Luận văn Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng ở xã Đồng Rui huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh

RNM ở Đồng Rui bao gồm 1.456,90 ha RNM tự nhiên, 125 ha RNM trồng, ngoài ra còn có 1.081,85 ha đất bói triều và đất có sú vẹt mọc rải rác.

RNM tự nhiên nằm ở phần ngoài của xã, bên trong là khu NTTS, đất nông nghiệp, đất thổ cư. Tuy vẫn còn những diện tớch RNM còn nhiều cõy, độ che phủ cao, chất lượng tốt (hình 11, hình 12) nhưng cũng có nhiều những nơi chỉ còn ít cõy to (hình 13), cõy mới tái sinh tự nhiờn (hình 14), đất ở đây đang bị xói dần do tác động của dòng nước; và còn phần diện tớch lớn các khu đất RNM bị chặt phá để làm đầm tôm (hình 9 và hình 10). Có thể so sánh tỉ lệ giữa những đất RNM với độ che phủ khác nhau qua hình 8. Hình ảnh của xã qua vệ tinh vào năm 2006 cho thấy phần RNM có độ che phủ cao và trung bình không còn nhiều, nằm ở xa khu dân cư, phần lớn ở phía Đông và phớa Tõy Bắc của xã. Trong khi đất NTTS, đất mất cõy ngập mặn lại chiếm diện tớch đáng kể và có mặt ở khắp các khu vực.

 

doc105 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5084 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng ở xã Đồng Rui huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùng củi làm chất đốt, chỉ một số rất ít (khoảng 15%) hộ gia đình dùng than và gas. Người dân thường đi vớt củi ngoài bãi triều, mang về phơi khô rồi sử dụng. Nhiều hộ đi lấy củi (chủ yếu là xin) tại các rừng, đồi ở Ba Chẽ khi các chủ đồi/rừng chặt cây để trồng keo. Tuy nhiên, nguồn chất đốt này không ổn định, các nguồn chất đốt này sẽ mất đi khi các chủ hộ đã trồng xong các rừng keo. Ngoài ra, người dân còn khai thác nguồn chất đốt từ RNM, do vậy đõy cũng là nguyên nhõn góp phần làm suy giảm RNM trong vùng Nước sinh hoạt: Xã Đồng Rui chưa có hệ thống cung cấp nước sạch. Khoảng 80% hộ gia đình sử dụng nước giếng khơi để ăn uống và sinh hoạt, chỉ 10% số hộ có bể nước mưa. Nhiều hộ vẫn phải dùng nước hồ để ăn, uống, sinh hoạt. Nước tưới trong khu vực cũng rất hạn chế. Vào vụ chiêm, nước tưới chủ yếu là bơm từ các hồ lên, ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất và sản lượng cây trồng đặc biệt là cây lúa. Văn hóa, giỏo dục Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của Tiờn Yờn nói chung và xó Đụng Rui nói riêng trong những năm gần đõy phỏt triển khá, tỷ lệ huy động học sinh đến trường ngày càng tăng. Xã Đồng Rui có 01 trường trung học cơ sở với 26 lớp bao gồm các lớp mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở và mẫu giáo với tổng số học sinh là hơn 400 em và 41 giáo viên. Xã không có trường trung học phổ thụng nờn cỏc em học sinh lớp 10, 11 và 12 phải trọ học tại thị trấn Tiờn Yờn. Do xó cú nhiều hộ gia đình dân tộc thiểu số nờn trình độ văn hóa nói chung rất thấp. Nhiều người lớn không biết đọc, biết viết. Số học sinh trong độ tuổi đi học nhưng chỉ học hết tiểu học rồi bỏ học, ở nhà làm nông nghiệp hoặc đi khai thác hải sản ngoài bãi triều cũng khá cao. Cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hoá mới được duy trì và phát triển mạnh tới từng thôn. Đi đôi với kiên quyết chỉ đạo ngăn chặn bài trừ các tệ nạn xã hội như nạn số đề, mại dõm, tiờm chớch, cỏc hoạt động có tính chất tôn giáo, lễ hội được hướng dẫn, đảm bảo tự do tín ngưỡng của nhân dân và theo đúng pháp luật. Những