MỞ ĐẦU .1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.1
2. Mục tiêu đề tài.2
3. Nội dung nghiên cứu .2
CHUƠNG 1 - TỔNG QUAN.3
1.1. Tổng quan về năng lƯợng tái tạo.3
1.1.1 Khái niệm về năng lƯợng tái tạo .3
1.1.2. Nghiên cứu khai thác các nguồn năng lƯợng tái tạo trên thế giới.3
1.1.3. Nghiên cứu khai thác năng lƯợng tái tạo ở Việt Nam.5
1.2. Giới thiệu chung về chất thải rắn sinh hoạt.12
1.2.1. Khái niệm về chất thải rắn (CTR) sinh hoạt.12
1.2.2. Tác động của CTR sinh hoạt đến môi trƯờng và sức khỏe cộng đồng .12
1.3. Các công nghệ thu hồi năng lƯợng từ chất thải rắn.15
1.3.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng công nghệ thu hồi năng lƯợng từ chất
thải rắn ở các nƯớc trên thế giới .17
1.3.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng công nghệ thu hồi năng lƯợng từ chất
thải rắn ở Việt Nam .21
1.4. Giới thiệu về chính sách phát triển năng lƯợng tái tạo của Việt Nam .24
CHƯƠNG 2 - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.29
2.1. Phạm vi và đối tƯợng nghiên cứu.29
2.1.1. Phạm vi nghiên cứu.29
2.1.2. Đối tƯợng nghiên cứu.33
2.2. Các phƯơng pháp nghiên cứu.33
2.2.1. PhƯơng pháp thu thập, tổng hợp tài liệu .34
2.2.2. PhƯơng pháp điều tra, khảo sát thực tế .34
2.4.3. PhƯơng pháp đếm tải.35
2.2.4. PhƯơng pháp xác định thành phần CTRSH .35
2.2.5 PhƯơng pháp xác định khối lƯợng riêng CTRSH .36
40 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá tiềm năng năng lƣợng tái tạo từ chất thải rắn sinh hoạt huyện kim bảng tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc khai thác tại những vùng chƣa có lƣới điện
quốc gia (khoảng 100.000 -150.000 trạm) vẫn hoạt động tốt, cung cấp điện cho sinh
hoạt, sản xuất góp phần nâng cao đời sống cho đồng bào vùng sâu, vùng xa đang
còn nhiều khó khăn. [17]
Năm 2016, theo quy hoạch ngành điện đã đƣợc Thủ tƣớng chính phủ phê
duyệt vào tháng 3 năm 2016, số dự án TĐN đang vận hành là 245 (công suất 2.373
MW), dự án đang thi công là 162 (công suất 2.082 MW), dự án đang nghiên cứu
đầu tƣ là 230 (công suất 2.275 MW), dự án nhỏ đang rà soát là 56 (công suất 294
MW) [20].
* Năng lượng gió:
Đƣợc đánh giá là quốc gia có tiềm năng phát triển năng lƣợng gió có thể đạt
công suất phát điện khoảng 800 - 1.400 kwh/m2/năm trên đất liền, từ 500 - 1.000
kwh/m
2/năm tại các khu vực bờ biển, Tây Nguyên và phía Nam và dƣới 500
kwh/m
2/năm ở các khu vực khác. Theo các báo cáo thì tiềm năng năng lƣợng gió
7
của Việt Nam tập trung nhiều nhất tại vùng duyên hải miền Trung, miền Nam, Tây
Nguyên và các đảo.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, trên lãnh thổ Việt Nam, hai vùng
giàu tiềm năng nhất để phát triển năng lƣợng gió là Sơn Hải (Ninh Thuận) và vùng
đồi cát ở độ cao 60 - 100 m phía tây Hàm Tiến đến Mũi Né (Bình Thuận). Tại hai
địa điểm này có thể xây dựng các trạm điện gió công suất 3 - 3,5 MW. Đây là khu
vực có dân cƣ thƣa thớt, thời tiết khô nóng, khắc nghiệt, và là những vùng dân tộc
đặc biệt khó khăn của Việt Nam. Ngoài ra, các vùng đảo ngoài khơi nhƣ Bạch Long
Vĩ, đảo Phú Quý, Trƣờng Sa... là những địa điểm gió có vận tốc trung bình cao,
tiềm năng năng lƣợng gió tốt, có thể xây dựng các trạm phát điện gió công suất lớn
để cung cấp năng lƣợng điện cho dân cƣ trên đảo. Cũng theo Ngân hàng Thế giới,
Việt Nam có tiềm năng gió lớn nhất và hơn hẳn các quốc gia lân cận là Thái Lan,
Lào và Campuchia. Trong khi Việt Nam có tới 8,6% diện tích lãnh thổ đƣợc đánh
giá có tiềm năng từ “tốt” đến “rất tốt” để xây dựng các trạm điện gió cỡ lớn thì diện
tích này ở Campuchia là 0,2%, ở Lào là 2,9%, và ở Thái Lan cũng chỉ là 0,2%.
