Luận văn Chèo Tân thời trong tiến trình hiện đại hóa văn học sân khấu Việt Nam

MỞ ĐẦU . 4

1. Lí do chọn đề tài. 4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 5

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề . 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 12

5. Phương pháp nghiên cứu. 14

6. Đóng góp của luận văn. 14

7. Bố cục luận văn. 15

Chương 1. SỰ RA ĐỜI CỦA CHÈO TÂN THỜI VÀ TÁC GIẢ

NGUYỄN ĐÌNH NGHỊ - NGƯỜI CHỦ SOÁI CỦA CHÈO TÂN THỜI

. 16

1.1 Sự ra đời của chèo tân thời. 16

1.1.1 Điều kiện lịch sử xã hội của cuộc cách tân chèo tân thời . 16

1.1.2 Mục đích cách tân của chèo tân thời .

1.2 Tác giả Nguyễn Đình Nghị - người chủ soái của chèo tân thời.

1.3 Xác định khái niệm .

Tiểu kết.

Chương 2. NHỮNG YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỰ CÁCH TÂN KỊCH

BẢN CHÈO TÂN THỜI.

2.1 Về âm nhạc trong chèo tân thời.

2.2 Múa trong chèo tân thời .

pdf28 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 985 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chèo Tân thời trong tiến trình hiện đại hóa văn học sân khấu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ói chung, trong đó có chèo tân thời được lưu ý nhiều hơn. Các tác giả nghiên cứu về chèo được kể đến trong giai đoạn này là: Hoàng Ngọc Phách, Huỳnh Lý, Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Lộng Chương, Cao Kim Điển, Trần Huyền Trân, Trần Bảng, Hà Văn Cầu, Hoàng Kiều, Trần Việt Ngữ, Tất Thắng, Trần Trí Trắc, Phạm Duy Khuê, Trần Minh Phượng, Trần Đình Ngôn..... và dưới đây là một số công trình tiêu biểu của họ: Công trình Chèo và tuồng được xuất bản 1958 của tác giả Huỳnh Lý và Hoàng Ngọc Phách. Hai tác giả đã có sự nhìn nhận chèo dưới góc độ là một hiện tượng Văn học và cụ thể các ông tập trung vào ba điểm chính: Thứ nhất là sơ lược quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật chèo. Thứ hai là tính chất và giá trị nghệ thuật trong chèo. Thứ ba là giới thiệu bốn vở chèo cổ: Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình - Dương Lẽ, Tống Trân Cúc Hoa, Trương Viên. Ngoài ra tác giả còn đề cập và đã đưa ra năm tính chất của chèo và có bàn về một số nét về văn bản, về nghệ thuật diễn xuất như: “chèo với tính chất diễn tích, tính trào lộng, hý kịch, tính chất phê phán hiện thực, chèo gây nhiều cảm xúc mạnh mẽ, văn chương trong chèo có những đặc sắc của ca dao và dân ca” [54]. Tuy dung lượng viết của hai tác giả về chèo còn chưa nhiều nhưng nó đã phần nào làm nổi bật sự phát hiện và những giá trị văn học trong chèo. Tú Mỡ với công trình Bước đầu viết chèoxuất bản năm 1960, tác giả đã đặt vấn đề tìm hiểu về chèo với những nội dung chính sau: “Nguồn gốc và tính chất 8 của chèo, phần này tác giả tập chung giải quyết câu hỏi như: Chèo sinh ra từ đâu?, ai là người đầu tiên viết chèo?, quá trình phát triển của chèo, cách soạn một vở chèo”. Ngoài ra, cuốn sách đưa ra được bốn đặc điểm của chèo cổ là: “Trước khi diễn có hát dạo đầu, có vai giáo đầu trước khi vào tích, chèo diễn theo lối kể chuyện, tích chèo nào cũng có vai hề” [58]. Trong công trình đóng góp của Tú Mỡ, thành công mới chỉ dừng lại ở một số vấn đề mang tính khái quát. Bài viết Chèo - một hiện tượng sân khấu dân tộc đã được đăng trên tạp chí Phê bình mới của Pháp vào tháng 3 năm 1963, và được sử