năm qua xã cũng đã cố gắng đầu tư cho hoạt động thông tin, tuyên truyền đại chỳng. Xó đó xõy dựng được các nhà văn hóa cộng đồng tại cỏc thụn và cỏc thụn cú hệ thống loa truyền thanh đảm bảo thông tin đến các hộ gia đình. Y tế Trong những năm qua cụng tỏc y tế, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ngày càng được nâng cao, việc phòng bệnh, điều trị bệnh được duy trì thường xuyờn. Xó Đồng Rui có 1 trạm y tế 5 phòng và 4 giường bệnh. Đội ngũ cán bộ y tế ở đây gồm 4 người: 1 y sĩ trạm trưởng hiện đang theo học chuyờn tu bác sĩ, 1 nhân viên y tế, 1 y sĩ và 1 y tá. Nhiệm vụ của trạm chủ yếu là chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dõn. Cỏc trường hợp bệnh nặng thường chuyển lên huyện và tỉnh cứu chữa. Trung tâm y tế huyện tổ chức khám chữa bệnh định kỳ theo chương trỡnh của huyện cho các đối tượng là người già và trẻ em. Phụ nữ của xã được khám sức khỏe định kỳ 2 lần/năm theo Chương trình dân số. Xã thực hiện tốt các chương trình quốc gia như tiêm phòng, uống vitamin, v.v... Các bệnh chủ yếu ở xã Đồng Rui là sốt vi rút, tiêu hóa, đau mắt, v.v... Số phụ nữ mắc bệnh phụ khoa đã giảm so với trước đây, tuy nhiên vẫn còn khá cao (40-50%) do rất nhiều chị em tham gia khai thác hải sản tại cỏc bói triều. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình còn gặp nhiều khó khăn. Trong xã số cặp vợ chồng sinh con thứ 3 còn nhiều (17,24% vào năm 2005) do trình độ dân trí thấp và nhiều hộ là người dân tộc thiểu số. Tình hình sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi Tình hình sản xuất nông nghiệp Với hơn 80% hộ dân làm nông nghiệp nhưng diện tích đất nông nghiệp của xã Đồng Rui chỉ có 224,8 ha, trong đó 198,1 ha là đất trồng lúa, 26,7 ha cũn lại là đất vườn. Lần chia đất cuối cùng được địa phương tiến hành vào năm 1994, mỗi người dân ở xã Đồng Rui được chia 2 sào đất nông nghiệp để canh tác. Như vậy, những người sinh ra sau này hoặc chuyển đến địa phương sau năm 1994 vẫn chưa được nhận đất canh tác. Để khắc phục tình trạng này, xã Đồng Rui đang có kế hoạch cấp đất canh tác nông nghiệp cho những người dân để canh tác và ổn định cuộc sống. Tại khu vực Đồng Rui, người dân canh tác 2 vụ lúa là vụ chiêm và vụ mùa. Vụ chiêm bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 5, trong khi vụ mùa bắt đầu từ tháng 7 đến tháng 11. Tuy nhiên, nhiều diện tích đất chỉ trồng được 1 vụ lúa do không đủ nước tưới, vụ còn lại người dân phải trồng màu. Cây lương thực chính trong vùng là lỳa. Cõy màu chủ yếu là khoai lang, ngô, sắn, khoai sọ, lạc, đỗ tương, đỗ, rau các loại và một số cõy công nghiệp và dược liệu như thanh hao hoa vàng. Diện tích và sản lượng của từng loại thể hiện trong bảng 6. Bảng 6 . Tình hình sản xuất nông nghiệp của xã Đồng Rui (ha) Loại hình canh tác Năm 2005 Năm 2006 Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Tổng diện tích gieo trồng 403,8 1.493 407,5 1.839 - Cây lương thực 341,3 1.057 296,0 1.192 - Cây chất bột 40 274 80 428 - Cây thực phẩm 7 70 21 187,5 - Cây công nghiệp 13 28,6 10,5 31,5 Tổng giá trị sản xuất trồng trọt (tỷ đồng) 2,05 1,25 (Nguồn: UBND xã Đồng Rui, 2006) Năng suất lúa trong vùng không cao, ở những chân ruộng tốt, năng suất là 2,8 tấn/ha/vụ, những ruộng khỏc cú năng suất thấp hơn, trung bình khoảng 0,6 - 0,7 tấn/ha/vụ. Trong những năm gần đây, nhiều diện tích đất bị nhiễm