Thảm thực vật tại Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh là kiểu rừng
kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới, cho đến nay chúng đã bị phá huỷ
nghiêm trọng, thay thế vào đó là các kiểu thảm thứ sinh nhân tác [5].
Chúng tôi đã nghiên cứu phân loại thảm thực vật khu vực Trạm Đa dạng
sinh học Mê Linh và mở rộng phạm vi nghiên cứu ra vùng phụ cận thuộc
vùng núi phía bắc xã Ngọc Thanh, phía nam Vườn Quốc gia Tam Đảo,
xã Trung Mỹ huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc để xác định thực trạng
thảm thực vật. Kết quả nghiên cứu nh ư sau:
110 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1846 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp phục hồi tính đa dạng thực vật tại trạm đa dạng sinh học Mê Linh – Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gỗ có mật độ thưa 100-200 cây/1ha, các
loài cây gỗ thường gặp như: Kháo (Phoebe spp.), Lá nến (Macaranga
denticulata), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Chẹo (Engelhardtia
roxburghiana), Dẻ gai (Castanopsis indica), Sổ (Dillenia indica), Re
(Cinnamomum balansae), Gió (Rhamnoneuron balansae)... Thảm tươi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
41
có thành phần tương tự như rừng cây lá rộng đã nêu trên, độ dày rậm
(Cop2).
4.1.3. Lớp quần hệ rừng thƣa
4.1.3.1. Rừng thƣa thƣờng xanh ở địa hình thấp và núi thấp
Trong khu vực nghiên cứu kiểu rừng này chiếm ưu thế. Đó là rừng
phục hồi sau khai thác và sau sử lý trắng thực bì để trồng rừng phân bố
chủ yếu ở vùng sườn núi và ven chân đồi. Rừng gồm có tầng cây gỗ cao
trung bình 8 - 9m, đường kính trung bình 10 - 11cm với độ tàn che
0,5 - 0,6.
Thành phần cây gỗ chủ yếu là các loài thường xanh: Dẻ gai
(Castanopsis indica), Kháo (Phoebe spp.) Chẹo (Engelhardtia
roburghiana), Bùm bụp nâu (Mallotus paniculatus), Bời lời (Litsea
umbellata, L. verticillata), Trám (Canarium album), Bứa (Garcinia
cowa, G. oblongifolia), Trâm (Syzyum cinereum...
Dưới tầng cây gỗ là cây bụi và cây con tái sinh. Các loài thường
gặp: Thàu táu (Aporosa sphaerosperma), Me rừng (Phyllanthus
emblica), Lấu (Psychotria rubra), Trọng đũa (Ardisia aciphylla), Sim
(Rhodomyrtus tomentosa), Mua (Melastoma normale, Osbeckia
chinensis)...
Thảm tươi thưa, chủ yếu là các loài cây ưa sáng chịu khô hạn: Chít
(Thysanolaena maxima), cỏ gừng (Panicum repens), Cỏ tranh (Imperata
cylindrica), Cỏ vừng (Hediotis auricularia), Guột (Dicranopteris
linearis) Chân xỉ (Pteris linearis). Kiểu rừng này có các ưu hợp sau:
- Dẻ gai (Castanopsis indica) + Kháo (Phoebe lanceolata) + Chẹo
(Engelhardtia roburghiana),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
42
- Bời lời (Litsea umbellata, L. verticillata) + Kháo (Phoebe
tavoyana) + Bùm bụp nâu (Mallotus paniculatus) + Trám (Canarium
album).
4.1.3.2. Rừng thƣa rụng lá mùa khô ở địa hình thấp và núi thấp
Trong thực tế cho thấy , tại trạm ĐDSH Mê Linh – Vĩnh Phúc bao
gồm rất nhiều Quần xã thực vật . Tất cả các quần xã thuộc quần hệ này
rụng lá về mùa khô. Thời gian rụng lá thường từ tháng 12 năm trước đến
tháng 2 năm sau, có các loại ưu hợp sau:
- Sau sau (Liquidambar formosana) + Trôm (Sterculia lanceolata) +
Bồ đề (Styrax tonkinnensis). Thường gặp trên sườn núi, ở độ cao từ 150 đến
400 m. Trong quần xã, một số loài như Sau sau, Bồ đề đều rụng lá về
mùa khô. Tại một số nơi (như ở Hang dơi, Đồng trầm thuộc xã Ngọc
Thanh), Sau sau mọc thành những quần hợp với độ ưu thế tuyệt đối
chiếm đến 90% hệ số tổ thành.
- Hoắc quang (Wendlandia paniculata) + Bùm bụp nâu (Mallotus
paniculatus) + Kháo (Phoebe tavoyana) phân bố trên sườn và đỉnh dông.
4.1.4. Thảm cây bụi
4.1.4.1. Thảm cây bụi nhiệt đới chủ yếu thƣờng xanh cây lá rộng
trên đất địa đới.
*. Có cây gỗ hai lá mầm mọc rải rác, các quần xã này hình thành do
khai thác quá mức, chặt phá rừng làm nương rãy, xử lý trắng thực bì
trồng rừng nhưng bị thất bại. Thành phần gồm các loài cây bụi phổ biến
trên vùng đồi như: Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Mua (Melastoma
normale), Me rừng (Phyllanthus emblica), Thàu táu (Aporosa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
43
sphaerosperma), Hoắc quang (Wendlandia paniculata), Phèn đen
(Phyllanthus riticulatus), Găng (Randia spinosa), Thành ngạnh
(Cratoxylum pruniflorum), Ba chạc (Euodia lepta). Có 3 ưu hợp phổ
biến là:
- Sim (Rhodomyrtus tomentosa) + Mua (Melastoma normale) +
Thấu kén (Helicteres angustifolia).
- Ba chạc (Euodia lepta) + Sim (Rhodomyrtus tomentosa) + Mua
(Melastoma normale ).
- Me rừng (Phyllathus emblica) + Thàu táu (Aporosa
sphaerosperma) + Sim (Rhodomyrtus tomentosa) + Mua (Melastoma
normale).
4.1.5. Thảm cỏ
4.1.5.1. Thảm cỏ dạng lúa trung bình nhiệt đới có hay không có cây gỗ
* Thảm cỏ dạng lúa trung bình chịu hạn:
- Có ưu hợp Lách (Saccharum spontaneum) + Chít (Thysanolaena
maxima) + Cỏ tranh (Imperata cylindrica).
- Thành phần cây bụi chủ yếu là cây chịu hạn: Me rừng (Phyllanthus
emblica), Thàu táu (Aporosa sphaerosperma), Hoắc quang (Wendlandia
paniculata), Găng (Randia spinosa), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Mua
(Melastoma normale)...
4.1.5.1.2. Thảm cỏ thấp không dạng lúa có hay không có cây gỗ
* Thảm cỏ thấp không dạng lúa chịu hạn:
Có ưu hợp Guột (Dicranoteris linearis), hình thành trên đất sau
nương rẫy và đất trồng rừng bị thất bại hoặc những nơi thường xuyên bị
cháy rừng. Đây là kiểu thảm rất phổ biến trong khu vực nghiên cứu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
44
phân bố trên các sườn núi độ cao từ 300-400 m trở xuống. Cây gỗ và cây
bụi có Me rừng (Phyllanthus emblica), Thàu táu (Aporosa
sphaerosperma), Hoắc quang (Wendlandia paniculata), Găng (Randia
spinosa), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Mua (Melastoma normale)...
Như vậy, trong khu vực nghiên cứu có 4 lớp quần hệ: lớp quần hệ
rừng kín, lớp quần hệ rừng thưa, lớp quần hệ thảm cây bụi và lớp quần
hệ thảm cỏ, với các kiểu thảm thực vật tương ứng.