dụng nhiều trên đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Ngoài ra,Giáo sư Trần Bảng còn có nhiều bài viết, bài nghiên cứu chuyên sâu về chèo đã được đăng trên Tạp chí văn hóa - Nghệ thuật, cuối cùng được ông tổng hợp lại thành cuốn Chèo - một hiện tượng sân khấu dân tộc năm 1963. Năm 1999, cuốn sách lại được Viện Sân khấu tái bản với tên gọi Khái luận về chèo. Cuốn sách bao gồm có 6 chương với các tiêu đề: “Chèo - Một hiện tượng sân khấu dân tộc, chèo - sân khấu tự sự, chèo - sân khấu ước lệ, chèo - nghệ thuật ngẫu hứng, chèo - phương pháp xây dựng xử lí và chuyển hóa mô hình, chèo - vấn đề bảo tồn và phát triển” [6]. Khái luận về chèo không chỉ cung cấp cho người đọc những kiến thức về nghệ thuật chèo - một hình thức nghệ thuật quý giá của dân tộc mà còn nêu lên những vấn đề mang tính lí luận rất có giá trị đối với người học, nghiên cứu và quản lí. Hiện nay cuốn Khái luận về chèo đã và đang được cán bộ trường Sân khấu điện ảnh chọn làm giáo trình trong quá trình giảng dạy. Tác giả Trần Việt Ngữ và Hoàng Kiều với công trình nghiên cứu Tìm hiểu sân khấu chèoxuất bản năm 1964, đã chọn các cứ liệu lịch sử và chọn so sánh một số hình thức diễn xướng dân gian của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ thì cũng đã đưa ra những giả thuyết về nguồn gốc nghệ thuật chèo: “Bắt nguồn từ những hình thức cổ sơ có trước thời Đinh, Lê, Lý. Bao gồm những làn dân ca, điệu vũ đầy màu sắc và sức sống (hãy còn mang dấu tích tôn giáo) và những làn hát nói kể chuyện 9 phong phú, sinh động của những đội hát rong, chèo được hình thành với hai tính chất chủ yếu là tính tích diễn và tính ứng diễn, để trở thành một loại sân khấu độc đáo, tuy còn thô sơ, vào khoảng thế kỉ XIV cuối đời Trần” [70, tr. 54]. Đóng góp của tác giả trong công trình này là đã nhìn nhận về đối tượng nghiên cứu đã được mở rộng hơn. Công trình Qúa trình hình thành và phát triển của nghệ thuật chèo của Hà Văn Cầu được in thành sách năm 1964 đã trở thành một trong những công trình nghiên cứu về chèo đươc đánh giá rất cao. Có rất nhiều ý kiến, quan điểm trong công trình của ông đã được các học giả - giới nghiên cứu sau này có sự kế thừa và phát huy thêm. Tuy nhiên, trong công trình này có điểm mà người ta cần lưu ý là: mặc dù tác giả bàn về quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật chèo, nhưng thực tế cho thấy các vở chèo được nhiều nhà nghiên cứu cũng như quần chúng nhân dân yêu thích lại chính là những vở chèo được coi là diễn theo lối chèo sân đình trong Tuyển tập chèo cổ của của Hà Văn Cầu [12]. Bởi vậy, có lẽ chúng ta nên nhìn nhận lại và bàn thêm về quá trình mà tác giả cho biến đổi của nghệ thuật chèo. Công trình Tìm hiểu sân khấu chèo của Vũ Khắc Khoan do Lửa Thiêng Sài Gòn xuất bản năm 1974, bao gồm 119 trang và được chia làm 4 chương. Với phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, so sánh đồng thời dựa trên những cứ liệu lịch sử và khảo cổ học và cùng với những tài liệu có liên quan Vũ Khắc Khoan đã đưa ra khái niệm về kịch nghệ: “Kịch nghệ là một nghệ thuật có tính tổng hợp nhằm mục đích trình diễn nghĩa là hiện tại hóa một câu chuyện bằng sự hiện diện của diễn viên trước sự hiện diện của tác giả” [49, tr. 17]. Đồng thời ông cho rằng nguồn gốc của chèo “là một nền ca vũ cổ sơ của dân tộc, thường