Tổng tiềm năng điện gió của Việt Nam ƣớc đạt 513.360 MW tức là bằng hơn 200
lần công suất của thủy điện Sơn La, và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành
điện vào năm 2020. Nếu xét tiêu chuẩn để xây dựng các trạm điện gió cỡ nhỏ phục
vụ cho phát triển kinh tế ở những khu vực khó khăn thì Việt Nam có đến 41% diện
tích nông thôn có thể phát triển điện gió loại nhỏ. Nếu so sánh con số này với các
nƣớc láng giềng thì Campuchia có 6%, Lào có 13% và Thái Lan là 9% diện tích
nông thôn có thể phát triển năng lƣợng gió. Bên cạnh đó, việc vận hành các nhà
máy điện gió không phức tạp nhƣ các nhà máy điện hạt nhân hay thủy điện.[2] [17]
Với những dự án nhà máy điện gió đã triển khai ở Việt Nam nhƣ nhà máy
điện gió Phƣơng Mai ở Bình Định phục vụ cho Khu Kinh tế Nhơn Hội với tổng đầu
tƣ kinh phí giai đoạn 1 cho 50MW điện là 65 triệu USD, dự án điện gió tại Tây
Nguyên giai đoạn 1 công suất 28 MW, tổng mức đầu tƣ gần 1.400 tỷ đồng, dự kiến
sẽ phát điện vào tháng 6 năm 2016, với sản lƣợng hơn 100 triệu kWh/năm sẽ là
8
những dự án phát triển năng lƣợng gió khả thi, tạo điền đề cho những dự án hứa hẹn
tiếp theo trong tƣơng lai.
Để đáp ứng nhu cầu NL cho phát triển kinh tế, xã hội và góp phần đảm bảo
an ninh NL, Chính phủ cũng đã có chủ trƣơng phát triển mạnh NLTT và điện gió
trong thời gian tới. Là một nƣớc đi sau trong lĩnh vực này chúng ta cần tận dụng các
điều kiện thuận lợi nhƣ, học hỏi kinh nghiệm và tiếp thu công nghệ tiên tiến và phù
hợp của thế giới để phát triển các công nghệ NLTT của mình một cách hiệu quả và
bền vững nhất.
Bảng 1.1. Tiềm năng về năng lượng gió tại một số vùng lãnh thổ ở Việt Nam.
STT Vùng lãnh thổ Tổng năng lƣợng gió kWh/m2
1 Duyên hải Nam Trung Bộ 300-400
2 Đảo Trƣờng Sa 2.058
3 Bạch Long Vĩ 3.064
4 Côn Đảo 302
5 Phú Quốc 440
Nguồn: Nguyễn Thị Nhâm Tuất, Ngô Văn Giới, 2013
* Năng lƣợng sinh học:
Năng lƣợng sinh học là loại năng lƣợng có nguồn gốc từ các sinh vật, bao
gồm năng lƣợng sinh khối (biomass energy), nhiên liệu sinh học (biofuel) và khí
sinh học (biogas).
Là một nƣớc nông nghiệp, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về nguồn năng
lƣợng sinh khối. Các loại sinh khối chính là: gỗ năng lƣợng, phế thải - phụ phẩm từ
cây trồng, chất thải chăn nuôi, rác thải ở đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Khả
năng khai thác bền vững nguồn sinh khối cho sản xuất năng lƣợng ở Việt Nam đạt
khoảng 150 triệu tấn mỗi năm. Một số dạng sinh khối có thể khai thác đƣợc ngay về
mặt kỹ thuật cho sản xuất điện hoặc áp dụng công nghệ đồng phát năng lƣợng (sản
xuất cả điện và nhiệt) đó là: trấu ở Đồng bằng Sông Cửu long, bã mía dƣ thừa ở các
nhà máy đƣờng, rác thải sinh hoạt ở các đô thị lớn, chất thải chăn nuôi từ các trang
trại gia súc, hộ gia đình và chất thải hữu cơ khác từ chế biến nông-lâm-hải sản.