mặn, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Cụ thể, năm 2005 toàn xó cú 38,8 ha đất bị nhiễm mặn do ảnh hưởng của thiên tai, trong đó 9,87 ha đất 2 vụ lúa; 5,04 ha đất 1 vụ lúa; 7,87 ha đất lúa và màu và 16 ha đất hoang. Vụ chiêm năm 2006, xó cú 9,5 ha lúa chết do đất bị nhiễm mặn, trong đó 4,2 ha diện tích cấy lúa 2 vụ, 3,8 ha cấy lúa 1 vụ và 1,5 ha đất 1 lúa và màu. Sự nhiễm mặn đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân, vấn đề an toàn lương thực của xã. Số hộ thiếu thóc ăn 2-3 thỏng/năm vào những lúc giáp hạt tương đối nhiều, đặc biệt là thôn Bốn nơi có nhiều hộ gia đình dân tộc thiểu số. Có đến 79/119 hộ tại thôn Bốn thiếu thóc ăn, thậm chí có hộ thiếu thóc ăn trong 6 tháng. Một điều khá đặc biệt ở xã Đồng Rui là người dân hầu như không sử dụng thuốc trừ sâu trong canh tác lúa. Đây là kết quả tuyên truyền của chính quyền xã và ý thức của người dân địa phương. Hiện nay, xó cú quy định cấm bắt các loài rắn, ếch, cóc,... và người dân thực hiện rất triệt để các quy định này. Những năm gần đõy xó hầu như không bị ảnh hưởng bởi các dịch sâu bọ như những địa phương khác. Tình hình chăn nuôi Chăn nuôi ở xã Đồng Rui không phát triển, đàn gia súc không lớn. Tình hình chăn nuôi của xã thể hiện trong bảng 7. Bảng 7. Tình hình chăn nuôi của xã Đồng Rui trong giai đoạn 2003-2006 Vật nuôi Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Trâu, bò (con) 193 204 235 212 Lợn (con) 1.573 1.652 1.800 1.850 Gia cầm (con) 15.300 12.200 14.000 11.000 Dê (con) 33 - - - Tổng giá trị sản xuất chăn nuôi (tỷ đồng) - - 1,85 1,7 (Nguồn: UBND xã Đồng Rui) Vật nuôi của xã Đồng Rui chủ yếu là trâu bò phục vụ sản xuất, lợn và gia cầm phục vụ sinh hoạt là chính, số hộ nuôi thương mại không nhiều. Cụ thể tại thôn Bốn, chỉ có 10/119 hộ nuôi từ 10 con lợn trở lên, hộ nuôi nhiều nhất là 22 con/năm. Đàn gia cầm của xã có phát triển hơn do điều kiện nuôi vịt thuận lợi. Riờng thôn Bốn có 17/119 hộ gia đình có đàn gia cầm trên 100 con, hộ nuôi nhiều nhất là trên 1100 con. Mặc dù chăn nuôi tại địa phương khụng phỏt triển rầm rộ xong cũng đạt được tổng giá trị sản xuất là 1,17 tỷ đồng (gần bằng tổng giá trị sản xuất trồng trọt). Tình hình nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sán Tình hình nuôi trồng thủy hải sản Với hơn 1080 ha đất bãi triều xã Đồng Rui có tiềm năng rất lớn về NTTS nước lợ. Trước năm 1993, từ bờ ngăn đất làm nông nghiệp của xã ra phía biển đều là cỏc bói triều. Hưởng ứng chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện để nhân dân đầu tư đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản của Đại hội Đảng bộ huyện Tiờn Yờn, phong trào NTTS đã được bắt đầu tại Đồng Rui từ năm 1994. Lúc đầu có khoảng 14 hộ từ huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đến khoanh đất để nuôi cua và tôm tự nhiên, đầm to nhất là 150 ha, cũn bộ nhất là 45 ha. Một số hộ dân địa phương cũng khoanh đất nuôi cua và tôm trong thời gian này. Việc nuôi thủy hải sản những năm đầu đã thu hút một lực lượng lao động đáng kể, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận nhân dân trong xã. Hàng năm, huyện đã kết hợp với Trung tâm khuyến ngư của tỉnh mở các lớp tập huấn về NTTS cho nhân dân trong xã để nâng cao kiến thức NTTS cũng như lợi ích kinh tế cho các hộ nông dân. Tuy nhiên, việc nuôi thủy hải sản tại xã Đồng Rui đã