được biểu diễn trong những dịp tang lễ thời trước, lời ca than vãn, điệu vũ hình dung những động tác của chèo, chiếc thuyền thần thoại chở linh hồn người chết sang thế giới bên kia và “Chèo 10 ở gốc của nó chỉ thị một động tác chèo thuyền” [49, tr. 76]. Vũ Khắc Khoan đã lựa chọn cách chia sự hình thành của sân khấu chèo thành 3 thời kì khác nhau như: thời kì phôi thai, thời kì chuyển tiếp và thời kì hình thành. Theo ông, thời kì phôi thai của chèo kéo dài khoảng 5 thế kỉ và được tính từ thế kỉ IV trước công nguyên đến thế kỉ I sau công nguyên. Thời kì chuyển tiếp kéo dài khoảng 10 thế kỉ và được tính từ thế kỉ I cho đến thế kỉ X. Và cuối cùng là thời kì hình thành từ thế kỉ X - đến thế kỉ XIX. Về đặc tính của chèo, Vũ Khắc Khoan đưa ra một số đặc tính đó là: đặc tính tự sự, đặc tính hài hước, đặc tính giáo dục phụ nữ. Công trình Về nghệ thuật chèo của nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ. Đây là một công trình Nghiên cứu khoa học cấp bộ, bao gồm 770 trang, do Viện âm nhạc xuất bản năm 1996. Nội dung bao gồm có 3 phần: “Nguồn gốc và quá trình hình thành chuyển hóa và phát triển của chèo; Từ chiếu diễn 3 mặt ngoài bước vào sân khấu hộp; Nắm vững nghệ thuật cổ để xây dựng chèo mới” [77]. Đây là công trình nghiên cứu công phu của tác giả Trần Việt Ngữ. Chúng tôi đánh giá đây gần như là cuốn biên niên sử chặng đường hình thành và biến đổi của nghệ thuật chèo, đặc biệt là những biến động của nghệ thuật chèo sau cách mạng tháng Tám 1945. Lượng kiến thức sâu sắc về chèo kết hợp sự trân trọng trong quá trình nghiên cứu cùng những nhận xét thành công và nhược điểm của một số tác phẩm chèo mới tiêu biểu, tác giả công trình Về nghệ thuật chèo đã đưa ra những kết luận có tính khoa học cho việc phát triển nghệ thuật chèo. Tóm lại, đây là công trình khoa học rất có giá trị cho việc tìm hiểu và nghiên cứu nghệ thuật chèo. Công trình Kịch bản chèo từ dân gian đến bác học của Trần Đình Ngôn, công trình này nguyên là Luận án Tiến sĩ Ngữ văn của Tiến sĩ Trần Đình Ngôn được xuất bản năm 1996. Công trình Kịch bản chèo từ dân gian đến bác học baogồm 202 trang, được chia ra làm 3 chương gồm: Chương 1: Yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong quá trình hình thành và phát triển của kịch bản chèo. Trong 11 chương này, tác giả Trần Đình Ngôn đã nghiên cứu yếu tố dân gian trong chèo, dựa trên các tư liệu như: chèo đưa linh, huyết hồ phú, huyết hồ trò, từ thức, Phan Trần, Quan Âm Thị Kính.... Và có tham khảo các tư liệu của các tác giả như Hà Văn Cầu và Trần Bảng....để đưa ra kết luận: “Trong giai đoạn sơ khai của sân khấu chèo nói chung và kịch bản chèo nói riêng, các nghệ sĩ dân gian đã sáng tác theo phương thức dân gian tổng hợp từ văn học dân gian, nghệ thuật diễn xướng dân gian, trò nhại dân gian và múa hát dân gian để tạo nên một hình thức sân khấu dân gian Việt Nam đó là chèo. Trong cái thủa ban đầu này, sân khấu chèo trong đó có phần cốt lõi của nó là kịch bản đã được cấu thành bởi yếu tố dân gian và chỉ một mà thôi! Bởi vì toàn bộ các sự kiện, tình tiết, nhân vật, lời văn trong kịch bản đều được nhận thức, đánh giá và chọn lọc theo tư duy dân gian của các nghệ nhân xưa, và được trình bày bằng phong cách dân gian tiếp thu từ trò nhại, múa hát và dân gian và văn học dân gian” [61, tr. 