao công nghệ và ứng dụng tại Việt Nam.
+ Lĩnh vực công nghệ vật liệu mới
Đây là lĩnh vực công nghệ thông qua phương pháp khoa học để chế tạo
ra các vật liệu thay thế cho các vật liệu sẵn có trong tự nhiên. Sự xuất hiện của
các vật liệu mới không những làm giảm bớt sự phụ thuộc của con người vào
tài nguyên thiên nhiên, mà còn làm cho sự nghiên cứu chế tạo và phát triển
các loại sản phẩm có trình độ khoa học kỹ thuật cao trở thành hiện thực.
Trong đó, các loại vật liệu cho thông tin, vật liệu tổng hợp và năng lượng
mới như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng mới từ nhiên liệu
sinh học như xăng Ethanol đang phát triển khá nhanh và có triển vọng nhất.
Vật liệu dùng cho thông tin chủ yếu bao gồm vật liệu bán dẫn, ghi chép thông
75
tin, vật liệu truyền cảm, vật liệu quang dẫn Đầu thế kỷ XXI, các nhà khoa
học hi vọng có thể tạo ra các vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ bình thường, các
chất siêu dẫn sẽ được ứng dụng mạnh mẽ hơn trong các lĩnh vực như công
nghiệp điện tử (chế tạo các máy tính điện tử siêu tốc cỡ một nghìn nghìn tỷ
phép tính/giây), giao thông vận tải (chế tạo các con tàu chạy trên các đệm từ
tính làm bằng chất siêu dẫn), trong điện kỹ thuật (tích trữ điện năng trong các
bô - bin không có điện trở, tải điện trên các dây siêu dẫn) [23, tr.39].
Ở Việt Nam, Đóng góp cho ngành vật liệu mới có thể kể đến sản phẩm
vật liệu từ Nd-Fe-B đã được Tiến sĩ Nguyễn Hồng Quyền, Viện Khoa học Vật
liệu (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và các cộng sự nghiên cứu chế
tạo và ứng dụng trong chế tạo máy tuyển từ để tuyển sa khoáng titan, ứng
dụng có hiệu quả trong một số hoạt động khác như loại sắt ra khỏi nguyên
liệu cho ngành gốm sứ, khai thác chế biến nguyên liệu cho ngành thủy tinh
cao cấp, vật liệu chịu lửa có chất lượng cao [16].
Có thể thấy, nguồn năng lượng mới là nguồn năng lượng bền vững và
sạch, không gây ô nhiễm, có thể giúp giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa
thạch và giảm mối đe dọa của sự nóng lên toàn cầu. Tất cả chúng ta tạo thành
lực lượng hành động mạnh mẽ cho sự thay đổi lịch sử bằng việc hướng đến sử
dụng nguồn năng lượng tái tạo. Công nghệ năng lượng mới sẽ thay đổi tất cả
mọi thứ về cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau.
+ Công nghệ y - sinh học
Công nghệ sinh học là một khoa học tương đối mới với các ứng dụng
khoa học liên quan trực tiếp đến nông nghiệp và công nghiệp. Công nghệ sinh
học mới bắt đầu vào những năm 1970 sau khi kỹ thuật di truyền đủ phát triển
đã cho phép các nhà khoa học thay đổi vật liệu di truyền của tế bào sống.
Công nghệ sinh học đang được nghiên cứu và phát triển hiện nay chủ
yếu là công nghệ gen, dung hợp tế bào, mô tế bào, phản ứng sinh vật và các
công nghệ gây men Công nghệ sinh học phục vụ trong việc tạo ra những
76
giống cây con mới, có khả năng chống chịu bệnh tật cao, cho năng suất cao
gấp nhiều lần so với giống cũ. Hay như công nghệ nuôi cấy mô, giúp tạo ra
các cơ quan nội tạng sử dụng trong chữa trị cấy ghép y học. Đặc biệt là ngày
nay, với công nghệ sinh học người ta có thể nhân bản vô tính bất kỳ sinh vật
nào, mà thành công mở đầu là việc nhân bản thành công cừu Dolly, mở ra
một triển vọng mới trong sự phát triển của nhân loại. Công nghệ sinh học đã
mở ra nhiều triển vọng cho việc giải quyết hàng loạt vấn đề lớn thuộc các lĩnh
vực sản xuất, y học, chăm sóc sức khoẻ, môi trường... theo hướng tích cực.
