LỜI CẢM ƠN . .i
LỜI CAM ĐOAN . .ii
MỤC LỤC .ii
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT . iv
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ . v
DANH MỤC BẢNG BIỂU.vii
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT . 5
1.1. Sơ lược về công nghệ nano. 5
1.2. Nano vàng. 6
1.2.1. Tính chất của nano vàng . 7
1.2.2. Ứng dụng của nano vàng. 9
1.3. Các phương pháp chế tạo nano vàng. 10
1.3.1. Phương pháp khử hóa học. 10
1.3.2. Phương pháp sinh học. 11
1.3.3. Phương pháp vật lí. . 11
1.3.4. Phương pháp điện hóa. 12
1.4. Lý do lựa chọn chế tạo nano vàng bằng phương pháp pháp điện hóa. 13
1.5. Kết luận. . 14
Chương 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP . 15
2.1. Vật liệu. 15
2.1.1. Hóa chất, nguyên vật liệu. 15
2.1.2. Thiết bị. 15
2.2. Quy trình chế tạo nano vàng. . 15
2.3. Khảo sát đặc trưng lí-hóa của dung dịch nano vàng. 16
2.3.1. Phương pháp đo phổ hấp thụ UV-vis. . 16
2.3.2. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua. . 17
61 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 28/02/2022 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chế tạo và nghiên cứu tính quang của nano vàng định hướng ứng dụng trong y sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền chất sau đó sử dụng các chất khác nhau để khử Au3+ thành
Au0. Dung dịch ban đầu thường là muối vàng như HAuCl4. Chất khử như axit
citric, vitamin C, natri borohydride (NaBH4), cồn, etylen glycol. Phương pháp
này đơn giản nhưng lại bị giới hạn bởi tính sẵn có của tiền chất ban đầu, giá thành
và độ sạch của sản phẩm cuối cùng [2], [33].
11
Hình 1.6. Quá trình khử từ muối vàng HAuCl4 thành nano vàng [4]
1.3.2. Phương pháp sinh học.
Tương tự như phương pháp khử hóa học, phương pháp này sử dụng chiết
xuất từ thực vật hay một số vi khuẩn để khử muối HAuCl4 thành hạt nano vàng
[11], [12], [34]. Đây là phương pháp tự nhiên, đơn giản với chi phí thấp để sản
xuất nano vàng mà hạn chế được sự tồn dư các độc chất. Tuy nhiên, hàm lượng
nano vàng chế tạo được thường thấp và khó kiểm soát được kích thước.
1.3.3. Phương pháp vật lí.
Đây là phương pháp "từ trên xuống", biến đổi vàng khối thành nano vàng
(Hình 1.7). Nhờ một hệ quang học, chùm laser được hội tụ lên bề mặt tấm kim
loại Au đặt trong một bình chứa nước hoặc cồn để bứt phá các nguyên tử hay tinh
thể nano vàng từ tấm vàng khối [5].
12
Hình 1.7. Mô hình bắn phá laser để tạo ra nano vàng [5]
1.3.4. Phương pháp điện hóa.
Năm 2006, nhóm nghiên cứu của Huang và cộng sự [6] đã chế tạo thành
công nano vàng với kích thước ~40nm bằng phương pháp điện hóa. Phương pháp
này sử dụng một điện cực vàng (anot), một điện cực platine (catot) và 0,08M
muối CTAB. Trong quá trình điện phân, vàng bị oxi hóa ở anot và dịch chyển về
phía catot nơi xảy ra sự khử và sự hình thành các nguyên tử vàng. Quá trình được
thực hiện trong điều kiện rung siêu âm để kiềm chế sự bám lại của các nguyên tử
vàng lên catot. Các nguyên tử vàng được chất hoạt động bề mặt trong dung dịch
(muối CTA) bao bọc và hình thành các hạt nano vàng.
13
Hình 1.8. Mô hình chế tạo nano vàng bằng phương pháp điện hóa [6]
Ngoài ra, một số phương pháp chế tạo nano vàng khác cũng liên tục được
các nhà khoa học trên thế giới công bố [35]. Tuy nhiên, sau khi nano vàng được
chế tạo, chúng cần được chức năng hóa với các phần tử sinh học để hướng tới
mục đích ứng dụng cụ thể [36].