26]. Đồng thời tác giả Trần Đình Ngôn đã phân tích sự xuất hiện yếu tố bác học trong quá trình phát của nghệ thuật chèo. Ông cũng đề cập tới xu hướng bác học hóa kịch bản chèo và sự kết hợp cần thiết giữa yếu tố dân gian và bác học trong kịch bản chèo những năm gần đây. Chương 2: Sự kết hợp giữa yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong kịch bản chèo. Tác giả đã đi sâu vào phân tích những vấn đề như: Sự kết hợp giữa yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong xây dựng nhân vật, trong văn học. Tác giả chỉ ra mối quan hệ cơ giữa yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong những mối quan hệ trên như là mối quan hệ tất yếu trong chèo. Nó góp phần làm cho nghệ thuật chèo thêm đặc sắc. Chương 3: Vấn đề kết hợp yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong kịch bản chèo mới. Tác giả đi vào những tổng kết, phân tích kịch bản chèo cổ tới chèo cải lương, kịch bản chèo giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Đặc biệt là kịch bản chèo từ những năm cuối thế kỉ XX. Ông đã chỉ ra mối liên hệ có tính chất kế thừa những giá trị nghệ thuật truyền thống. Đặc biệt là việc cần thiết phải có sự kết hợp giữa hai yếu tố dân gian và bác học trong kịch bản chèo. Tác giả cho thấy 12 sự “bác học hóa dân gian” trong quá trình sáng tác hiện nay, người sáng tác hiện nay cần phải tu dưỡng nâng cao trình độ. Tác giả kết luận: “Sự kết hợp giữa yếu tố dân gian và yếu tố bác học là mối quan hệ hữu cơ nằm trong tổ chức kết cấu vật chất của kịch bản chèo cho nên nếu gạt bỏ nó ra khỏi tổ chức kết cấu của một kịch bản thì kịch bản đó không thể trở thành một kịch bản chèo thực thụ” [61, tr. 169]. Ở đây, có một công trình chúng tôi quan tâm hơn cả đó là công trình của Lê Thanh Hiền được sưu tầm và biên soạn 2006 Văn học Việt Nam thế kỷ XX: Kịch bản chèo 1900 - 1945, Quyển sáu - tập 1, do nhà xuất bản Văn hóa thông tin in [35, 36, 37]. Công trình này đã có rất nhiều ý kiến bàn về chèo cải lương và kịch bản chèo cải lương. Nhìn chung, các công trình đã nghiên cứu về nhiều khía cạnh khác nhau của nghệ thuật chèo như: từ nguồn gốc, quá trình hình thành, đặc điểm, khuynh hướng phát triển....và đều ít nhiều có liên quan trực tiếp đến vấn đề mà chúng tôi quan tâm, đó chính là chèo tân thời những năm đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên, cũng phải thấy việc nghiên cứu về chèo tân thời trong tiến trình văn học sân khấu Việt Nam thì hầu như chưa được đề cập đến. Chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình đối với việc dựng lên một bức tranh chèo văn minh và chèo cải lương (chèo tân thời) vào những năm đầu của thế kỷ XX, để từ đó thấy được giá trị của nó trong tiến trình hiện đại hóa văn học sân khấu Việt Nam (chèo). 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng 13 Bảy vở chèo cổ tiêu biểu là những vở được lấy trong Tuyển tập chèo cổ do Hà Văn Cầu tuyển chọn như:Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu Bình - Dương Lễ, Kim Nham, Chu Mãi Thần, Tôn Mạnh - Tôn Trọng, Từ Thức 1[30]. Kịch bản chèo 1900 - 1945, tác giả đại diện là Nguyễn Đình Nghị với 60 tác phẩm chính của ông mà chúng tôi có phụ lục kèm thêm ở phần tham khảo. Tuy nhiên, cũng phải thấy ngoài Nguyễn Đình Nghị, ở chèo tân thời còn có một số tác giả khác ví dụ Nguyễn