9
Ngành chăn nuôi Việt Nam hiện nay khá phát triển, hàng năm thải ra môi
trƣờng một khối lƣợng lớn chất thải chăn nuôi dƣới dạng rắn và lỏng. Theo số liệu
của báo cáo hiện trạng môi trƣờng quốc gia năm 2014, lƣợng chất thải rắn chăn
nuôi năm 2013 của Việt Nam bao gồm: 18,5 triệu tấn từ chăn nuôi bò; 13,8 từ chăn
nuôi trâu; 18,9 triệu tấn từ chăn nuôi lợn; 22,6 triệu tấn từ chăn nuôi gia cầm. Nếu
chỉ tính riêng từ phụ phẩm nông nghiệp và chất thải chăn nuôi thì hàng năm nƣớc ta
có thể sản xuất 4.844 triệu m3 khí sinh học, tƣơng đƣơng với hơn 2 triệu tấn dầu. [4]
Với dân số hơn 90 triệu ngƣời, hàng năm lƣợng chất thải sinh hoạt phát sinh
do hoạt động của dân cƣ là rất lớn. Chất thải sinh hoạt sau khi thu gom và phân loại
có thể tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lƣợng từ việc đốt rác hoặc từ khí thải bãi
chôn lấp rác.
Việt Nam đã khởi công xây dựng 4 Bốn nhà máy Etanol tại Phú Thọ, Quảng
Nam, Quảng Ngãi và Bình Phƣớc với công suất 420 triệu lít/năm. Nhƣ vậy, là quá
nhỏ so với tiềm năng của nƣớc ta. Mặt khác, do nhiều nguyên nhân mà mỗi năm có
hàng chục triệu tấn phế phụ phẩm nông nghiệp (rơm rạ, thân cây ngô, đậu, v.v.)
chƣa đƣợc chú trọng khai thác mà bị đốt tại nhiều vùng nông thôn gây ô nhiễm môi
trƣờng khu vực. [17]
Trong vài năm trở lại đây, nguồn nhiên liệu sinh học đã đƣợc nhắc đến
nhiều hơn tại Việt Nam. Giải pháp sản xuất cồn sinh học thay thế cho nhiên liệu
động cơ đang đƣợc tiến hành thử nghiệm do Việt Nam có tiềm năng về một số loại
cây trồng cung cấp nguyên liệu sản xuất cồn nhƣ lúa, ngô, sắn, khoai và mía. Nhiều
vùng có điều kiện thổ nhƣỡng, khí hậu thích hợp với các loại cây này. Ƣớc tính nếu
việc điều chỉnh diện tích, sản lƣợng các loại cây có hạt, cây mía, các cây có củ đạt
kết quả tích cực, Việt Nam có thể sản xuất khoảng 5 tỷ lít cồn/năm. Tƣơng tự nhƣ
vậy, Việt Nam rất có tiềm năng cho sản suất dầu diesel sinh học từ dầu thực vật, mỡ
động vật. Mỡ cá da trơn, dầu ăn phế thải là nguồn nguyên liệu cho sản xuất diesel
sinh học sẽ giúp giải quyết đƣợc vấn đề môi trƣờng cho ngành chế biến thuỷ sản và
chế biến thực phẩm. Tiềm năng về điều kiện thổ nhƣỡng, khí hậu thích ứng với các
loại cây nhƣ dừa, cây dầu mè có thể cho phép thành lập các vùng nguyên liệu tập
10
trung. Ƣớc tính nếu việc quy hoạch và tổ chức thực hiện các vùng trồng cây nguyên
liệu theo hƣớng sử dụng triệt để quỹ đất, tạo đƣợc giống năng suất cao, làm chủ
đƣợc công nghệ thu hồi dầu từ nguyên liệu, Việt Nam có thể sản xuất khoảng 500
triệu lít biodiesel/năm.