1.4. Lý do lựa chọn chế tạo nano vàng bằng phương pháp pháp điện hóa.
Trong những năm gần đây, nhóm nghiên cứu của TS. Trần Quang Huy
đã công bố chế tạo thành công nano bạc bằng phương điện hóa từ thanh bạc khối
trong nước cất 2 lần, với sự hỗ trợ của natri citrate và nguồn điện áp một chiều
[20], [21]. Kích thước của hạt nano bạc có thể điều khiển được bằng điện áp,
nồng độ citrate và thời gian chế tạo. Ngoài ra, tham khảo từ các phương pháp
chế tạo nano vàng bằng phương pháp điện hóa cũng cho thấy dung dịch nano
vàng tổng hợp được có độ sạch cao, phương pháp thân thiện với môi trường và
điều kiện thí nghiệm đơn giản [15], [16], [18]. Khi phát t r iển thành công
14
phương pháp này hứa hẹn một cách thức tiếp cận mới, đơn giản để chủ động tạo
ra nguồn nano vàng sạch cho các mục đích ứng dụng khác nhau, đặc biệt là trong
lĩnh vực y sinh học.
1.5. Kết luận.
Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một cách ngắn ngọn những kiến
thức nền tảng và dẫn dắt tới vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt là làm rõ tại sao lại lựa
chọn chủ đề nghiên cứu này làm đề tài luận văn. Chương này đã đề xuất một
phương pháp mới đó là phương pháp điện hóa để chế tạo hạt nano vàng từ thanh
vàng khối trong nước cất. Sự thành công của nghiên cứu sẽ đưa ra được một
phương pháp chế tạo nano vàng thân thiện với môi trường, điều kiện chế tạo đơn
giản, có khả năng áp dụng để sản xuất trên quy mô công nghiệp, hứa hẹn tạo ra
nguồn nano vàng sạch, chủ động cho các nghiên cứu liên quan và mang lại hiệu
quả kinh tế cao.
15
Chương 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu.
2.1.1. Hóa chất, nguyên vật liệu.
Hai thanh vàng (Au), độ sạch 99,99%, mua từ một Công ty vàng bạc tại Hà
Nội, có kích thước 70 mm x 5 mm x 0,2 mm (dài x rộng x dày). Natri citrate
Na3C6H5O7 từ Sigma Aldrich.
Chủng vi khuẩn gây bệnh đường ruột (Escherichia coli O157); thạch
Luria–Bertani (LB) đến nuôi vi khuẩn. Các vật liệu sinh học này được cung cấp
bởi Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
Bình thủy tinh loại 60 ml,100 ml và 500 ml; các ống dùng để đựng dung
dịch; pipét các loại; ống falcol 15 ml và 50 ml; ống ly tâm eppendorf 1,5 ml; lưới
đồng (200mắt) phủ màng colodion – cacbon; giấy nhôm (aluminum foil); cồn tuyệt
đối, nước cất 2 lần và các nguyên vật liệu liên quan khác đảm bảo điều kiện cho
việc phân tích.
2.1.2. Thiết bị.
Máy khuấy từ gia nhiệt (RH B-T/IKA); cân phân tích (TE214S/Sartorius);
máy khuấy siêu âm (RK 102 CH/Bandelin); máy ly tâm (H1300, Nhật Bản);
máylắc(MX-S/EMCLab).
Đồng hồ vạn năng đo cường độ dòng điện và hiệu điện thế; bộ nguồn cung
cấp điện áp một chiều có thể thay đổi giá trị từ 0 đến 15V (bước thay đổi 1V); tủ
lạnh Sanyo.
2.2. Quy trình chế tạo nano vàng.
Hai thanh vàng (Au) được rửa sạch bằng nước cất hai lần rồi cho vào máy
rung siêu âm 15 phút để loại bỏ hoàn toàn bụi bẩn bám dính trên bề mặt. Sau đó,
nối hai thanh với hệ điện hóa đặt trên máy khuấy từ. Trong đó, một thanh đóng vai
trò làm anốt và thanh còn lại là catốt, khoảng cách giữa hai điện cực cách nhau 2
16
cm. Sau đó, 50 ml nước cất hai lần được thêm vào bình điện hóa sao cho 2 điện
cực ngập trong nước 50 mm (Hình 2.1), thêm vào bình một nồng độ natri citrate
thích hợp, khuấy từ 20 phút để natri citrate hòa tan hoàn toàn vào trong dung dịch.