Thúc Khiêm với các kịch bản chèo như: Cái kiến kiện củ khoai (1928), Chuột sa chĩnh gạo (1928), Hà Đông sư tử hống (1928), Nuôi bạn thay chồng (1928), Tống Trân Cúc Hoa (1928), Trót nặng lời thề (1930), Nghĩa bộc báo cừu (1930), Bích Câu kỳ ngộ (1933); vànhững ca khúc chèo: Giấc mộng lầu hồng (1928), Hát làm ruộng (1928), Hát Chầu văn cải lương (1928), Bài ca năm mới (1929), Nam nữ xướng ca (1929).... Nhưng trong điều kiện của luận văn chúng tôi chưa đề cập tới được. Có chăng chỉ là lấy ở đó một số ví dụ để liên hệ trong quá trình triển khai luận văn của mình. Riêng đối với tác giả Nguyễn Đình Nghị, chúng tôi nhận thấy ông là người đóng góp với chèo tân thời ở nhiều phương diện như: diễn viên, là đạo diễn, là chỉ đạo nghệ thuật, viết vở nhưng ở đây chúng tôi chủ yếu chỉ bàn về những kịch bản tiêu biểu của ông mà thôi. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Về nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu chèo tân thời và ý nghĩa của nó trong văn học sân khấu Việt Nam hiện đại hóa được thể hiện ở các mặt sau: - Bối cảnh xã hội, mục đích cách tân, sự mở đầu, phát triển và kết thúc của chèo tân thời 1Là người sưu tầm và chú thích các vở, GS Hà Văn Cầu cho biết: vở Quan Âm Thị Kính là kịch bản do nghệ nhân An Văn Mược và Phạm Hồng Lô thuộc chiếng chèo Ninh Bình đọc và chép vào nửa cuối năm 1956. Vở Lưu Bình Dương Lễ lời trò do cụ Trịnh Thị Lan đọc và có bổ sung của cụ Nguyễn Văn Thịnh năm 1956, có đối chiếu với kịch bản Nôm của Thư viện khoa học Trung ương (kí hiệu AB. 146, AB. 640). Vở Kim Nham do hai chiếng chèo Nam và chiếng chèo Đông, tác giả An Văn Mược, Phạm Hồng Lô, Nguyễn Mầm, Nguyễn Văn Tích cung cấp vào tháng 6 - 1956.... Tuyển tập chèo cổ, 1976, Hà Văn Cầu tuyển chọn, NXB Văn hóa, (tr. 43 - 77 - 141 ). 14 - Đề tài và nội dung phản ánh - Tác giả - Chủ đề tư tưởng - Nhân vật trung tâm - Ngôn ngữ kịch bản - Màn, lớp - Ý nghĩa, bài học của chèo tân thời đối với sự phát triển chèo Về thời gian: Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu về giai đoạn chèo tân thời từ (1913 - 1945). 5. Phương pháp nghiên cứu Để làm sáng tỏ mục tiêu của luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp liên ngành: lịch sử, văn hóa học, nghệ thuật học được dùng để tiếp cận, nhằm nhận thức, tìm hiểu và khai thác đối tượng. - Phương pháp tiếp cận hệ thống hay quan điểm hệ thống, phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian. - Phương pháp khảo sát, phân tích, so sánh, tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin thứ cấp. 6. Đóng góp của luận văn Dựng lại được diện mạo và quá quá trình phát triển chèotân thời. Nêu được sự kế thừa và biến đổi về mặt phản ánh hiện thực và hình thức biểu hiện của kịch bản chèo tân thời so với chèo cổ theo hướng hiện đại hóa. 15 7. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được chia thành 3 chương chính: Chương 1. Sự ra đời của chèo tân thời và tác giả Nguyễn Đình Nghị - người chủ soái của chèo tân thời. Chương 2: Những yếu tố liên quan đến sự cách tân kịch bản chèo tân thời. Chương 3: Những cách tân về kịch bản chèo tân thời và ý nghĩa của nó đối tiến trình hiện đại hóa văn học sân khấu Việt Nam (chèo). Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số bảng biểu và tranh ảnh để giới thiệu về loại hình sân khấu chèo, đặc biệt là các tư liệu về giai đoạn chèo tân thời (chèo văn minh, chèo cải lương). 