không mang lại những kết quả như mong muốn. Hình thức nuôi chủ yếu là quảng canh cải tiến và bán thâm canh. Cũng như cỏc xó khỏc trong huyện Tiờn Yờn, nuụi thuỷ sản tại Đồng Rui trong thời gian qua chủ yếu mang tính tự phát, thiếu sự phối hợp đồng bộ với các giải pháp về con giống, thức ăn, thị trường, bảo vệ môi trường, nguồn lợi... Do đó, sự phát triển NTTS tại Đồng Rui không ổn định, có nhiều hộ làm ăn thua lỗ. Tỡnh hỡnh nuôi thủy hải sản được thể hiện trong bảng 8. Bảng 8. Tỡnh hỡnh nuôi trồng và khai thác thủy hải sản giai đoạn 2003-2006 Loại hải sản Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 ha tấn ha tấn ha tấn ha tấn Tôm 958 197 863 180 687 97 322,7 10,2 Cá nước ngọt 220 - 55 10 20 15 (Nguồn: UBND xã Đồng Rui, 2006) Có thể thấy diện tớch nuụi trồng thủy sản giảm mạnh qua các năm. Sản lượng tụm cỏ nuụi cũng giảm tương ứng. Sản lượng năm 2003 là 417 tấn tụm, cỏ thỡ năm 2006 chỉ còn 25,2 tấn, giảm hơn 16 lần, đặc biệt sản lượng tôm giảm hơn 19 lần so với năm 2003 Hiện nay toàn xó cú 124 đầm tôm, trong đó thôn Thượng có nhiều đầm nhất (54 đầm), sau đó là thôn Hạ (22 đầm), thôn Trung (21 đầm), ít nhất là thôn Bốn (13 đầm). Trong số đầm trờn cú 24 đầm là của người ngoài xã. Đa số các đầm này được cấp trước năm 2003. Từ năm 2003 đến nay không có đầm nào được cấp mới mà thậm chớ cú một số hộ đã trả lại đầm vì làm ăn thua lỗ. Trước đây người dõn nuụi cua, cá nước ngọt và tôm. Nhưng nay đối tượng nuôi chủ yếu tập trung vào con tôm với vốn đầu tư lớn và cá nước ngọt. Cua hiện nay hầu như không cũn nuụi trong vùng. Nuôi tôm không đúng kỹ thuật hoặc tại những khu vực điều kiện tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo ra nhiều rủi ro, không thích hợp với người nghốo, đó gây nên một số hiệu quả tiêu cực làm cho người nghèo trở nờn nghèo hơn. Điều này thể hiện rất rõ trong kết quả điều tra tại 115 hộ dân thuộc thôn Bốn. Trong số các hộ điều tra, chỉ có hơn 17 hộ có đầm tôm, trong đó chỉ duy nhất một hộ hiện vẫn nuôi nhưng năng suất rất thấp. Số còn lại hiện chỉ lấy nước ra vào đầm một cách tự nhiờn, nước mang theo con giống, sau một thời gian họ đánh bắt và thu sản phẩm chứ không có bất kỳ đầu tư gì thêm vào đầm. Một số hộ sử dụng đầm làm mặt nước nuôi thả vịt, tăng thu nhập cho gia đình. Do chất lượng một số đầm NTTS ngày càng giảm, sản xuất không còn hiệu quả nên bị thu hồi cho trồng RNM. Đến cuối năm 2006, tổng diện tích ao, đầm xó đó thu hồi là 178,5 ha, trong đó thôn Thượng có 4 ha, thôn Hạ 40 ha, thôn Bốn nhiều nhất với 143,5 ha, chỉ cú thôn Trung là không có đầm ao thu hồi. Với diện tớch cỏc đầm tôm bị thất thu lớn như vậy, việc phục hồi các diện tích này là thách thức rất lớn đối với chính quyền và người dân địa phương. Tình hình khai thác hải sản Trong khi các đầm tôm bị bỏ hoang thì việc khai thác hải sản tự do ngày càng phát triển. Điều này thể hiện trong bảng 9. Bảng 9. So sánh nuôi và khai thác thủy hải sản tại xã Đồng Rui giai đoạn 2003-2006 (tấn) Diện tích/Sản lượng thủy sản Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 A. Diện tích nuôi thủy hải sản 958 342,7 B. Sản lượng nuôi thủy hải sản 417 235 107 25,2 C. Sản lượng khai thác hải sản tự nhiên 120 151 187 350 - Tôm, cá 20 21 47 20 - Nhuyễn thể và thuỷ sản khác 100 130 140 322 (Nguồn: UBND xã Đồng Rui, 2006) Có thể thấy sản lượng khai thác hải sản tự