Hệ điện hóa đã thiết lập được cấp nguồn điện một chiều có khả năng thay đổi điện
áp từ 0-15V và duy trì khuấy từ nhẹ trong suốt quá trình chế tạo. Trong quá trình
chế tạo, dung dịch trong bình sẽ chuyển từ màu trắng trong sang màu hồng và ổn
định ở màu tím nhạt. Tùy theo điều kiện khảo sát từ 1-3 giờ, ngắt nguồn điện và
nhấc hai thanh vàng ra khỏi bình điện hóa.
Hình 2.1. Mô hình chế tạo dung dịch nano vàng.
2.3. Khảo sát đặc trưng lí-hóa của dung dịch nano vàng.
2.3.1. Phương pháp đo phổ hấp thụ UV-vis.
UV-vis (Ultraviolet–visible spectroscopy) là phương pháp phân tích dựa
trên hiệu ứng hấp thụ khi vật chất trong dung dịch tương tác với bức xạ điện từ
(Hình 2.2). Trong đó, bức xạ điện từ trong phép phân tích có bước sóng từ vùng
cực tím đến vùng ánh sáng khả kiến (thông thường: 180 nm – 1100 nm). Do nano
vàng có các thuộc tính quang học bề mặt phụ thuộc vào hình dạng, kích thước và
nồng độ của hạt, nên có thể dựa trên các đỉnh hấp thụ UV-vis để xác định sự hình
thành hạt nano sau khi chế tạo.
Thanh vàng
Natri citrate
trong nước cất
2 lần
Máy khuấy từ
2 cm
5 cm
7 cm
Con quay
17
Hình 2.2. Máy quang phổ UV-vis
Chuẩn bị mẫu: Đầu tiên, rửa sạch cuvet thạch anh trong suốt bằng nước cất
2 lần và lau khô bằng giấy sạch. Tiếp theo, bơm dung dịch nano vàng vào cuvet.
Sau đó, đặt cuvet chứa dung dịch nano vàng và cuvet chứa nước cất để làm chuẩn
vào máy đo phổ UV-vis để quét phổ. Dữ liệu phổ hấp thụ được thu thập trên máy
tính và xử lí bằng phần mềm Origin 8.0. Phép đo được thực hiện ở nhiệt độ phòng,
trên máy đo phổ hấp thụ tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
2.3.2. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua.
Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) có nguyên lý hoạt động tương tự như
kính hiển vi quang học. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử truyền qua sử dụng chùm
tia điện tử thay cho ánh sáng trắng để tạo hình ảnh. Thấu kính sử dụng là thấu kính
điện từ (Hình 2.3). Chùm tia điện tử bắt nguồn từ nguồn phát xạ (Vonfram, LaB6
hay phát xạ trường) qua tụ kính tới vị trí lưới đồng (mẫu) và phóng đại ảnh của
mẫu thông qua vật kính, thấu kính phóng, ảnh cuối cùng được quan sát trên màn
huỳnh quang (hoặc được camera thu lại và truyền tới màn hình máy tính). Môi
trường truyền chùm điện tử và đặt mẫu là chân không cao (106 – 109 Torr).
18
Ảnh TEM là hình ảnh đen trắng phía sau của mẫu, đặc trưng bởi mật độ điện
tử truyền qua ngay dưới bề mặt mẫu. Hình ảnh này được phóng đại qua một loạt
các thấu kính trung gian và cuối cùng thu được trên màn huỳnh quang hoặc camera.
Kính TEM có độ phân giải khoảng 1-3A0 và độ phóng đại từ x50 tới x1.500.000.
Trong nghiên cứu này, TEM qua được sử dụng để khảo sát về hình thái và kích
thước của hạt nano vàng.
Hình 2.3. Kính hiển vi điện tử truyền qua (JEM 1010, JEOL).
Chuẩn bị mẫu: Nhỏ dung dịch nano vàng lên lưới đồng (loại 200 mắt lưới)
đã phủ màng collodion-cacbon, để khô tự nhiên trước khi đưa vào quan sát trên
máy TEM. Thực hiện phép đo trên kính JEM 1010 (JEOL)tại Phòng thí nghiệm
Siêu cấu trúc - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
2.3.3. Phương pháp hiển vi điện tử quét.
19
Kính hiển vi điện tử quét (SEM) sử dụng chùm điện tử quét trên bề mặt mẫu
và giúp quan sát hình thái bề mặt của chúng thông qua các chùm tia điện tử thứ
cấp hay tán xạ ngược (Hình 2.4). Từ súng điện tử, chùm điện tử đi qua tụ kính, vật
kính, rồi sau đó hội tụ và quét trên bề mặt của mẫu. Hình ảnh SEM là hình ảnh tái
tạo bởi máy tính được phản ảnh lại nhờ các điện tử thứ cấp và điện tử tán xạ ngược,
thu được nhờ các đầu dò gắn bên sườn kính.