16 Chương 1: SỰ RA ĐỜI CỦA CHÈO TÂN THỜI VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN ĐÌNH NGHỊ - NGƯỜI CHỦ SOÁI CỦA CHÈO TÂN THỜI 1.1 Sự ra đời của chèo tân thời 1.1.1 Điều kiện lịch sử xã hội của cuộc cách tân chèo tân thời Do hoàn cảnh lịch sử, cụ thể là về điều kiện kinh tế xã hội của nước ta thời thực dân Pháp thống trị, nghệ thuật chèo ở đầu thế kỉ XX đã rơi vào tình trạng bế tắc và có nguy cơ mai một. Nhiều làng quê nghèo đói đến mức chỉ có thể làm cúng bái tế Thành hoàng làng mà thôi, còn về phần lễ hội thì hầu như không mở được. Đó là tình trạng của các gánh hát chèo ngày càng không được đón mời như trước đó. Hoàn cảnh lịch sử xã hội đưa đẩy khiến cho một số nghệ sĩ chèo dân gian đã mạnh dạn đưa phường gánh ra chốn thành thị nhưng cũng không được đón chào bởi thị hiếu khán giả đô thị không ưa chuộng lối hát và diễn của chèo sân đình. Mặt khác, lúc này văn hóa Pháp cũng du nhập vào Việt Nam theo những người Pháp, cùng với chính sách đồng hóa dưới chiêu bài “khai hóa văn minh” của thực dân Pháp khiến cho môi trường văn hóa ở các đô thị biến đổi. Trong điều kiện mới của sự tiếp biến văn hóa mà trong đó có mặt tiêu cực nhiều hơn mặt tích cực, chèo muốn tồn tại ở các đô thị nhất là ở Hà Nội - nơi có đông khán giả xem diễn trò thì phải chấp nhận một cuộc cách tân. Về phía khán giả, bên cạnh mặt tiêu cực là chịu ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, cũng có mặt tích cực là đòi hỏi sân khấu chèo không thể chỉ dừng lại ở việc giáo huấn chung chung, mà phải phản ánh được đời sống xã hội và con người đương thời. Đòi hỏi chính đáng này thôi thúc những nghệ sĩ chèo đầu thế kỷ XX phải tiến hành một cuộc cách tân chèo. Để thích ứng với hoàn cảnh đó, một số người có mong muốn chấn hưng nghệ thuật dân tộc, đồng thời là sự tiếp nhận các cái mới được du nhập đã đề xướng phong trào “chèo văn 17 minh”, đưa các phường chèo sân đình vào diễn ở các rạp hát bằng cách bổ sung trang trí bằng phông cảnh. Tuy nhiên, chèo văn minh cũng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của khán giả thị dân. Vì vậy mà soạn giả Nguyễn Đình Nghị đã đề xướng và trực tiếp làm chủ soái của phong trào “chèo cải lương”. Chèo cải lương rộ hẳn lên và thu được nhiều thành quả trong vòng 10 năm với hàng mấy chục vở diễn do Nguyễn Đình Nghị và một số cây bút đương thời sáng tác kịch bản mới, cùng với việc chỉnh lí và cải biên các vở chèo cổ theo lối diễn của chèo cải lương. Chính sự đổi thay này đã đánh dấu một giai đoạn chuyển hóa nghệ thuật nhiều mặt của sân khấu chèo trong quá trình thích ứng từ xã hội phong kiến lạc hậu qua xã hội phong kiến nửa thực dân. 1.1.1.1 Sự xuất hiện sàn diễn - rạp hát, đặc biệt là những rạp hát ở Hà Nội Trước đây, chèo chỉ thường diễn ở sân đình. Giai đoạn chèo tân thời thì chèo chuyền từ sân đình ở nông thôn ra các vùng đô thị lớn trong đó có Hà Nội. Trong môi trường đô thị, cùng với nó là sự thay đổi về tầng lớp thưởng thức có cả tư sản, tiểu tư sản và tầng lớp tri thức, thị dân và nhất là dân nghèo thành thị buôn thúng bán mẹt. Điều đó cho thấy hình thức chiếu chèo như ở nông thôn không còn phù hợp với thị hiếu của họ nữa. Cho nên rất cần có sự thay đổi. Sự thay đổi này cũng chính