4.2. Hiện trạng và nhƣ̃ng đặc trƣng cơ bản của một số trạng thái
thảm thƣ̣c vật chính trong khu nghiên cƣ́u
4.2.1. Các trạng thái thảm thực vật và các điểm nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên chúng tôi chỉ tập trung nghiên
cứu ở một số trạng thái TTV chính trong Trạm ĐDSH Mê Linh, đó là:
1. Trạng thái TTV thấp phục hồi tự nhiên sau nương rãy
2. Trạng thái TTV cao phục hồi tự nhiên sau nương rãy
3. Trạng thái TTV cao phục hồi tự nhiên sau khi KTK
4. Rừng non
4.2.2. Tính đa dạng hệ thực vật
Qua kết quả điều tra về thành phần loài trong các trạng thái TTV
cây bụi ở Trạm ĐDSH Mê Linh – Vĩnh Phúc, chúng tôi đã lập danh lục
thực vật và thống kê được 163 loài thuộc 130 chi và 60 họ của 4 ngành
thực vật bậc cao có mạch. Danh sách các loài theo tên họ, chi, và được
xếp theo A,B,C, được thống kê ở bảng sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
45
Bảng 4.2. Thống kê các thành phần thực vật trong các điểm nghiên
cứu
STT Ngành Họ Chi Loài
Số họ Tỷ lệ
(%)
Số chi Tỷ lệ
(%)
Số
loài
Tỷ lệ
(%)
1 Ngành Thông đất (
Lycopodiophyta)
1 1,7 2 1,5 2 1,2
2 Ngành Dương xỉ
(Polypodiophyta)
4 6,6 4 3,1 6 3,7
3 Ngành Thông –
Ngành hạt trần
(Gymnospermae)
1 1,7 1 0,8 1 0,6
4 Ngành Mộc lan
(Magnoliophyta)
54 90 123 94,6 154 94,5
Tổng số 60 100 130 100 610 100
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy hệ thực vật của các trạng thái
TTV đặc trưng cho thảm cây bụi tương đối phong phú và đa dạng. Sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
46
phân bố của các Taxon trong các ngành là không đồng đều. Ưu thế hoàn
toàn là Ngành Mộc Lan, ngành này có đa số loài, số chi chiếm khoảng
90%, và số họ chiếm 81,7% tổng số loài, chi và họ của toàn hệ. Tiếp đến
là ngành Dương xỉ có số loài là 67 chiếm 11% tổng số loài của toàn hệ.
Ba ngành còn lại có tỷ trọng thấp là ngành Hạt trần, ngành Mộc tặc,
ngành Thông đất chỉ có không quá 6 loài đóng góp cho hệ thực vật trong
các trạng thái thảm cây bụi ở Trạm
4.2.3. Thành phần loài
4.2.3.1. Thảm thƣ̣c vật thấp phục hồi tự nhiên sau nƣơng rẫy
Theo số liệu của Trạm ĐDSH Lê Minh, điểm nghiên cứu có nguồn
gốc sử dụng đất như sau: khởi nguyên là rừng nguyên sinh, sau khi bị
khai thác chọn, bị chặt trắng làm nương rẫy, được sử dụng một thời gian
dài, rồi bị bỏ hoang. Vị trí tương đối bằng phẳng, độ dốc 4 – 50, độ dày
tầng đất 30 – 50cm, mức độ thoái hoá đất nhẹ, không có hiệng tượng xói
mòn, không có đá lộ, hàm lượng mùn cao, độ ẩm lớn. Thảm thực vật mới
chỉ được phục hồi khoảng 2 – 3 năm (hay nói một cách khác thảm thực
vật có tuổi phục hồi : 2 – 3 tuổi).
Tổng số loài thống kê ở loại hình TTV này là 58 loài thuộc 56 chi
và 37 họ của 4 ngành thực vật bậc cao có mạch. Chủ yếu vẫn thuộc về
ngành Mộc lan (Magnoliophita) có 54 loài; 52 chi; 33 họ. Trong đó, lớp
2 lá mầm (Magnoliopsida) có 43 loài, 41 chi, 29 họ; lớp Một lá mầm
(Liliopsida) 11 loài, 11 chi, 4 ho. Họ giàu loài nhất vẫn là họ cỏ
(Poaceae): 8 loài, 8 chi; Họ Đơn nem (Myrsinaceae): 4 loài, 3 chi; họ
Cúc (Asteraceae): 4 loài, 4 chi. Nhiều họ chỉ có một loài (21 họ) như: họ
Na (Annonaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Khoai lang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
47
(Convolvulaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Dâu tằm
(Moraceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Trôm (Sterculiaceae)…
Thành phần cây gỗ chủ yếu cây gỗ nhỏ, ưa sáng, có thời gian sống
ngắn với số loài không nhiều và mọc rải rác như: Muối (Rhus chinensis),
Thầu tấu (Aporosa dioica), Màng tang (Litsea cubeba), Mua bà
(Malastoma sanguineum), Đồng (Maesa membranacea), Na rừng
(Alphonsea tonkinensis)…
Thành phần cây bụi thấp có 11 loài nhưng chiếm phần lớn diện
tích. Những loài có tần xuất gặp nhiều: Mua thường (Melastoma
normale), Tháu kén hoa đỏ (Helicteres angustifolia), Vú bò lá nguyên
(Ficus hirta), ké lá hìh thoi (Triùmetta rhomboidea), Trọng đũa (Ardisia
crenata), Gối hạc trắng (Leea guineensis), Xích đồng nam
(Clerodendrum japonicum).