Việc phát hiện ra mật mã của sự sống, đọc và nắm được bản đồ gien... khiến
con người ngày càng hiểu sâu hơn về bản thân mình.
Trong lĩnh vực công nghệ y - sinh học, Việt Nam được biết đến như là
cái nôi của những giống lúa mới. Chỉ riêng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu
Long đã tuyển chọn, lai tạo và đưa vào sản xuất 114 giống lúa, trong đó 45
giống được công nhận chính thức. Ngoài ra, hàng năm có hàng chục giống
mới triển vọng được đưa vào sản xuất thử nghiệm ở hầu khắp các địa phương
trong vùng. Hầu hết các giống lúa do Viện chọn tạo đều có thời gian sinh
trưởng ngắn từ 90 - 100 ngày, đã giúp nông dân trong vùng có điều kiện thâm
canh, tăng vụ, né tránh lũ, tăng năng suất và sản lượng. Viện cũng đã kịp thời
chọn tạo và đưa vào gieo trồng các giống lúa mới có khả năng chống chịu với
rầy nâu và bệnh vàng lùn, lùn xoắn đáp ứng nhu cầu của sản xuất và hạn chế
đến mức thấp nhất thiệt hại do bệnh dịch gây ra. Hiện nay diện tích sử dụng
giống lúa do Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long chọn tạo đã đạt trên 2,4
triệu ha, chiếm 34,87% diện tích giống lúa của cả nước [16].
Việt Nam cũng có nhiều bước tiến trong lĩnh vực y học như: Nghiên cứu
và sản xuất thành công nhiều loại văcxin phòng bệnh cho trẻ em: Văcxin
“Rotavin-M1” (Rotavin-M1 là vắc xin sống giảm độc lực, uống phòng bệnh
tiêu chảy cho trẻ em dưới 5 tuổi, được sản xuất từ chủng virut rota G1P trên tế
bào Vero tại cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP thuộc Trung tâm Nghiên cứu,
Sản xuất Vắc xin và Sinh phẩm Y tế - Bộ Y tế.
77
Chủng virut rota G1P được nghiên cứu, sản xuất tại phòng thí nghiệm
đạt tiêu chuẩn GLP của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh tật CDC-
Atlanta-Hoa Kỳ và phòng thí nghiệm thuộc Trung tâm Nghiên cứu, Sản xuất
Vắc xin và Sinh phẩm y tế - Bộ Y tế. Chủng này đã được kiểm định chất
lượng theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới tại phòng thí nghiệm chuẩn
thuộc Trung tâm Nghiên cứu, Sản xuất Vắc xin và Sinh phẩm y tế - Bộ Y tế.
Chủng G1P đã được Viện Kiểm định Quốc gia vắc xin và Sinh phẩm y tế phê
chuẩn sử dụng cho sản xuất vắc xin vào năm 2007); ứng dụng thành công
trong ghép tạng người như ghép tim, ghép gan, ghép thận (Vào ngày
17/06/2010, tại Bệnh Viện 103, Học Viện Quân y, Bộ Quốc phòng đã thực
hiện thành công ca ghép tim trên người đầu tiên tại Việt Nam cho bệnh nhân
Bùi Văn Nam 48 tuổi, quê quán: Thôn 4, đội 4, xã Trực Thái, huyện Trực
Ninh, tỉnh Nam Định với chẩn đoán: Bệnh cơ tim thể giãn, suy tim toàn bộ
độ IV). Hay, ứng dụng công nghệ tế bào gốc trong điều trị ung thư tại Bệnh
viện Trung ương Huế vào tháng 3/2015 [127]
+ Lĩnh vực công nghệ vũ trụ
Nửa sau thế kỷ XX, loài người đã tiến những bước thần kỳ trong công
cuộc chinh phục vũ trụ và du hành vũ trụ. Từ việc phóng thành công vệ tinh
nhân tạo đầu tiên của Trái Đất (1957), con người đã bay vào vũ trụ (năm
1961) và đặt chân lên thám hiểm Mặt Trăng (năm 1969). Tiếp sau đó, con
người đã liên tiếp phóng những con tàu vũ trụ, tàu con thoi bay dài ngày trong
vũ trụ để thu nhận những thông tin và hình ảnh của sao Hỏa, sao Kim, sao
Mộc, sao Thủy, Khoa học vũ trụ ngày càng khẳng định vai trò của nó trên
nhiều phương diện của cuộc sống con người.