là bước chuyển từ chiếu diễn sân đình lên sàn diễn - rạp hát. Danh từ “rạp hát” là dùng để chỉ những địa điểm biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật có mái che, có tường vây quanh và do tài chủ quản lí. Nó rất khác với hình thức chỉ là mấy chiếc chiếu trải ở sân đình làm nơi diễn chèo cổ. Nói là rạp hát nhưng nhìn chung lúc đầu vẫn còn rất đơn giản và nó được hoàn thiện theo thời gian phát triển của nghệ thuật chèo. Qua những ghi chép của nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ trong công trình Nguyễn Đình Nghị và chèo cải lương, xuất bản năm 1995, Nxb Văn hóa Hà Nội chúng tôi xin được dẫn ra đây một số rạp hát tiêu biểu của chèo tân thời: 18 Rạp hát Đồng Lạc đài:Năm 1908, một số nhân sĩ hợp tác với mấy nhà buôn mua đất ở ngõ Sầm Công và xây dựng rạp Đồng Lạc đài. Rạp này khá lớn và chứa được hơn trăm khán giả, có sân khấu, sàn diễn xây cao lên hơn nền hàng chục gạch, sát đầu hồi nhóm nhạc ngồi một bên, ông Thơ và người sửa nghề sửa soạn một bên, có tách khỏi khán đài với khán giả, có treo tấm màu đỏ hoặc xanh để kéo lên khi bắt đầu vào diễn. Rạp Sán Nhiên Đài là nơi được đánh giá rất cao về tầm quan trọng cho sự phát triển của nghệ thuật chèo tân thời. Nó là nơi đầu tiên ứng dụng đưa chèo từ sân khấu sân đình vào sân khấu hộp và đưa khán giả xem diễn từ đối tượng là những người nông dân lao động tiến ra thành thị với một số lượng khán giả rất đa dạng từ tầng lớp tư sản có tiền cho đến những vú em hay con sen. Cuối năm 1916 - đầu năm 1917 hội Sán Nhiên mới xây xong và khai trương trụ sở và cũng là rạp hát. Đây là rạp hát đầu tiên xây dựng quy mô bắt chước cách bố trí nội thất của nhà hát Tây - đúng theo kiểu sân khấu hộp, có cung cách tổ chức đào tạo, làm ăn quy củ từ các khâu. Đây là hội đánh dấu bước chuyển mới của sân khấu chèo Hà Nội. Hội Sán Nhiên khi được đem ra so sánh với Quảng Lạc Đài (của nhóm Phú Trọng, được xây dựng vào cuối năm 1915 ngay trên nền rạp Hàng Buồm cũ) thì có phần hơn hẳn cả về sức chứa lẫn tiện nghị và trang trí mặt ngoài: Sán Nhiên Đài có hướng quay mặt ra ngõ Mã Mây (Phố Đào Duy Từ), tòa nhà có diện tích khá rộng (12m*25m), cao gần 5m. Từ hè đường khách bước lên ba bậc xây, đi qua 3 cổng, vòm cuốn: cao 2,8m - ngang 1,6m vào khu gian trống, có tường ngăn với khán trường. Trên cổng giữa vắt ngang một khung đắp vữa cao gần 1m đắp 3 chữ nho đậm nét: “Sán Nhiên Đài”. Cổng giữa thẳng vào sát tường ngăn là quầy bán vé một bên và bên kia đặt bảng quảng cáo tiết mục. Hai đầu tường trỗ hai cửa ra và vào rạp. Hai đầu hai trống xây hai cầu thang lên gác, một 19 lối bước vào phòng Hội đồng, chỗ ban Quản trị làm việc hàng ngày hoặc họp Đại hội đồng thường niên bằng một lối đi hành lang trên gác. Khán trường chia ra làm 3 khu và chênh nhau độ cao từ 30cm, xuôi xuống sân khấu. - Khu đầu tiên, cao nhất, đặt 12 hàng ghế gỗ lim có tựa, chia ra 2 dãy, mỗi bên đặt 6 chỗ ngồi mỗi hàng đóng liền chắc vào nhau và giành cho những người mua vé hàng 3. - Khu thứ hai, dành cho vé hạng 2, gồm 8 hàng ghế có mây tựa và chia ra làm 2 dãy và mỗi bên 6 ghế buộc dính vào nhau để khách không xê dịch được. - Khu thứ ba là khu tiếp cận gần sân khấu, dành cho vé hạnh nhất, bao gồm 6 hàng ghế mây có tựa và đặt thành 2 dãy, mỗi bên 5 ghế rời. Hành lang trên gác đặt 16 ghế mấy và