Thảm tươi có độ che phủ rất lớn 95%, phần lớn thuộc các loài của
họ Cỏ (Poaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Cà phê (Rubiaceae), ngành
Dương xỉ (Polypodiophita) như: Cỏ chè vè (Miscanthus floridulus), Cỏ
mần trầu (Eleusine indica), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), cỏ tranh
(Imperata cylindrica), Cỏ lá tre (Oplismmenus compositus), Cỏ lào
(Eupatorium odoratum), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Cỏ bài ngài
(Hediotis pressa), Bòng bong leo dụi (Lygodium flxuosum), bòng bong
leo nhật bản (L. japonicum). Ngoài ra còn một số họ khác như: Họ Nam
mộc hương (Aristolochiaceae), họ Thiên lý (Asclepiaraceae), họ Bông
(Malvaceae), họ Cam (Rutaceae) họ Rau răm (polygonaceae), họ Thài
lài (Commelinaceae), họ Gừng (Zingiberaceae).
Hệ thống cây leo ở đây cũng khá đa dạng, vơi mật độ dày, những
loài hay gặp như: Dây gắm (Gnetum montanum), Chạc chìu (Tetracera
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
48
scandens), Dây mật (Derris elliptica), Ngấy hương (Rubus
cochinchinensis), Dây sống rắn (Acacia penata), Dây vằng trắng
(Clematis granulata), Nắm cơm (Kadsura coccinea), dây vác (Cayratia
japonica), Dây chìa vôi (Cissus repens), Dây đòn kẻ cắp (Gouania
javania), Dây giun (Quisqualis indica).
Loài cây ưu thế: Cỏ tranh (Imperata cylindrica) + Cỏ lá tre
(Oplismenus compositus) + Mua thường (Melastoma normale) + Tháu
kén hoa đỏ (Helicteres angustifolia) + Thầu tấu (Aporoza dioica).
Với thành phần loài trên, cho thấy trạng thái TCB thấp sau NR
đang ở giai đoạn đầu của quá trình phục hồi tự nhiên. Quần hệ này có
thành phần thực vật phong phú cả về số lượng loài và cá thể nhất là cây
thân cỏ, cây bụi thấp và dây leo, còn cây gỗ tiên phong ưa sáng chỉ mới
xuất hiện nên số loài ít.
4.2.3.2. Thảm thƣ̣c vật cao phục hồi tự nhiên sau nƣơng rẫy
Điểm nghiên cứu có điều kiện lập địa hoàn toàn giống với thảm
cây bụi sau nương rẫy, chỉ khác nhau về thời gian đất bị bỏ hoang hoá.
Trạng thái này có thời gian phục hồi tự nhiên khoảng 5 – 6 năm,
tiếp giáp bên cạnh là rừng non (VQG Tam Đảo) nên thành phần loài
trong kiểu thảm phong phú và đa dạng nhất so với các điểm điều tra khác
với 87 loài thuộc 79 chi và 45 họ của 4 ngành thực vật bậc cao có mạch.