nhiên của xã Đồng Rui tăng lên đáng kể. Năm 2006 sản lượng hải sản khai thác được tăng gấp gần 3 lần sản lượng năm 2003. Những con số nêu trên không thể hiện là hải sản của vùng nhiều hơn mà do số lượng người dân tham gia khai thác tăng nhanh. Trong số 105 hộ điều tra chỉ có 28 hộ không đi khai thác hải sản ngoài bãi triều, trong đó 11 hộ là người già, 8 hộ làm nghề phụ, buôn bán, có người đi làm ăn xa gửi tiền về hoặc con nhỏ. Các hoạt động khai thác mang tính chất huỷ diệt nguồn lợi như dựng mỡn đỏnh bắt cá gần đõy đó giảm nhưng vẫn còn xuất hiện ở một số nơi trong địa bàn xã và huyện, phần lớn là do những người từ nơi khác đến thực hiện. Những hoạt động này trong tương lai cần được ngăn cấm hoàn toàn để bảo toàn nguồn lợi và đảm bảo an toàn tính mạng cho chính người dân. Theo đánh giá của người dân địa phương thỡ cỏc loài tụm cỏ và các nhuyễn thể khỏc ít dần trong những năm gần đây, đặc biệt là cua còn rất ít. Khối lượng các loại hải sản đánh bắt được cũng ít đi. Đa số người dân trong xã đều nhận thức được về nguồn lợi hải sản của địa phương tương đối rõ ràng, đặc biệt là vai trò của RNM đối với môi trường sống của các loài hải sản. Những thuận lợi, khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Rui Những thuận lợi trong phát triển kinh tế- xã hội Đồng Rui là một xã ven biển có diện tớch bói triều lớn, diện RNM của xã tương đối nhiều, liền lô, liền khoảnh, có vị trí địa lý và vai trò ảnh hưởng quan trọng đến các điều kiện môi trường và sinh thái cũng như hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản cũng như toàn bộ đời sống của cộng đồng địa phương. Ngoài ra hệ động, thực vật phát triển và đa dạng trong đó có nhiều loài hải sản có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao là lợi thế của khu vực trong phát triển ngành nuôi trồng và khai thác thủy hải sản. Có sự quan tâm, ủng hộ của chính quyền các cấp như UBND huyện, xã và các tổ chức khác trong xã hội như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, v.v... Chính quyền địa phương đã ý thức được tầm quan trọng của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để tăng giá trị của một đơn vị đất canh tác. Chính quyền địa phương cũng nhận thức rừ tớnh cấp thiết của việc phải phát triển bền vững nguồn TNTN của địa phương, đặc biệt là RNM. Nguồn lao động dồi dào là điều kiện rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhận thức của người dõn cũn hạn chế, song sự quan tâm tham gia của người dân và tinh thần đoàn kết dân tộc cao là những yếu tố tích cực và mang tính quyết định sự tới sự thành công của công tác quản lý bền vững RNM của địa phương. Những khó khăn trong phát triển kinh tế xã hội Là một xó nghốo, dõn chủ yếu là di cư từ nơi khác đến, đặc biệt có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ văn hóa thấp nên nhận thức và khả năng phát huy nội lực từ dõn còn rất hạn chế. Chưa có phương án quy hoạch sử dụng đất nờn gõy mất cân đối trong sử dụng đất đai và TNTN. Sự phát triển nuôi thủy hải sản không thành công trong những năm trước đã để lại hậu quả hết sức nặng nề, nhiều đầm tôm bị bỏ hoang, không khai thác được không những gây lãng phí nguồn đất vốn đã rất hạn chế của địa phương mà còn làm ảnh hưởng đến việc tái tạo nguồn TNTN. Việc tìm ra giải pháp xử lý các đầm tôm là việc làm hết sức khó khăn nhưng rất cần thiết của chính quyền