mỗi hàng là 3 ghế, hành lang này được làm bằng gỗ và kéo dài tới nửa khu vé hạng nhất. Hành lang dưới nhà và phía cuối là chỗ của những khách mua vé hạng đứng. Rạp bình thường chứa gần 400 khán giả. Căn cứ vào các tài liệu ghi chép của tác giả Trần Việt Ngữ về Nguyễn Đình Nghị và chèo cải lương chúng tôi xin được tóm tắt lại sự ra đời và quá trình phát triển của các rạp hát thời kỳ chèo tân thời như sau: Bảng 1:1 Bảng tóm tắt sự ra đời và quá trình phát triển của các rạp hát thời kỳ chèo tân thời Tiêu chí Rạp Đồng Lạc Rạp Sán Nhiên Đài Sán Nhiên Đài giai đoạn chèo Sán Nhiên Đài giai đoạn chèo Cải lương hý 20 văn minh cải lương viện Thời gian thành lập 1908 1913 8/ 1923 7/1927 Địa chỉ Ngõ Sầm Công (phố Đào Duy Từ ngày nay) Hàng Buồm (1913) Ngõ Mã Mây phố Đào Duy Từ (1917) Hàng Buồm 42 Hàng Bạc DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 2. Trần Bảng (1979), Chèo - sân khấu ước lệ, Tạp chí nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 2). 3. Trần Bảng (1979), Chèo - sân khấu tự sự, Tạp chí Sân khấu, (số 3). 4. Trần Bảng (1963), Chèo - một hiện tượng sân khấu dân tộc, Nxb Hội sân khấu, Hà Nội. 5. Trần Bảng (1999), Khái luận về chèo, Viện sân khấu, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh xuất bản, Hà Nội. 6. Becton Brếch (1993), Bàn về sân khấu tự sự, Hội nghị sân khấu Việt Nam, Hà Nội. 7. Hà Văn Cầu (1961), Múa chèo, Văn nghệ (số 47). 21 8. Hà Văn Cầu (1961), Nguyễn Đình Nghị người mở đầu cho phong trào Chèo cải lương, Văn nghệ (4). 9. Hà Văn Cầu (1964), Tìm hiểu phương pháp viết chèo, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội. 10. Hà Văn Cầu (1964), Qúa trình hình thành và phát triển của nghệ thuật chèo, Ban nghiên cứu chèo, Hà Nội. 11. Hà Văn Cầu (1973), Hề - Chèo chọn lọc, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 12. Hà Văn Cầu (1976), Tuyển tập chèo cổ (sưu tầm và giới thiệu), Nxb Văn hóa, Hà Nội. 13. Hà Văn Cầu (1977), Mấy vấn đề trong kịch bản chèo, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 14. Hà Văn Cầu (1999), Từ chèo cổ đến chèo hiện đại, Văn hóa nghệ thuật (số 1). 15. Hà Văn Cầu (2000), Lại nói về hiện đại hóa chèo, Văn hiến, (số 2). 16. Hà Văn Cầu (2001), Chèo truyền thống và chèo hiện đại, Văn hóa nghệ thuật (số 11). 17. Hà Văn Cầu (2005), Lịch sử nghệ thuật chèo, Nxb Sân khấu, Hà Nội. 18. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 5, Nxb Văn học, Hà Nội. 19. Trương Chính, Phong Chân (1993), Tiếng cười dân gian Việt Nam in lần 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 20. Hoàng Chương (1986), Mấy vấn đề về sân khấu truyền thống, Viện sân khấu, Hà Nội. 21. Hoàng Chương (1993), Đi tìm vẻ đẹp sân khấu dân tộc, Viện sân khấu, Hà Nội. 22. Lộng Chương (1963),Cần viết lại một số tích chèo cũ, Nghiên cứu Văn học (số 2). 23. Lộng Chương (1966), Bàn về phép tự sự trong chèo, Tuần báo văn nghệ ngày 24/6/1966. 22 24. Chu Xuân Diên - Lương Văn Đăng - Phương Tri (Biên soạn - 1993), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 25. Từ điển Bách Khoa toàn thư tập 1 (A - D), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam. 26. Thành Diệp bổ sung và hiệu chỉnh - Lê Thanh Hiền sưu tầm và biên soạn (2006), Văn học Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004645_3599_2006166.pdf
Tài liệu liên quan