Ở Việt Nam, cho đến nay, có thể kể đến công trình điển hình trong lĩnh
vực này là Vệ tinh siêu nhỏ Pico-Dragon (Pico-Dragon - Vệ tinh có thể ứng
dụng trong các lĩnh vực như: liên lạc và nhận lệnh điều khiển từ trạm mặt đất;
78
Gửi các dữ liệu về thu thập được từ vệ tinh về trái đất; Chụp ảnh trái đất với
độ phân giải thấp; Gửi dữ liệu ảnh về trạm mặt đất.
Vệ tinh Pico-Dragon siêu nhỏ chủ yếu nhằm phục vụ công tác đào tạo
đội ngũ cán bộ trẻ, từ việc tạo điều kiện học tập, nghiên cứu các quy trình từ
thiết kế, chế tạo đến thử nghiệm, phóng lên quỹ đạo và cuối cùng là điều
khiển được vệ tinh.
Việc nghiên cứu, chế tạo vệ tinh siêu nhỏ Pico-Dragon hướng tới việc
xây dựng đội ngũ kỹ sư làm chủ quy trình, công nghệ chế tạo vệ tinh siêu nhỏ,
phục vụ cho định hướng phát triển công nghệ vệ tinh của Việt Nam trong
tương lai), là kết quả của đề tài “Mô phỏng, thiết kế và chế tạo vệ tinh pico”
cấp Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và là vệ tinh pico đầu tiên do
Việt Nam tự nghiên cứu, thiết kế và chế tạo.
Và, còn rất nhiều lĩnh vực công nghệ khác với nhiều thành tựu to lớn
như công nghệ hải dương, công nghệ hạt nhân
Như vậy, đánh giá từ góc độ những thành tựu của khoa học, công nghệ,
có thể khẳng định rằng, trong lĩnh vực này, con người đã được tự do và tự do
đó ngày càng được tăng lên. Con người ngày càng khẳng định vị thế của mình
trước tự nhiên và xã hội. Mặt khác, chính những thành tựu ấy đã và đang tạo
ra những điều kiện, những đảm bảo ngày một tốt hơn cả về mặt vật chất lẫn
về mặt tinh thần cho sự phát triển tự do của con người. Sự phát triển kinh tế,
công nghệ tạo điều kiện cho sự phát triển con người thông qua việc đáp ứng
ngày một đầy đủ hơn các nhu cầu về vật chất, chăm sóc sức khỏe, giáo dục,
giải trí... Tất cả những điều đó làm cho sự lựa chọn giá trị cũng như hoạt động
của con người ngày càng tự do hơn, được đảm bảo hơn.
- Tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ với tư cách là quyền con người
Tự do bao giờ cũng là điểm xuất phát của sự phát triển. Hay nói như
cách của Nguyễn Trần Bạt, trong tác phẩm nổi tiếng của ông - Cội nguồn cảm
hứng: “không có sự phát triển nào đi trước tự do” [19, tr.316]. Phát triển vừa
79
là hệ quả của tự do, đồng thời cũng là tiền đề để con người tự do nhiều hơn.
Và, tự do đã trở thành điều kiện cho sự phát triển khoa học và công nghệ hiện
đại. Tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ không những phát huy sức
sáng tạo của cá nhân, tổ chức mà còn phát huy sức mạnh tổng thể từ những
cái đã có, để sáng tạo ra những cái cần có.