Những họ có số loài góp mặt nhiều nhất: họ Thầu dầu (Euphorbiaceae),
họ Cà phê (Rubiaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Trôm
(Sterculiaceae)…
Thành phần cây gỗ phong phú với 31 loài thuộc 22 họ. Ngoài
những loài cây gỗ tiên phong, ưa sáng giống với kiểu thảm cây bụi thấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
49
sau nương rẫy, chúng tôi còn thấy nhiều loài cây gỗ tiên phong, cây có
sức sinh trưởng mạnh và có giá trị kinh tế, thường có mặt ở tầng cây gỗ
sau: Ba soi (Macaranga denticulata), Nhựa ruồi (Ilex viridis), Trám
trắng (Canarium album), Nhội (Bischofia javanica), Bời lời vòng (Litses
verticillata), Găng gai (Randia spinosa), Re gừng (Cinnamomum
bejolghota), Kháo (Machilus sp), Đẹn ba lá (Vitex quinata), Trâm lá
chụm ba (Sizygium formosum), Lọ nghẹ (Olea dioica), Hu đen
(Commersonia bartramia), Bứa (Garcinia oblongifolia)…
Nhóm cây bụi với 15 loài thuộc 13 họ, loài có số lượng nhiều nhất
Ba chạc (Euodia lepta), tiếp đến là Xích (Clerodendrum japonicum), Ké
lá hình thoi (Triumfetta rhomboidea), Vai trắng (Raphniphyllum
calycium)… Một số loài Mua thường, Vú bò lá nguyên, Tháu kén hoa đỏ
xuất hiện nhiều trong TCB thấp sau NR, giảm hẳn ở đây.
Độ che phủ của thảm tươi khoảng 55% với thành phần cây thân
thảo cũng rất đa dạng, chủ yếu thuộc về các họ sau: họ Cúc (Asteraceae),
họ Cỏ (Poaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), họ Thài lài
(Commelinaceae) như Cỏ chè vè (Miscanthus floridulus), Cỏ mần trầu
(Eleusine indica), Cỏ chỉ (Eriachne chinensis), Cỏ lá tre (Oplismenus
compositus), Cỏ lách (Saccharum spontaneum), Cỏ lào (Eupatorium
odoratum), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Nàng nàng (Callicarpa
candicans), cỏ bài ngài (Hedyotis presaa)… Bên cạnh đó còn phải kể
đến các loài dây leo trong ho Nho (Vittaceae), họ Bàng (Combretaceae).
Loài ưu thế: Ba chạc ((Euodia lepta) + Bời lòng vòng (Litsea
verticillata) + Ba soi (Macaranga denticulata) + Kháo (Machilus sp),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
50
Nếu so sánh với TCB cao sau TR không thành (cùng độ tuổi phục
hồi 5 – 6 năm) thì TCB cao sau NR có thành phần loài phong phú và đa
dạng hơn do có điều kiện ngoại cảnh thuận lợi cho TTV phát triển.
4.2.3.3. Thảm thƣ̣c vật cao phục hồi tự nhiên sau khai thác kiệt
Toàn cảnh khu vực nghiên cứu có hiện trạng phục hồi rừng tương
đối tốt, xung quanh khu vực nghiên cứu phần lớn là rừng non. Đất ở đây
có mức độ thoái hoá trung bình, độ dốc 10 – 200, sau khi bị khai thác
kiệt, rồi bị bỏ hoang hoá 7 – 8 năm đã hình thành nên thảm thực vật cao.
Thành phần thực vật phong phú 73 loài thuộc 69 chi và 44 họ.
Thực vật cây gỗ tiên phong, ưa sáng có 31 loài thuộc 25 họ, với
thành phần gần tương tự với TTV cao sau NR như: Muối, Na rừng, Bồ
cu vẽ, Ba soi, Me rừng, Bộp lông, Hoắc quang, Nhựa ruồi, Lành ngạnh,
Nhội, Găng gai, Bứa…, chúng tôi còn gặp thêm một số loài cây gỗ có
giá trị kinh tế, thường đựơc phân bố ở tầng cây gỗ khi thành rừng: Sau
sau (Liquidambar formosana), thừng mức trâu (Wrightia pubescens), Dẻ
gai (Castanopsis indica), Trám chim (Canarium parvum), Thị
(Diospyros sp.), Sòi tía (Sapium discolor), Ràng ràng xanh (Ormosia
pinnata), Hậu phát (Cinnamomum iners), Re xanh (C. tonkinensis), Bời
lời nhớt (Litsea glutinosa), Cứt ngựa (Archidendron balansae), Chè vằng
(Jasminum subchiplinerve)… Duy nhất trong kiểu thảm này có hộ dung
(Symplocaceae): 1 loài Dung lá thon (Symplocos lancifolia); họ Ngát
(Ulmaceae) có 2 loài: Ngát (Gironniera subaequalis) và Hu đay (Trema
orientalis).