20
(Hình 2.4. Kính hiển vi điện tử quét (S-4800, Hitachi).
Chuẩn bị mẫu: Dung dịch nano vàng được li tâm để cô đặc và nhỏ lên bề
mặt đế gắn băng dính cacbon hoặc nhôm, để khô tự nhiên trong không khí, sau đó
hút chân không rồi đưa vào kính hiển vi điện tử quét để quan sát hình thái bề mặt
và phân bố kích thước hạt nano vàng. Phép đo được thực hiện trên kính SEM phát
xạ trường (S4800 – Hitachi) tại Phòng thí nghiệm Siêu cấu trúc - Viện Vệ sinh
Dịch tễ Trung ương.
2.3.4. Phương pháp phân tích thành phần (EDX).
Phổ tán xạ năng lượng tia X (EDX), hoặc phổ tán sắc năng lượng là kỹ thuật
phân tích thành phần hóa học của vật rắn thông qua việc ghi lại phổ tia X phát ra
từ vật rắn do tương tác với các bức xạ (chùm điện tử năng lượng cao của kính hiển
vi điện tử) (Hình 2.5).
EDX được thực hiện chủ yếu trong các kính hiển vi điện tử. Khi chùm điện
tử có năng lượng lớn được chiếu vào vật rắn, nó sẽ đâm xuyên sâu vào nguyên
tử vật rắn và tương tác với các lớp điện tử bên trong của nguyên tử. Việc ghi nhận
21
phổ tia X phát ra từ vật rắn sẽ cho thông tin về các thành phần nguyên tố hóa học
có mặt trong mẫu.
Phép phân tích EDX trong nghiên cứu này nhằm xác định độ sạch của hạt
nano vàng sau khi chế tạo bằng phương pháp điện hóa.
Hình 2.5. Thiết bị phân tích EDX (EMAX-Horiba) gắn trên kính hiển vi
điện tử quét (S-4800, Hitachi).
Chuẩn bị mẫu: Mẫu được chuẩn bị như phương pháp chuẩn bị để đo SEM
(không phủ kim loại). Cách quan sát mẫu tương tự như với cách quan sát hình ảnh
mẫu SEM. Các thông số thiết lập của kính trước khi phân tích EDX bao gồm: điện
thế gia tốc là 15kV, khoảng cách làm việc là 15 mm. Phép đo được thực hiện trên
thiết bị phân tích phổ tán xạ năng lượng tia X (E-Max, Horiba) gắn trên kính hiển
vi điện tử quét (S4800 – Hitachi) tại Phòng thí nghiệm Siêu cấu trúc - Viện Vệ sinh
Dịch tễ Trung ương.
2.3.5. Phương pháp nhiễu xạ tia X.
22
Nhiễu xạ tia X là hiện tượng các chùm tia X nhiễu xạ trên các mặt tinh
thể của chất rắn (Hình 2.6). Phương pháp nhiễu xạ tia X được sử dụng để phân
tích cấu trúc chất rắn, vật liệu... Về bản chất vật lý, nhiễu xạ tia X cũng gần
giống với nhiễu xạ điện tử, sự khác nhau trong tính chất phổ nhiễu xạ là do sự
khác nhau về tương tác giữa tia X với nguyên tử và sự tương tác giữa điện
tử và nguyên tử. Mỗi nhiễu xạ tương ứng với một tập các mặt phẳng có khoảng
cách đều nhau bên trong tinh thể. Từ vị trí và độ chùm của các nhiễu xạ khác
nhau quan sát được khi tinh thể từ từ xoay quanh chùm tia X ta xác định được
mật độ các electron bên trong tinh thể. Vị trí của các nguyên tử bên trong tinh
thể được xác định thông qua việc kết hợp giữa thông tin về mật độ các electron
và dữ liệu về thành phần hóa học trong tinh thể.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nhiễu xạ tia X để xác định cấu trúc
tinh thể của nano vàng sau khi tạo thành bằng phương pháp điện hóa.
23
Hình 2.6. Máy nhiễu xạ tia X.