Về mặt thực tiễn, tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ được biểu
hiện ra thành những quy định của xã hội cho phép và tạo điều kiện cho các
nhà khoa học được tự do nghiên cứu, tự do ứng dụng các thành quả nghiên
cứu khoa học đến đâu, trong phạm vi nào.
Có thể thấy, xã hội ngày càng mở rộng không gian tự do cho sự nghiên
cứu khoa học và ứng dụng các thành quả nghiên cứu đó vào cuộc sống. Để
tạo điều kiện cho sự phát triển khoa học, công nghệ, cũng như mở rộng không
gian - phạm vi cho hoạt động khoa học, công nghệ, mỗi quốc gia đều tự xây
dựng cho mình Luật khoa học và công nghệ và các văn bản khác liên quan
trong lĩnh vực này.
Chẳng hạn, riêng ở Việt Nam, những quy định trong lĩnh vực khoa học,
công nghệ đã được ban hành khá đầy đủ, gồm 08 đạo luật, hàng loạt văn bản
hướng dẫn thi hành, nhiều văn bản quan trọng khác về xây dựng tiềm lực và
đổi mới cơ chế quản lý khoa học - công nghệ cũng đã được ban hành, bổ sung
và hoàn thiện nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động khoa
học - công nghệ [Phụ lục]. Đặc biệt, trong Luật khoa học và công nghệ Việt
Nam (2013) cũng nhấn mạnh trong Điều 27: “Khuyến khích ứng dụng hết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ”. Trong đó khoản 3 và khoản 4
của Điều này khẳng định: “Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức khoa học và
công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học, công nghệ chuyển giao kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để ứng dụng rộng rãi vào sản
xuất và đời sống”; “Chủ sở hữu, tác giả và người ứng dụng thành công kết
quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được hưởng lợi ích do việc
80
ứng dụng kết quả này vào sản xuất và đời sống theo hợp đồng khoa học và
công nghệ và theo quy định của pháp luật” [122, tr.28].
Thêm vào đó, mỗi quốc gia cũng tự xây dựng cho mình chiến lược phát
triển khoa học, công nghệ riêng. Tất cả đều nhằm mục đích làm sao cho khoa
học, công nghệ được phát triển một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Chính các
quốc gia cũng là một trong những chủ thể quan trọng tạo điều kiện cho các cá
nhân, tổ chức thực hiện quá trình tự do sáng tạo của mình, tạo tiền đề cho sự
phát triển của đất nước.
Không gian tự do cho hoạt động khoa học, công nghệ ngày càng được
mở rộng, còn được minh chứng qua nguồn ngân sách đầu tư cho phát triển
khoa học và công nghệ hiện nay trên thế giới ngày càng được thăng thêm.
Riêng ở Việt Nam, từ năm 2001 đến nay, Nhà nước chủ trương chi
cho khoa học, công nghệ 2% tổng chi ngân sách hằng năm, Dự toán ngân
sách nhà nước năm 2018 vừa được Quốc hội thông qua đã quyết định tăng
chi cho khoa học, công nghệ 8% so với năm 2017, nhưng chi cho khoa học,
công nghệ vẫn chưa đạt 2% tổng chi ngân sách. Xét về tỷ lệ tương đối so
với tổng chi, mặc dù chưa đạt được 2%, nhưng đây cũng là mức chi khá
cao so với nhiều nước trên thế giới. Nhưng về giá trị tuyệt đối, nguồn tài
chính mà Nhà nước chi cho khoa học, công nghệ có thể nói là không đáng
kể so với nhiều nước trên thế giới, vì tổng chi ngân sách hằng năm của Việt
Nam nhỏ [10].
Ở các nước trên thế giới, đầu tư cho khoa học , công nghệ chủ yếu là từ
khu vực doanh nghiệp, chứ không phải từ nhà nước. Việt Nam cũng có nhiều
cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho khoa học, công
nghệ, nhằm đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của
doanh nghiệp cho đầu tư phát triển khoa học, công nghệ theo Chiến lược Phát
triển khoa học, công nghệ giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
81
Tuy nhiên, ngoại trừ một số doanh nghiệp lớn, đặc biệt doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, còn tuyệt đại đa số doanh
nghiệp không quan tâm nhiều lắm đến đầu tư cho lĩnh vực này. Vì thế, tổng
mức đầu tư toàn xã hội cho khoa học, công nghệ hiện chưa đến 1% GDP,
trong khi đó, Nghị quyết 20/NQ-TW đặt ra phải đầu tư cho khoa học, công
nghệ tối thiểu 1,5% GDP vào năm 2015 và 2% vào năm 2020.