Thành phần cây bụi ít về số loài, phân bố rải rác trong khu vực
nghiên cứu là Mua, nhưng có tới 3 loài mua xuất hiện ở đây: Mua
thường (Melastoma normale), Mua bà (M, sanguineum), Mua tép
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
51
(Osbeckia chinensis); họ Cà phê (Rubiaceae) 2 loài Lấu: Lấu bà
(Psychotria balansae), Lấu (P. silvestris); họ Trôm (Sterculiaceae)…,
tuy nhiên số các thể không nhiều, giảm hẳn so với 3 kiểu thảm trên.
Độ che phủ của thảm tươi khoảng 15%, thành phần cây thảo nghèo
nàn, phần lớn các loài thuộc họ Cỏ (Poaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ
Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), họ Táo (Rhamnaceae)…, vài loài Thông đất
và Dương xỉ như: Thạch tùng sóng (Huperzia carinata), Bòng bong
(Lygodium flexuosum, L, japonicum).
Loài ưu thế: Sau sau (Liquidambar formosana) + Trám chim
(Canarium parvum) + Sòi tía (Sapium discolor) + Dẻ gai (Caatanopsis
indica).
4.2.3.4. Rừng non
Theo thông tin của trạm ĐDSH cung cấp, rừng non được phục hồi
từ khởi nguyên là trạng thái rừng nguyên sinh bị khai thác kiệt, sau đó bỏ
hoang và phục hồi tự nhiên, qua các pha của quá trình diễn thế: trảng cỏ
-> thảm cây bụi -> rừng non. Rừng mới chỉ được khép tán trong vòng
một năm trở lại (độ tán che k > 0,4), nên điểm nghiên cứu mang nhiều
đặc trưng của thảm cây bụi. Thóng kê số liệu và thành phần loài có 52
loài; 47 chi và 34 họ, nhìn chung số loài, số chi và số họ ở đây thấp hơn
so với kiểu thảm cây bụi cao sau nương rẫy và thảm bụi cao sau khi khai
thác kiệt. Các họ có số loài nhiều nhất tập chung vào họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Cà phê (Rubiaceae). Tuy
nhiên, vẫn có những họ chỉ có một loài như họ Tô hạp (Altingiaceae), họ
Châm bùi (Aquifoliaceae), họ núc nác (Bignoniaceae), họ Cơm cháy
(Caprifoliaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Mùng quân
(Flacourtiaceae), họ ngát (Ulmaceae).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
52
Chiếm phần lớn về số loài và số lượng là cây gỗ. Những loài gỗ
tiên phong, ưa sáng, có thời gian sống ngắn, chất lượng gỗ không tốt:
lànhn gạnh Mua bà, ba soi, Hoắc quang … giảm dần về số lượng thay
thế vào các loài ưa bóng , có gí trị kinh tế: Sau sau (Liquidambar
formosana), Thừng mức trâu, Dẻ gai (Castanopsis indica), Giền trắng
(Xylopia perrei), Trám chim (Canarium parvum), Hậu phát
(Cinnamomum iners), Kháo (Machilus sp.), Bời lời vòng (Litsea sp.), Bi
điền lá xoan (Bridelia monoica), Sụ thon (Phoebe lanceolata), Tráng lá
to (Linociera ramiflora), Mùng quân rừng (Flacourtia indica).
Đối với rừng non, thành phần cây bụi chủ yếu là: Sim
(Rhodomyrtus tomentosa), Tháu kén (Helicteres sp.), Mua thường
(Melastoma sp.), hoàn toàn không thấy xuất hiện, lác đác vài cá thể của
loài Lấu (Psychotria silvestris), Trọng đũa (Ardisia crenata), Trà
(Camelia sinensis).
Thảm tươi có độ che phủ thấp 5 – 10%, một vài loài cỏ như: Cỏ
chỉ (Eriachne chinensis), Cỏ tranh (Imperata silindrica), Cỏ chè vè
(Miscanthus floridulus) Cói lông (Cyperus pilosus), Ngọc nữ
(Clerodendrum tonkinensis), Thóc lép (Desmodium gangeticum), Guột
(Dicranoteris linearis), mọc thành cụm hoặc rải rác một vài chỗ.
Một số loại dây leo, bụi trườn như: Kim cang (Smilax corbularia),
Trầu rừng (Piper chaudocanum), Chua ngút (Embelia ribes), Dây mật
(Derris elliptica) có số lượng ít.