(Nguồn: Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại
học Quốc gia Hà Nội)
Chuẩn bị mẫu: Sử dụng mẫu bột nano. Dung dịch nano vàng được cô đặc
sau khi đưa vào quay li tâm với tốc độ 8.000 vòng/phút, trong 15 phút. Tiếp theo,
đặt phần nano vàng lắng đọng lên lam kính tạo thành lớp dày. Sau đó, để khô trong
không khí và phân tích nhiễu xạ tia X. Phép đo được thực hiện ở nhiệt độ phòng
trên máy đo nhiễu xạ tia X (D8, ADVANCE - Bruker) tại Khoa Hóa học - Trường
Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.3.6. Phương pháp đo thế Zeta.
Là phép phân tích kích thước hạt dựa trên nguyên lý tán xạ ánh sáng động
học (DLS - dynamic light scattering). Để phép đo cho kết quả chính xác yêu cầu
nồng độ hạt cao và tối (từ 0,001% đến 40%) (Hình 2.7). Trong nghiên cứu này, thế
Zeta được sử dụng để xác định sự ổn định của dung dịch nano vàng sau khi chế
tạo.
24
Hình 2.7.Thiết bị đo thế Zeta.
Chuẩn bị mẫu: bơm dung dịch nano vàng vào cuvet thạch anh trong suốt
rồi đặt cuvet vào máy đo thế Zeta. Dữ liệu từ máy đo được chuyển qua máy tính
để xử lý. Phép đo được thực hiện trên máy đo thế Zeta (Malvern-UK) thuộc Viện
Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.
2.4. Chức năng hóa nano vàng với kháng thể.
Dung dịch nano vàng được ly tâm, lọc rửa trong nước cất hai lần và loại bỏ
hoàn toàn lượng natri citrate tồn dư (nếu có) trong dung dịch. Sau đó, ủ với kháng
thể đa dòng thỏ kháng vi khuẩn E.coli O157 trong 1 giờ trước khi ly tâm 14.000
vòng/phút ở 40C tốc độ cao để đảm bảo kháng thể gắn kết vật lý chặt chẽ với hạt
nano vàng thông qua các lực liên kết vật lý (Hình 2.8). Dung dịch này sau đó lọc
rửa trong đệm PBS pH7.2 và lưu giữ ở 40C trước khi sử dụng.
25
Hình 2.8. Quy trình gắn kháng thể với hạt nano vàng.
2.5. Đánh dấu và phát hiện vi khuẩn E.coli O157 bằng nano vàng.
Nano vàng sau khi chức năng hóa với kháng thể sẽ được thử nghiệm để đánh
giá khả năng đánh dấu và phát hiện vi khuẩn E.coli O157 thông qua kỹ thuật miễn
dịch hiển vi điện tử theo thường quy của phòng thí nghiệm (Hình 2.9) [37], [38].
Quy trình này có thể tóm tắt như sau: mẫu vi khuẩn E.coli O157 ở nồng độ 106
cfu/mL được cố định trong dung dịch glutaraldehyde 0,5% trong thời gian 20 phút,
tiếp theo đưa lưới đồng đã phủ màng collodion-cacbon lên trên một giọt mẫu để vi
khuẩn có thể bị hút bám lên trên màng. Sau đó, lưới được rửa 3 lần trên giọt dung
dịch đệm PBS pH7.4, tiếp tục ủ lưới có mẫu với cộng hợp nano vàng – kháng thể
trong 30 phút. Rửa lại 3 lần trên giọt dung dịch đệm PBS và để khô trong không
khí trước khi quan sát bằng TEM.
Hình 2.9. Phức hợp kháng thể-hạt vàng (1) và đánh dấu với vi khuẩn để quan sát
trên kính hiển vi điện tử truyền qua (2).
26
2.6. Kết luận.
Chương 2 đã mô tả chi tiết các nguyên vật liệu, các phương pháp phân tích,
quy trình và nguyên lý đã được sử dụng để thực hiện đề tài nghiên cứu. Các thiết
bị và phép phân tích hiện đại của các phòng thí nghiệm hàng đầu của Việt Nam,
các thiết bị phân tích hiện đại có độ tin cậy và chính xác cao.
27
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Chế tạo hạt nano vàng bằng phương pháp điện hóa.
3.1.1. Sự hình thành nano vàng quan sát bằng mắt thường.
Với phương pháp điện hóa, nano vàng đã được chế tạo thành công từ vàng
khối trong nước cất 2 lần chỉ thông qua 1 bước, với sự hỗ trợ của một lượng natri
citrate nhỏ cỡ 0,1%. Trong nghiên cứu này, quá trình hình thành hạt nano vàng
được khảo sát theo sự thay đổi màu sắc quan sát bằng mắt thường, điện áp sử dụng,
lượng natri citrate đưa vào và thời gian chế tạo.