Với thực trạng trên, chắc chắn còn rất lâu, chúng ta mới theo kịp các
nước, bởi hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển hơn đều chi cho lĩnh vực
này tương đương 3 - 4% GDP, thậm chí 7 - 8% GDP (ví dụ: Nhật Bản). Quy
mô nền kinh tế đã nhỏ, tỷ lệ chi cho khoa học, công nghệ so với GDP lại thấp,
nên tổng số chi cho khoa học, công nghệ của Việt Nam quá nhỏ. Chưa kể, chi
cho khoa học, công nghệ ở Việt Nam không khác gì chi ngân sách cho các
lĩnh vực khác, không đầu tư trọng tâm, trọng điểm. Cụ thể, 38% tổng chi
được chia cho các địa phương, hơn 40% chia cho các bộ, ngành và chỉ có
khoảng 20% chi cho Bộ Khoa học và Công nghệ - cơ quan chịu trách nhiệm
tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng
tạo; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; sở hữu trí tuệ
Chi ngân sách theo kiểu “hoa thơm mỗi người hưởng một tý” dẫn đến rất
nhiều địa phương không chi hết tiền, năm nào cũng kết dư, nhiều địa phương
do chi không hết nên sử dụng tiền chi cho khoa học - công nghệ vào các
nhiệm vụ chi khác. Ngược lại, các trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu
không có tiền để đầu tư, nên chỉ đầu tư nửa vời, “không đến đầu đến đũa”,
không ra sản phẩm cuối cùng để có thể chuyển giao trên thị trường, đưa các
phát minh, sáng chế vào ứng dụng trong cuộc sống [10].
Như vậy, nhận thức rõ vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự
phát triển của đất nước, Việt Nam luôn tạo môi trường tự do cho nghiên
cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ. Trong hoạt động khoa học, công
nghệ, Việt Nam luôn tăng cường và phát triển tiềm lực khoa học cả về ngân
82
sách, mạng lưới khoa học trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội. Sự tự do sáng tạo trong hoạt động khoa học, công nghệ đã góp phần
quan trọng, tích cực cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy
nhiên, từ nhận thức đến thực tiễn là cả một quá trình lâu dài. Để thực sự tạo
điều kiện cho phát triển khoa học, công nghệ, chúng ta cần tập trung đổi
mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động
khoa học, công nghệ; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, gắn nhiệm vụ phát
triển khoa học, công nghệ với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các
cấp, các ngành. Có như vậy, đầu tư cho khoa học, công nghệ nước ta mới
thực sự trở thành động lực cho phát triển tự do của các chủ thể hoạt động
trong lĩnh vực này.
3.1.2. Giới hạn của tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ
- Những hậu quả tiêu cực trong hoạt động khoa học, công nghệ là một
trong những giới hạn của tự do của con người trong hoạt động này
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tự do chân chính của con người
không chỉ là nhận thức được tính tất yếu khách quan, mà còn là khả năng nắm
bắt được các quy luật tự nhiên và các quy luật xã hội để chủ động và tích cực
cải tạo, thúc đẩy xã hội phát triển. Hơn thế nữa, tự do của người này cần phải
không làm ảnh hưởng tới sự tự do của người khác, chà đạp lên sự tự do của
người khác.