Loài ưu thế: Sau sau (Liquidambar formosana) + Bời lời vòng
(Litsea verticillata) + Kháo (Machilus sp.).
Nhận xét chung về thảm thực vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
53
Trong khu vực nghiên cứu trên, qua điều tra ta thấy thành phần
loài ở đây khá phong phú và đa dạng. Thông tin về các thành phần thực
vật trong mỗi kiểu thảm đã nói lên hiện trạng và giai đoạn đang phục hồi
của nó
Điểm khác biệt: Cùng với thời gian, nếu xét theo xu hướng phục
hồi tự nhiên của mỗi trạng thái thì có sự khác biệt rõ ràng giữa TTV thấp
phục hồi tự nhiên sau NR, rừng non và 2 trạng thái còn lại. Số loài thực
vật tăng theo thời gian (Sau 2- 3 năm: 58 loài nhưng 5 – 6 năm: 87 loài)
và số loài cây gỗ cũng tăng dần theo tuổi phục hồi (2 – 3 năm: 9 loài; sau
7 – 8 năm: 31 loài).
+ Đối với TTV thấp phục hồi tự nhiên sau NR: thường có sự chiếm
lĩnh và cư trú của các loài thực vật tiên phong thân cỏ. Chúng tạo thành
một quần thể thực vật phong phú về số lượng loài. Đó là những cây ưa
sáng , đời sống ngắn, vòng đời của chúng thường là 1 năm, một mùa
hoặc vài tháng. Lớp cây cỏ chiếm ưu thế này làm ền cho các cây bụi, cây
gỗ tái sinh khác phát triển.
+ Đối với TTV cao phục hồi tự nhiên sau NR và KTK: quần hệ
này thường có sự hỗn hợp giưa cây tiên phong ưa sáng, có giá trị gỗ
không cao với những loài cây chịu bóng, có giá trị kinh tế. Cây bụi và
cây gỗ càng lớn lên thì loài cây thân cỏ bị loại dần do thiếu ánh sáng.
+ Đối với rừng non: cây gỗ sinh trưởng và phát triển mạnh, chiếm
ưu thế, chúng tạo thàn rừng non thứ sinh. Bên cạnh đó, ở tần cây bụi và
cây TS vẫn có một số loài cây bụi, cây gỗ nhỏ, hệ thốngdây leo với mật
độ không cao.
+ Trong cùng một điều kiện lập địa nhưng mỗi kiểu thảm lại có sự
phân bố khác nhau về thành phần loài, chứng tỏ hiện trạng TTV bị chi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
54
phối mạnh bởi lý tính của đất như: Độ dốc, độ xói mòn, độ kết dính, độ
ẩm và thành phần cơ giới đất… Ngoài ra, còn phụ thuộc vào nguồn gieo
giống xung quanh, khả năng tái sinh.
Bên cạnh đó , mọi thành phần thực vật từ địa y, dương xỉ, cây bụi
đến cây gỗ tái sinh đều có vai trò tác dụng riêng để tạo điều kiện và thức
đẩy qúa trình phục hồi TTV rừng. Tương ứng với mỗi điều kiện lập địa
có các nhóm thực vật chỉ thị phản ánh hoàn cảnh hiện tại và tác động của
con người trong quá khứ.
4.2.4. Thành phần dạng sống
Phân tích phổ dạng sống là một vấn đề vô cùng quan trọng trong
nghiên cứu về Hệ thực vật . Vì, dạng sống là một đặc tính biểu hiện sự
thích nghi của thực vật với điều kiện môi trường . Cho nên , việc nghiên
cứu dạng sống sẽ cho thấy mối quan hệ chặt chẽ của cá c dạng sống với
điều kiện tự nhiên của từng vùng và biểu hiện sự tác động của các điều
kiện sinh thái với từng loài thực vật.
Trong phần thống kê này , chúng tôi áp dụng thang phân loại dạng
sống cho khu vực nghiên cứu t heo thang phân loại của Raunkiaer (1934),
Nguyễn Nghĩa Thìn (1999, có sửa đổi ): Vị trí của chồi so với mặt đất ở
mùa bất lợi cho sinh trưởng , gồm 5 nhóm dạng sống cơ bản :
1. Cây có chồi trên đất (Phanerophytes) – Ph.
2. Cây có chồi sát mặt đất (Chamerophytes) – Ch.
3. Cây có chồi nửa ẩn (Hemicryptophytes) – He.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
55
4. Cây chồi ẩn ( Cryptophytes) – Cr.
5. Cây sống 1 năm (Therophytes) –Th.
Trong nhóm cây chồi trên đất (Ph) có các nhóm phụ sau :
+ Cây có chồi trên đất lớn và vừa (Cao > 8m)
(Megaphane’rophytes và Mesophane’rophytes ) – MM.