Để khảo sát sự ảnh hưởng của điện áp đưa vào, sau các quá trình thử nghiệm
ban đầu, chúng tôi lựa chọn và cố định nồng độ natri citrate 0,1% và thời gian chế
tạo trong 2 giờ. Kết quả quan sát bằng mắt thường cho thấy, không có sự thay đổi
màu sắc trong dung dịch chế tạo với điện áp 3V, kiểm tra phổ hấp thụ UV-vis cũng
không thấy xuất hiện đỉnh hấp thụ [kết quả không đưa ra]. Tuy nhiên, ở các mức
điện áp lớn hơn, dung dịch có hiện tượng đổi màu theo thời gian. Do vậy, sự hình
thành hạt nano vàng được khảo sát khi thay đổi điện áp dòng một chiều trên hai
điện cực trong khoảng 6V- 15V, với bước thay đổi 3V.
Hình 3.1. Sự thay đổi màu sắc trong dung dịch nano vàng chế tạo ở các điện áp
khác nhau.
28
Kết quả quan sát cho thấy, sau 30 phút đến 2 giờ, màu sắc của dung dịch
trong bình điện hóa đã thay đổi từ trắng trong lần lượt sang hồng nhạt và hồng
đậm, trong đó chế tạo ở điện áp 15V cho dung dịch mầu đậm nhất, màu sắc của
dung dịch chế tạo ở 9V và 12V không có sự khác biệt đáng kể, trong khi mẫu chế
tạo ở điện áp 6V có màu nhạt hơn (Hình 3.1).
Sự thay đổi màu sắc dung dịch bằng mắt thường trước và sau khi chế tạo có
thể xác nhận sơ bộ sự hình thành hạt nano trong dung dịch. Điều này có thể giải
thích bằng hiện tượng plasmon bề mặt của hạt nano vàng sau khi hình thành [27],
[39], [40]. Tuy nhiên, để có được những bằng chứng khoa học thuyết phục hơn về
khả năng tạo hạt nano vàng, các dung dịch này cần được phân tích sâu hơn bằng
các kỹ thuật hiện đại.
Khảo sát sự ảnh hưởng của nồng độ natri citrate đối với sự hình thành hạt
nano vàng. Giữ nguyên mức điện áp 9V và thay đổi nồng độ natri citrate trong dải
0,08% - 0,12%, với thay đổi nhỏ 0,02%. Sau 2 giờ chế tạo, màu trong bình chế
tạo với nồng độ natri citrate ở 0,12% là đậm nhất, nhưng không khác biệt nhiều so
với hai mẫu còn lại khi chế tạo với natri citrate ở nồng độ thấp hơn tương ứng 0,1%
và 0,08% (Hình 3.2).
Hình 3.2. Sự thay đổi màu sắc của dung dịch nano vàng chế tạo tại các nồng độ
natri citrate khác nhau.
29
Để khảo sát sự ảnh hưởng của thời gian chế tạo, lựa chọn và giữ ổn định
điện áp ở 9V, nồng độ natri citrate 0,1%. Sau đó, quan sát sự thay đổi màu sắc theo
thời gian chế tạo, kết quả cho thấy thời gian chế tạo càng lâu thì màu sắc dung dịch
càng đậm (Hình 3.3).
Hình 3.3.Thay đổi màu sắc trong dung dịch nano vàng theo thời gian chế tạo
Như vậy, quan sát bằng mắt thường quá trình chế tạo nano vàng từ vàng
khối cho thấy rằng màu sắc dung dịch thay đổi từ trắng trong sang hồng đậm tùy
thuộc vào điện áp, nồng độ natri citrate và thời gian chế tạo. Điều này có thể giải
thích rằng đã có sự hình thành các hạt nano vàng trong dung dịch, và màu của dung
dịch là do sự cộng hưởng plasmon bề mặt của các hạt nano vàng tạo thành [40],
[41]. Tuy nhiên, để có những bằng chứng khoa học chính xác để khẳng định chính
xác sự hình thành hạt nano vàng chế tạo bằng phương pháp này cần sử dụng những
phép phân tích hiện đại hơn như UV-vis hay TEM.