Câu hỏi được đặt ra là: trong hoạt động khoa học, công nghệ, xã hội nói
chung, các nhà khoa học trong đó nói riêng có được tự do hay không? Đánh
giá từ góc độ những thành tựu của hoạt động khoa học, công nghệ, thì chúng
ta có thể khẳng định: hoạt động khoa học, công nghệ sẽ không thể diễn ra và
đạt nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực cuộc sống như vậy nếu người ta
không nắm bắt được quy luật vận động của giới tự nhiên cũng như nắm bắt
được những đòi hỏi, những nhu cầu ngày càng tăng của xã hội loài người để
tạo ra những sản phẩm phục vụ cho chính cuộc sống ngày càng hiện đại của
83
những con người. Có nghĩa là, trong hoạt động này, con người đã được tự do
và tự do đó ngày càng được tăng lên.
Đối với hoạt động khoa học, sự tiến bộ và hiệu quả của nó đối với sự
phát triển xã hội đòi hỏi các nhà khoa học phải được tự do về mặt trí tuệ, sáng
tạo. Điều này bao gồm tự do cá nhân trong việc điều tra, nghiên cứu, trao đổi
ý tưởng, tự do để đạt được các kết luận khoa học và khả năng nhân rộng kết
quả khoa học. Các điều kiện thúc đẩy quyền tự do bao gồm khả năng tham gia
một cách tự do với các nhà khoa học khác và với các cộng đồng khoa học
cũng như tiếp cận các luồng thông tin khoa học.
Khi có tự do, con người ngày càng khẳng định vị thế của mình trước tự
nhiên và xã hội. Mặt khác, chính những thành tựu ấy đã và đang tạo ra những
điều kiện, những đảm bảo ngày một tốt hơn cả về mặt vật chất lẫn về mặt tinh
thần cho sự phát triển tự do của con người.
Sự phát triển kinh tế, công nghệ tạo điều kiện cho sự phát triển con
người thông qua việc đáp ứng ngày một đầy đủ hơn các nhu cầu về vật chất,
chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giải trí... Tất cả những điều đó làm cho sự lựa
chọn giá trị cũng như hoạt động của con người ngày càng tự do hơn, được
đảm bảo hơn. Nhưng tự do đó của con người là chưa toàn vẹn, bởi vẫn còn đó
những hậu quả nặng nề do chính sự phát triển này gây ra cho toàn nhân loại
hôm nay và mai sau. Những hậu quả đó đã minh chứng rằng con người chưa
nắm được hết các quy luật vận động và phát triển của khoa học và công nghệ
để có thể hạn chế được chúng. Nói cách khác, khi nhìn nhận ở khía cạnh
những thành quả của hoạt động khoa học, công nghệ thì con người đã khẳng
định được tự do của mình, nhưng khi nhìn nhận ở khía cạnh những hậu quả
tiêu cực của hoạt động này thì rõ là tự do con người còn bị hạn chế.
Hoạt động khoa học, công nghệ với đỉnh cao là cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại và hiện nay nhân loại đang bước vào cách mạng
công nghệ 4.0, với những mặt trái của nó:
84
Đó là, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, bị tàn phá. Sự phát triển của khoa
học, công nghệ đã trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến tình trạng môi trường bị ô
nhiễm bởi các chất hóa học, sinh học, bức xạ, tiếng ồn, gây ảnh hưởng đến
sức khỏe con người và các sinh thể sống khác. Mặc dù trước đó con người đã
được cảnh báo về thảm họa sinh thái này. Đương thời, Mác cũng nhận thức
được hậu quả tiêu cực của sự phát triển kỹ thuật và công nghiệp đối với môi
trường sinh thái nếu hoạt động của con người trong lĩnh vực này không được
kiểm soát và quản lý trên phạm vi toàn thế giới, bởi vì sự phát triển này có thể
“để lại sau nó một hoang mạc” [38, tr.74]. Với khoa học, kỹ thuật và công
nghệ trong tay, con người đã chinh phục thiên nhiên bằng mọi giá nhằm thu
lợi nhuận nhiều nhất, nhanh nhất, bất chấp những quy luật của tự nhiên. Kết
quả là tự nhiên đang “trả thù” con người. Như ô nhiễm môi trường, mất cân
bằng sinh thái, lũ lụt, hạn hán ngày càng trở nên trầm trọng.
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang là chủ đề nón
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_van_de_tu_do_trach_nhiem_dao_duc_trong_hoat_dong_kho.pdf