và nhân dân địa phương. RNM tuy đã được giao về cỏc thụn quản lý, xong hiệu quả chưa cao. Điều này đã và đang là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hàng loạt các vấn đề liên quan đến mất rừng, suy thoái TNTN, suy thoái HST RNM, ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sản xuất và đời sống của cộng đồng địa phương. Trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật của cán bộ và nhân dân địa phương trong lĩnh vực quản lý hiệu quả và bền vững TNTN còn thấp. Hiện tại chưa đáp ứng để tiếp cận và tiếp nhận thực hiện những phương pháp cải tiến mới. Điều kiện khí hậu (bão lụt) gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp và khai thác thủy hải sản của địa phương. Tình hình sử dụng đất ở Đồng Rui Hiện trạng sử dụng đất và RNM Hiện trạng sử dụng đất Diện tích đất tự nhiên của xã và các loại đất với các hình thức sử dụng khác nhau được phản ánh qua bảng 10, phân bố các loại đất thể hiện ở hình 2 và hình 3. Từ bảng 10 cho thấy, đất sản xuất nông nghiệp của xã rất ít, chỉ chiếm 5% diện tích đất tự nhiên. Đất NTTS chiếm 22%. Đất lâm nghiệp (bao gồm cả đất bãi triều) nhiều nhất chiếm 54%, trong đó đất có RNM tự nhiên là 1456,9 ha chiếm 29%, gồm vẹt dự bụng đỏ, đước vòi, trang, mắm biển, sú, chỉ có khoảng hơn 125 ha rừng trồng (3% đất tự nhiên) do một số dự án và người dân tự trồng. Trong hình 2 và hình 3, đất thổ cưphõn bố (phần màu hồng) xung quanh trục đường vào xã và ở các thôn. Đất nông nghiệp (phần màu vàng đậm) nằm tập trung xung quanh khu đất thổ cư, bám dọc theo các trục đường trong thôn, xã. Đất trồng cõy lõu năm (phần màu vàng nhạt) rất ít, nằm rải rác bờn trong khu đất nông nghiệp. Đất rừng ngập mặn tự nhiên (phần màu xanh da trời) phõn bố xung quanh xã đảo, tạo thành vành đai xanh chắn sóng bóo, đồng thời cũng là nguồn lợi lớn nhất của xã. Đất thường xuyên ngập nước bao gồm các ao, đầm nuôi thuỷ hải sản có diện tớch khá lớn, có mặt ở khắp các khu vực trong xã, bao quanh và ngăn cách khu đất thổ cư với RNM tự nhiên. Đất ao đầm dự kiến trồng rừng phòng hộ (phần màu tím nhạt) khá lớn và tập trung thành những khu có diện tớch rộng lớn (hình 4, hình 5 và hình 6). Diện tích đất gò đồi, đất hoang hóa (hình 7) không lớn, có mặt rải rác giữa RNM tự nhiên và khu NTTS Bảng 10. Tình hình sử dụng đất xã Đồng Rui ( ha) Loại đất Xã Đồng Rui Thôn Thượng Thôn Trung Thôn Hạ Thôn Bốn diện tích % Tổng diện tích đất tự nhiên 4.955,17 1.300 955,17 1.200 1.500 Đất sản xuất nông nghiệp 224,80 5 87,80 39,20 51,40 46,40 - Đất trồng lúa 198,10 4 73,40 34,80 45,00 44,90 - Đất vườn 26,70 1 14,40 4,40 6,40 1,50 Đất lâm nghiệp (bao gồm cả đất bãi triều) 2.663,75 54 - - - - - Đất có RNM tự nhiên 1.456,90 29 626,10 198,40 223,70 398,70 - Rừng trồng (RNM) 125,00 3 0 50,00 45,00 30,00 - Đất bãi triều và đất có sú vẹt mọc rải rác 1.081,85 22 - - - - Đất nuôi trồng thủy hải sản 1.080,13 22 - - - - Đất phi nông nghiệp (gò đồi, hoang hóa, đất ở) 174,73 4 - - - - Đất chưa sử dụng 759,82 15 - - - - (Nguồn: UBND xã Đồng Rui, 2006) Hình 2. Chỉ dẫn bản đồ giao RNM cho cộng đồng (Nguồn: UBND xã Đồng Rui, 2006) Hình 3. Hỉnh ảnh bản đồ giao RNM cho cộng đồng, xã Đồng Rui (Nguồn: UBND xã Đồng Rui, 2006) Hình 4. Đất trống do cây ngập mặn chết khi thiếu chế độ triều Hình 5. Đất đầm tôm bỏ hoang có cây ngập mặn mọc rải rác Hình 6. Đầm tôm bị bỏ hoang Hình 7. Rừng keo sau khai thác bị bỏ hoang Một số tính chất đất khu vực xã Đồng Rui Độ chua của đất pHKCl pHKCl là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ chua hay tính axit/bazơ của môi trường đất, là một yếu tố quan trọng trong quá trình sinh trưởng và phát triển của thực vật. Mỗi loài cây khác nhau thích nghi trong những khoảng pH khác nhau như: cây có sợi thích hợp ở pH = 4 - 5, cây họ đậu là pH = 7 – 8 và cây lúa là pH = 4 – 6. Giá trị pHKCl của đất dưới các loại hình canh tác khác nhau ở Đồng Rui được thể hiện ở bảng 11: Bảng 11. Kết quả phân tích pHKCl Mẫu pHKCl (19.8oC) RNM 4,3 LÚA 4,5 QCCT 12 NĂM 3,4 QCCT 5 NĂM 3,8 TC TÔM 2 NĂM 6,4 Kết quả phân tích ở bảng 11 cho thấy, pHKCl của đất lúa thuộc loại chua vừa (4,5) (thích hợp với loại cây có sợi như bụng, cúi, dõu tằm…) gần giống với đất RNM (4,3). pHKCl trầm tích đầm QCCT 5 năm và QCCT 12 năm tương đối giống nhau, trong khi đó pHKCl ở trầm tích đầm TC lại cao hơn pHKCl ở trầm tích đầm QCCT do sau mỗi vụ tụm cỏc hộ nuôi tôm ở đầm TC đã sử dụng vôi bột để khử trùng nhiều hơn so với các hộ nuôi tôm ở đầm QCCT. Mùn và các chất tổng số. Nhờ hoạt động của vi sinh vật, các xác hữu cơ (lá cây, rễ cây, thân cây...) trong đất bị phân giải tạo thành mùn. Hàm lượng và thành phần mùn quyết định trạng thái và các tính chất lý, hoá học, độ phì của đất. Trong thành phần mùn chứa 90% nitơ ở dạng dự trữ và chứa nhiều các nguyên tố dinh dưỡng khác như N, P, K, S, Ca..., nờn mựn là nguồn thức ăn dự trữ cho cây trồng. Nitơ là một trong ba nguyên tố dinh dưỡng đa lượng quan trọng nhất của thực vật, có rất nhiều trong các cơ quan của thực vật. Trong đất N tồn tại chủ yếu ở dưới dạng hữu cơ (95 - 99%), còn dạng vô cơ chỉ chiếm 1 - 5%, như vậy Nts trong đất là một chỉ tiêu qua trọng để đánh giá độ phì nhiêu tiềm tàng của đất. Cũng giống như C và N, nguyên tố P và K là hai nguyên tố đa lượng rất quan trọng trong đời sống cây trồng, nếu thiếu chúng cây trồng sẽ không thể sinh trưởng và phát triển được. Hàm lượng P2O5 ts và K2Ots là chỉ số phản ánh khả năng cung cấp P và K cho cây trồng. Theo nhiều kết quả nghiên cứu trước đây, việc nuôi trồng thuỷ sản sẽ cung cấp một lượng đáng kể P và K cho đất. Để đánh giá hàm lượng mùn và các chất tổng số, kết quả phân tích các chỉ tiêu này được thể hiện qua bảng 12: Bảng 12. Kết quả phân tích mùn, Nts, P2O5 ts và K2Ots Mẫu Mùn (%) Nts (%N) Pts (%P2O5) Kts (% K2O) RNM 2,02 0,11 0,02 1,15 LÚA 1,78 0,039 0,012 0,28 QCCT 12 NĂM 2,03 0,079 0,008 0,48 QCCT 5 NĂM 1,87 0,048 0,013 0,79 TC TÔM 2 NĂM 1,13 0,048 0,02 0,39 Theo thang đánh giá mùn của Chiurin thì trầm tích đầm QCCT 12 năm và trầm tích RNM có hàm lượng mùn trung bình, còn đất lúa , QCCT 5 năm, TC tôm 2 nă có hàm lượng mựn nghốo. Kết quả thu được cho thấy cả 4 mẫu trầm tích lúa, QCCT, và TC đều nghèo Kts; chỉ có mẫu trầm tích RNM có hàm lượng Kts trung bình (1,15); hàm lượng Pts ở 5 mẫu trầm tích đều ở mức trung bình. Nts ở trầm tích lúa rất nghốo; cũn ở trầm tích QCCT , TC nghèo, và trầm tích RNM có mức trung bình. Chỉ số CEC, Ca2+tđ và Mg2+tđ trong đất CEC là chỉ số quan trọng phản ánh được năng hấp phụ và trao đổi các chất dinh dưỡng ở dạng cation của đất, những đất có CEC cao thì khả năng chống rửa trôi rất tốt còn đất có CEC thấp (như đất cỏt) thỡ rất dễ bị rửa trôi chất dinh dưỡng. Do đó CEC là một yếu