3.1.2. Sự hình thành nano vàng khảo sát bằng UV-vis.
Tương ứng với kết quả quan sát bằng mắt thường, các mẫu được khảo sát
bằng UV-vis để khẳng định sự hình thành hạt nano. Phân tích phổ hấp thụ đối với
mẫu chế tạo được bằng cách thay đổi điện áp và giữ nguyên nồng độ natri citrate
30
0,1% và thời gian chế tạo 2 giờ. Kết quả cho thấy tất cả các mẫu khảo sát đều có
đỉnh hấp thụ ở bước sóng trong dải 528 nm – 538 nm, điều này đã khẳng định sự
hình thành hạt nano vàng trong dung dịch (Hình 3.4). Hay có kết luận rằng phổ
UV-vis đã xác nhận rằng nano vàng hoàn toàn có thể được chế tạo trong nước cất
từ vàng khối [42], [43], [44]. Cụ thể, mẫu chế tạo với điện áp 6V cho đỉnh hấp thụ
tại bước sóng 528 nm; 9V tại bước sóng 529 nm; 12V tại bước sóng 531 nm và
15V tại bước sóng 532 nm. Trong cùng một điều kiện thí nghiệm và đo đạc, các
đỉnh phổ hấp thụ có cường độ thay đổi phụ thuộc vào giá trị điện áp sử dụng, điện
áp càng cao thì cường độ đỉnh càng cao, đỉnh có xu hướng lệch về phía bước sóng
dài. Tuy nhiên, sự dịch chuyển này không đáng kể, điều này đồng nghĩa với việc
kích thước của các hạt nano vàng có sự khác biệt, nhưng không đáng kể khi chế
tạo tại các điện áp khác nhau đã khảo sát. Hơn nữa, đỉnh phổ nhọn và không xuất
hiện đỉnh phụ, điều này chứng tỏ hạt rất tập trung ở một dải kích thước hẹp xác
định nào đó [42], [44]. Ảnh hưởng của điện thế tới sự hình thành hạt có thể giải
thích rằng khi cấp một dòng điện một chiều vào điện cặp điện cực, các ion vàng bị
bứt phát ra khỏi anot để tiến về catot nhận 3 điện tử tạo thành nguyên tử vàng. Do
có động năng quay trong dung dịch, các nguyên tử bám dính không chắc chắn trên
điện catot dễ dàng bị bứt ra và đi vào dung dịch. Các nguyên tử sẽ tập hợp lại trong
dung dịch tạo thành hạt nano để đạt trạng thái năng lượng bền vững hơn.
Hình 3.4. Phổ hấp thụ UV-vis của nano vàng chế tạo ở các điện áp khác nhau.
31
Để khảo sát ảnh hưởng của nồng độ natri citrate tới sự hình thành của hạt
nano vàng, mức điện áp trung gian 9V được lựa chọn và natri citrate được thay đổi
nồng độ ở 3 mức khác nhau 0,02% (từ 0,08% - 0,12%). Kết quả phân tích UV-vis
đối với mẫu sau khi chế tạo 2 giờ cho thấy, cả 3 mẫu đều cho đỉnh hấp thụ ở bước
sóng lần lượt là 528 nm (0,08%); 529 nm (0,1%) và 533 nm (0,12%). Mặc dù, đỉnh
hấp thụ có xu hướng dịch chuyển về phía bước sóng dài khi tăng nồng độ natri
citrate, tuy nhiên, sự dịch chuyển này không đáng kể. Như vậy, với nồng độ natri
citrate nhỏ dao động xung quanh 0,1% không ảnh hưởng nhiều đến sự hình thành
hạt nano vàng khi chế tạo bằng phương pháp điện hóa. Ngoài ra, cường độ đỉnh
hấp thụ của cả 3 mẫu cũng không có nhiều khác biệt. Điều này cũng phù hợp với
kết quả khi quan sát bằng mắt thường sự thay đổi màu sắc của dung dịch nano vàng
sau 2 giờ chế tạo. Ngoài ra, bên cạnh các nguyên tử vàng bị bứt ra khỏi catot do
động năng quay trong dung dịch, các ion vàng trong quá trình dịch chuyển cũng
tương tác với natri citrate và nhận 3 electron của muối này, hình thành ra nguyên
tử vàng ngay trong dung dịch. Các nguyên tử này có bản chất cũng giống như
nguyên tử bứt ra từ catot, chúng tập hợp lại để hình thành hạt nano
Hình 3.5. Phổ hấp thụ UV-vis của nano vàng chế tạo ở các nồng độ natri citrate
khác nhau.