* Năng lượng mặt trời:
Việt Nam có tiềm năng về nguồn năng lƣợng mặt trời. Các địa phƣơng ở
phía Bắc bình quân có khoảng từ 1.800 đến 2.100 giờ nắng trong một năm, còn các
tỉnh ở phía Nam (từ Đà Nẵng trở vào) bình quân có khoảng từ 2.000 đến 2.600 giờ
nắng trong một năm. Bức xạ mặt trời trung bình nhận đƣợc tại mặt đất dao động
trong khoảng từ 3,54 đến 5,15 kWh/m2/ngày, tiềm năng lý thuyết đƣợc đánh giá
ƣớc tính khoảng 43,9 tỷ TOE/năm. (TOE - tấn dầu quy đổi). Quy hoạch Điện VII
điều chỉnh đƣa ra triển vọng và đặt kế hoạch khai thác đƣợc khoảng 850 MW điện
mặt trời vào năm 2020; sẽ nâng lên 4.000 MW vào năm 2025 và có thể khai thác
khoảng 12.000 MW vào năm 2030. [17]
Tuy nhiên Việt Nam hiện nay thƣờng tập trung vào các lĩnh vực nhƣ: Cung
cấp nƣớc nóng dùng trong sinh hoạt và phát điện ở qui mô nhỏ; sấy, nấu ăn, chƣng
cất nƣớc... ở qui mô thử nghiệm nhỏ, chƣa đáng kể. Đây là những hệ thống nhỏ lẻ,
không nối lƣới, thƣờng đƣợc sử dụng trực tiếp ở dạng điện một chiều để thắp sáng,
trong một số trƣờng hợp có thể đƣợc biến thành điện xoay chiều để sử dụng cho các
nhu cầu khác.
Đến năm 2014 mới có 1 dự án điện mặt trời đƣợc nối lƣới đầu tiên, đó là
Nhà máy quang năng Hội An, Côn Đảo (xây dựng từ tháng 3 năm 2014, có công
suất 36 kWp, điện lƣợng khoảng hơn 50 MWh với tổng mức đầu tƣ khoảng 140
nghìn Euro, đƣợc hoàn thành đấu nối vào lƣới điện của Điện lực Côn Đảo vào đầu
tháng 12 năm 2014. Hiện nay, cả nƣớc mới có khoảng 30 nhà đầu tƣ trong và ngoài
nƣớc mới bắt đầu xúc tiến lập các dự án điện mặt trời công suất từ 20 MW đến trên
300 MW tại một số địa phƣơng, tập trung chủ yếu ở miền Trung. Trong đó đáng
chú ý là 2 dự án của Công ty Đầu tƣ và Xây dựng Thiên Tân (tại tỉnh Quảng Ngãi
11
và Ninh Thuận) và dự án Tuy Phong do Công ty TNHH DooSung Vina (Hàn Quốc)
đầu tƣ với quy mô 66 triệu USD, công suất 30 MW tại tỉnh Bình Thuận.
* Năng lượng địa nhiệt và thủy triều:
Việt Nam đang bỏ trống nguồn tài nguyên năng lƣợng xanh, sạch, vĩnh cửu
còn rất nhiều tiềm năng là địa nhiệt với hơn 300 nguồn nƣớc khoáng nóng có nhiệt
độ bề mặt từ 30oC đến 105oC, tập trung nhiều tại Tây Bắc, Trung Bộ. Kết quả
nghiên cứu bƣớc đầu cho thấy, tổng công suất những nhà máy địa nhiệt nếu đƣợc
xây dựng ở Việt Nam có thể lên tới khoảng trên 400 MW. Riêng vùng Đồng bằng
sông Hồng, nơi vốn bị hạn chế về nguồn năng lƣợng gió và năng lƣợng mặt trời bởi
yếu tố khí hậu thì nghiên cứu cho thấy năng lƣợng địa nhiệt lại tƣơng đối ấn tƣợng,
các dấu hiệu địa nhiệt khá phong phú, gồm bồn địa nhiệt vùng Đông Nam - Tây Bắc
với nhiệt độ đạt tới 160oC tại độ sâu 4 km (có khả năng sinh điện vào khoảng 1,16%
tổng sản lƣợng điện của Việt Nam sản xuất năm 2006), đới địa nhiệt đứt gãy Sông
Lô - Vĩnh Ninh có nhiệt độ trung bình khoảng 114oC, các nguồn nƣớc địa nhiệt 40-
50
o
C ở các điểm Hƣng Hà, Phù Cừ, Hải Dƣơng, Ba Vì (Hà Nội)Theo tính toán
của các nhà khoa học, chỉ riêng sử dụng bơm địa nhiệt dùng cho điều hòa không khí
ở Hà Nội cũng sẽ tiết kiệm đƣợc khoảng 800 tỉ đồng/năm về mặt kinh tế và hơn thế
nữa là giảm mức phát thải CO2 ở mức tƣơng đƣơng với 252.000 tấn do sử dụng khí
thiên nhiên. Bên cạnh đó, việc khai thác và sử dụng nƣớc nóng ở vùng đồng bằng