tố quan trọng để tính toán lượng phân bón, thành phần phân bón và hình thức bón phân. Trong đất, Ca2+ và Mg2+ là yếu tố quan trọng trong việc hình thành cấu trúc đất, chúng đóng vai trò như xi măng gắn kết các hạt đất lại tạo thành các đoàn lạp đất. Ngoài ra việc có mặt Ca2+ và Mg2+ trong dung dịch đất cũng hạn chế sự xuất hiện của các ion gây độc cho cây trồng như: Al3+, Fe3+, Cu2+, Pb2+... Mặc dù chiếm tỷ lệ không lớn trong cơ thể thực vật nhưng Ca và Mg là hai nguyên tố quan trọng đối với cơ thể thực vật, Mg là thành phần không thể thiếu trong cấu tạo của clorophin do đó nó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quang hợp của thực vật. Trong khi đó Ca là yếu tố quan trọng trong quá trình sinh trưởng của tế bào và quá trình hình thành tế bào. Kết quả phân tích CEC, Ca2+ và Mg2+ trong các mẫu trầm tích nghiên cứu được thể hiện ở bảng 13: Bảng13. Kết quả phân tích CEC, Ca2+tđ và Mg2+tđ trong đất Mẫu CEC (mgđl/100g) Ca2+ (mgđl/100g) Mg2+ (mgđl/100g) RNM 5,44 2,0 6,49 LÚA 3,38 1,1 1,05 QCCT 12 NĂM 1,75 1,5 4,75 QCCT 5 NĂM 5,25 1,1 4,75 TC TÔM 2 NĂM 5,5 1,2 3,75 Cũng theo kết quả phân tích hàm lượng Mg2+tđ ở đất lúa (1.05 mgđl/100gđất) thấp hơn so với các mẫu còn lại vì Mg2+ có nhiều trong nước biển, còn đất lúa do được cải tạo từ lâu nên Mg2+ đã bị rửa trôi khỏi đất trong quá trình thau chua rửa mặn. Các mẫu còn lại có hàm lượng Mg2+tđ cao hơn, dao động từ 3,75 – 6,49 mgđl/100gđất). Đây có thể là do các mẫu QCCT, TC và RNM là những nơi thường xuyên được tiếp nhận một lượng Mg2+ từ nước biển. Kết quả thu được cho thấy hàm lượng Ca2+tđ của các mẫu trầm tích ở đây chỉ ở mức trung bình, dao động từ 1,1-2,0 mgđl/100g đất. Hàm lượng các chất dễ tiêu trong đất. Nếu như hàm lượng các chất tổng số đặc trưng cho độ phì tiềm tàng của đất, thì hàm lượng các chất dinh dưỡng dưới dạng dễ tiêu lại phản ánh độ phì thực tế của đất, đặc trưng cho khả năng cung cấp chất dinh dưỡng trực tiếp của đất cho cây trồng. Có nhiều loại đất có độ phì tiềm tàng rất lớn nhưng cây trồng vẫn sinh trưởng và phát triển kém là do đất đú cú độ phì thực tế thấp. Do đó, việc đánh giá hàm lượng các chất dễ tiêu trong đất rất quan trọng. Kết quả phân tích hàm lượng các chất dễ tiêu trong các mẫu nghiên cứu được thể hiện trong bảng 14, cả 5 mẫu đều có Pdt và Ntf ở mức nghốo cũn Kdt lại rất giàu. Bảng 14. Hàm lượng Ntp, P2O5 dt, K2Odt trong đất Mẫu Ntf (mg/100g) Pdễ tỉêu (mgP2O5/100g) K+ (mgK2O/100g) RNM 6,3 1,72 40,91 LÚA 6,3 4,467 1,05 QCCT 12 NĂM 6,44 0,935 17,3 QCCT 5 NĂM 8,26 1,07 23 TC TÔM 2 NĂM 7,14 4,33 67,4 Hàm lượng Fe2+, Fe3+ trong đất. Đối với dinh dưỡng cây trồng thì sắt được xếp vào nguyên tố vi lượng, nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình quang hợp và hô hấp của thực vật, nếu thiếu sắt cây thường có hiện tượng lá úa vàng có thể dẫn đến chết. Tuy nhiên, trong đất ở vùng nhiệt đới hàm lượng Fe lại được xếp vào loại đa lượng do quá trình tích luỹ tương đối sắt nhôm. Khi hàm lượng Fe3+ trong đất cao thỡ chỳng sẽ tạo thành các kết tủa bám vào bề mặt của rễ làm cho rễ không lấy được chất dinh dưỡng và hạn chế sinh trưởng của cây có thể dẫn đến chết. Kết quả phân tích hàm lượng Fe2+, Fe3+ trong các mẫu phân tích được thể hiện qua bảng 15. Bảng 15. Hàm lượn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van thac si rung.doc
Tài liệu liên quan