32
Phân tích phổ hấp thụ UV-vis theo thời gian của các mẫu trong quá trình chế
tạo với điện áp 9V và nồng độ natri citrate 0,1% cho thấy, mẫu chế tạo 1 giờ 1-3
giờ đều xuất hiện 1 đỉnh hấp thụ duy nhất, cường độ đỉnh hấp thụ tăng heo thời
gian chế tạo. Điều đáng chú ý là mẫu chế tạo trong thời gian 1-2 giờ không có sự
khác biệt nhiều về bước sóng tại đỉnh hấp thụ. Tuy nhiên, sau 3 giờ chế tạo, vị trí
đỉnh hấp thụ có sự thay đổi rõ rệt khi dịch chuyển về phía bước sóng dài khoảng 9
nm (Hình 3.6). Như vậy, có thể dự đoán rằng mẫu chế tạo trong thời gian 1-2 giờ
có kích thước tương đối ổn định. Tuy nhiên, sau 3 giờ chế tạo, kích thước hạt có
thể tăng lên hoặc thay đổi hình dạng. Các phép phân tích hình thái học sẽ xác nhận
rõ hơn về các đặc tính này.
Hình 3.6.Phổ hấp thụ UV-vis của nano vàng theo thời gian chế tạo.
Dung dịch nano vàng sau khi chế tạo được bọc giấy nhôm để tránh ánh sáng
và lưu giữ ở 40C. Hình 3.7 cho thấy phổ hấp thụ UV-vis của mẫu dung dịch nano
vàng ngay sau khi chế tạo 2 giờ ở điện áp 9V và nồng độ natri citrate 0,1% và sau
33
khi lưu giữ 6 tháng. Kết quả cho thấy sau 6 tháng đỉnh hấp thụ có sự dịch chuyển
nhẹ về phía bước sóng dài, tương ứng cũng có thể quan sát thấy màu sắc của dung
dịch quan sát bằng mắt thường cũng hơi đậm hơn so với mẫu ngay sau khi chế tạo
(ảnh chèn trong Hình 3.6). Điều này có thể giải thích rằng, kích thước nhiều hạt
nano vàng sau chế tạo chưa ổn định nên vẫn có thể lớn lên hoặc tiến tới trạng thái
ổn định theo thời gian. Tuy nhiên, các đỉnh phổ hấp thụ hẹp đã cho thấy rằng kích
thước của nano vàng tập trung ở một dải nào đó. Những hạt/tinh thể nano vàng sau
chế tạo tiếp tục nhận thêm các nguyên tử vàng tồn tại trong dung dịch để đạt tới
giá trị liên kết bền vững. Trong điều kiện bảo quản ở 40C và tình trạng che kín để
tránh ánh sáng, kích thước của các hạt này lớn lên đến một trạng thái tương đổi ổn
định dù kích thước này gia tăng không đáng kể.
Hình 3.7. Phổ hấp thụ UV-vis của nano vàng theo thời gian lưu giữ.
Kết quả phân tích phổ hấp thụ UV-vis đã xác nhận sự hình thành hạt nano
vàng chế tạo bằng phương pháp điện hóa. Sự hình thành hạt chủ yếu phụ thuộc vào
34
điện áp một chiều đưa vào và thời gian chế tạo. Với nồng độ natri citrate thay đổi
xung quanh giá trị xác định 0,1% không cho thấy nhiều sự khác biệt về kích thước.
Mặc dù có thể tính toán tương đối kích thước tương đối thông qua phổ UV-vis
[44], tuy nhiên với các phương pháp phân tích hiển vi điện tử sẽ cho biết được
chính xác kích thước của nano vàng tạo thành.
3.1.3. Kích thước hạt nano vàng quan sát bằng TEM.
Hình 3.8 cho thấy các ảnh TEM của các hạt nano vàng đã được tạo thành
khi chế tạo bằng phương pháp điện hóa với điện áp khác nhau (6V-15V, bước thay
đổi 3V). Với góc nhìn tổng thể, tất cả các mẫu phân tích đều cho thấy các hạt nano
vàng tạo được có hình cầu, phân bố tương đối rời rạc trên vi trường quan sát, kích
thước trung bình dưới 20 nm. Phân tích chi tiết hơn khi quan sát dư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_che_tao_va_nghien_cuu_tinh_quang_cua_nano_vang_dinh.pdf