+ Cây có chồi nhỏ trên đất (Cao từ 2 – 8 m)
(Microphane’rophytes) – Mi
+ Cây có chồi lùn trên đất (Cao từ 0,25 – 2 m)
(Nanophane’rophytes) – Na
+ Cây có chồi leo quấn (Lianes – Phne’rophytes) – Lp
+ Cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám (Epiphytes-
phane’rophytes) – Ep
+ Cây có chồi trên thân thảo (Phane’rophytes-Herbaces) – Hp
Trong các điểm nghiên cứu trên có tất cả 5 nhóm dạng sống thực
vật. Nhóm cây ch ồi trên đất (Ph) có số loài nhiều nhiều nhất 123 loài
(Chiếm 75,4% tổng số loài của hệ thực vật ). Các nhóm dạng sống còn lại
chiếm tỷ lệ thấp hơn , khoảng từ 5,4 đến 6,6 % tổng số loài : Có 10 cây
chồi sát mặt đất (Ch), chiếm 6,3% tổng số loài ; 11 cây chồi nửa ẩn (He)
(6,6%); 9 cây chồi ẩn (Cr) (5,4%); 10 cây sống 1 năm (Th) (6,3%). Như
vậy, dạng sống thực vật ở đây đã thể hiện được tính chất nhiệt đới điển
hình, trong đó nhóm cây chồi trên đấ t (Nhóm cây đại diện cho các vùng
nhiệt đới – Ph ) chiếm ưu thế hoàn toàn so với các nhóm dạng sống còn
lại (Là những nhóm đại diện cho các hệ thực vật vùng ôn đới , ôn đới bán
hoang mạc – Ch, He, Cr, Th). Phổ dạng sống t hực vật trong các kiểu
thảm trên của trạm ĐDSH Mê Linh - Vĩnh Phúc :
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
56
SB = 7,54 Ph + 6,3 Ch + 6,6 He + 5,4 Cr + 6,3 Th
Tuy thời gian phục hồi của mỗi trạng thái nghiên cứu khác nhau
nhưng nhóm cây chồi trên đất (Ph) trong mỗi kiểu thả m vẫn chiếm tỷ lệ
lớn nhất trong các nhóm dạng sống thực vật . Kiểu dạng sống có chồi nhỏ
trên đất (Mi) chiếm tỷ trọng rất lớn (36,4% trong các kiểu dạng sống của
nhóm Ph), chứng tỏ giai đoạn thảm thực vật các dạng cây gỗ nhỏ rất
thích hợp sinh trưởng và phát triển .
Để thấy rõ ảnh hưởng qua lại giữa điều kiện tự nhiên với các dạng
sống thực vật , chúng tôi sẽ đi sâu phân tích tính đa dạng loài trong từng
nhóm dạng sống , thể hiện khả năng thích ngh i sống của chúng trong
từng trạng thái thảm nghiên cứu .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Bảng 4.3. Sự phân bố dạng sống thực vật trong các trạng thái TTV.
Các kiểu dạng sống
TTV thấp sau
NR
TTV cao sau
NR
TTV cao sau
KTK
Rừng non
Tính chung
cho tât cả các
trạng thái
TTV
Số
loài
Tỷ lệ
(%)
Số
loài
Tỷ lệ
(%)
Số
loài
Tỷ lệ
(%)
Số
loài
Tỷ lệ
(%)
Số
loài
Tỷ lệ
(%)
1. Cây có chồi trên đất (Ph) 34 58,6 59 67,7 53 72,7 43 82,7 123 75,4
+ Cây có chồi trên đất nhỡ và lớn
(MM)
1 1,7 5 5,7 8 11,0 10 19,2 20 12,5
Cây có chồi nhỏ trên đất (Mi) 8 13,8 27 38,6 23 31,5 24
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc311.pdf