sông Hồng với nhiệt độ 40-50oC là hoàn toàn khả thi trong các quy hoạch xây dựng
đô thị mới, công viên du lịch và khu vui chơi, nghỉ dƣỡng
Việt Nam có tiềm năng khai thác nguồn năng lƣợng thủy triều cao bởi có rất
nhiều vũng, vịnh, cửa sông, đầm phá và đặc biệt là có đƣờng bờ biển dài trên 3.200
km. Theo đánh giá sơ bộ, vùng biển Quảng Ninh có tiềm năng điện thủy triều lớn
nhất cả nƣớc, ƣớc tính khoảng 3,65 GWh/km2 (1GW = 1 triệu KW). Tiềm năng này
giảm dần dọc theo ven biển từ phía Bắc vào đến miền Trung, đến Nghệ An là
khoảng 2,48 GWh/km2 và khu vực Thừa Thiên - Huế nhỏ nhất (vào khoảng 0,3
GWh/km
2). Tuy nhiên, nguồn năng lƣợng thủy triều lại tăng dần khi vào sâu những
tỉnh phía Nam, đặc biệt tại Phan Thiết đạt khoảng 2,11 GWh/km2 và đạt cực đại tại
12
khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu với 5,23 GWh/km2. Do đặc điểm địa hình và chế độ
thủy triều thì vùng biển Đông Bắc thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh và thành phố
Hải Phòng là khu vực có tiềm năng phát triển điện thủy triều lớn nhất nƣớc với
công suất lắp máy có thể lên đến 550 MW, chiếm 96% tiềm năng kỹ thuật nguồn
điện thủy triều của Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn năng lƣợng này chƣa đƣợc quan
tâm khai thác, mới ở giai đoạn nghiên cứu sơ khai, chƣa có những ứng dụng cụ thể
phát điện từ nguồn năng lƣợng này.[17]
So với nhiều nƣớc trên thế giới, những kết quả nêu trên còn quá nhỏ bé và
chƣa phát huy hết tiềm năng hiện có. Để đáp ứng nhu cầu trong khi việc cung ứng
năng lƣợng đang và sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề và thách thức, đặc biệt là sự
cạn kiệt dần nguồn nhiên liệu hóa thạch nội địa, giá dầu biến động theo xu thế tăng
và Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào giá năng lƣợng thế giới... Chính vì vậy,
việc xem xét khai thác nguồn năng lƣợng tái tạo trong giai đoạn tới sẽ có ý nghĩa
hết sức quan trọng cả về kinh tế, xã hội, an ninh năng lƣợng và bảo vệ môi trƣờng.
Vấn đề này đã đƣợc Chính phủ quan tâm, chỉ đạo và bƣớc đầu đã đƣợc đề cập trong
một số các văn bản pháp lý.
1.2. Giới thiệu chung về chất thải rắn sinh hoạt
1.2.1. Khái niệm về chất thải rắn (CTR) sinh hoạt
Chất thải rắn sinh hoạt là những chất thải liên quan đến hoạt động sống của
con ngƣời, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cƣ, các cơ quan, trƣờng học, các
trung tâm dịch vụ, thƣơng mại...
Chất thải rắn sinh hoạt có thành phần bao gồm kim loại, sành sứ, thủy tinh,
gạch ngói vỡ, đất đá, cao su, chất dẻo, thực phẩm dƣ thừa, xƣơng động vật, tre gỗ,
rơm rạ, giấy, nilon
1.2.2. Tác động của CTRSH đến môi trƣờng và sức khỏe cộng đồng
a. Ô nhiễm môi trường nước
Các loại CTRSH, nếu là chất thải hữu cơ, trong môi trƣờng nƣớc sẽ phân
hủy một cách nhanh chóng. Phần nổi lên mặt nƣớc sẽ có quá trình khoáng hóa chất
hữu cơ để tạo ra các sản phẩm trung gian sau đó là những sản phẩm cuối cùng là
13
chất khoáng và nƣớc. Phần chìm trong nƣớc sẽ có quá trình phân giải yếm khí để
tạo ra các hợp chất trung gian và sau đó là những sản phẩm cuối cùng nhƣ CH4,
H2S, H2O, CO2. Tất cả các chất trung gian này đều gây mùi thối và là độc chất. Bên
cạnh đó, đây còn là môi trƣờng phát triển cho vi trùng và siêu vi trùng làm ô nhiễm
nguồn nƣớc.
Nếu CTRSH có chƣa nhiều thành phần kim loại thì nó gây nên hiện tƣợng ăn
mòn trong môi trƣờng nƣớc. Sau đó quá trình oxy hóa có oxy và không có oxy xuất
hiện, gây nhiễm bẩn cho môi trƣờng nƣớc, nguồn nƣớc. Những chất thải độc nhƣ
Hg, Pb, hoặc các chất thải phóng xạ còn nguy hiểm hơn.
Ngoài ra, CTRSH có thể bị cuốn trôi theo dòng nƣớc mƣa xuống ao, hồ,
sông, ngòi, kênh, rạch sẽ làm nhiễm bẩn nguồn nƣớc mặt. Mặt khác, lâu dần CTR
tích tụ sẽ làm giảm diện tích ao hồ, giảm khả năng tự làm sạch của nƣớc gây cản trở
các dòng chảy, tắc nghẽn cống rãnh thoát nƣớc... Hậu quả của hiện tƣợng này là hệ
sinh thái trong các ao hồ bị ảnh hƣởng, có thể dẫn đến bị hủy diệt. Việc ô nhiễm các
nguồn nƣớc mặt này cũng là một trong những nguyên nhân gây các bệnh tiêu chảy,
tả, lỵ, trực khuẩn, thƣơng hàn ảnh hƣởng tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng. [14]
b. Ô nhiễm môi trường đất
Các chất thải hữu cơ phân hủy trong môi trƣờng đất trong hai điều kiện yếm
khí và háo khí khi có độ ẩm thích hợp để rồi qua hàng loạt sản phẩm trung gian cuối
cùng tạo ra H2O, CO2. Nếu là yếm khí, thì sản phẩm cuối cùng chủ yếu là CH4,
H2O, CO2, gây độc cho môi trƣờng. Với một lƣợng vừa phải thì khả năng tự làm
sạch của môi trƣờng đất khiến rác thải không trở thành ô nhiễm. Nhƣng với lƣợng
rác thải quá lớn thì môi trƣờng đất sẽ trở nên quá tải và bị ô nhiễm. Ô nhiễm này sẽ
cùng với ô nhiễm kim loại nặng, chất độc hại theo nƣớc trong đất chạy xuống mạch
nƣớc ngầm, làm ô nhiễm nƣớc ngầm. Khi nƣớc ngầm bị ô nhiễm thì khó có thể khôi
phục lại đƣợc.
Đặc biệt hiện nay, việc sử dụng tràn lan các loại túi nilon trong sinh hoạt và
đời sống, khi xâm nhập vào đất chúng tạo thành các “bức tƣờng ngăn cách” trong
14
đất, hạn chế mạnh đến quá trình phân hủy, tổng hợp các chất dinh dƣỡng, làm cho
đất giảm độ phì nhiêu, đất bị chua và năng suất cây trồng giảm sút [25].
c. Ô nhiễm môi trường không khí
Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và mƣa nhiều ở nƣớc ta là điều kiện thuận lợi cho
các thành phần hữu cơ trong rác thải phân huỷ, thúc đẩy nhanh quá trình lên men,
thối rữa và tạo nên mùi khó chịu cho con ngƣời. Các chất thải khí phát ra từ các quá
trình này thƣờng là H2S, NH3, CH4, SO2, CO2. Các CTRSH thƣờng có bộ phận có
thể bay hơi và mang theo mùi làm ô nhiễm không khí. Có những chất thải có khả
năng thăng hoa phát tán vào không khí gây ô nhiễm trực tiếp. Cũng có loại rác trong
điều kiện nhiệt độ và độ ẩm thích hợp (tốt nhất là 35oC và độ ẩm 70 = 80 %), sẽ có
quá trình biến đổi nhờ hoạt động của vi sinh vật. Kết quả của quá trình là gây ô
nhiễm không khí. Các bãi rác, nhất là các loại rác thải thực phẩm, nông phẩm, nếu
không đƣợc xử lý kịp thời và đúng kỹ thuật, sẽ bốc mùi hôi thối [25].
d. CTRSH gây hại cho sức khỏe cộng động
Trong thành phần CTRSH thông thƣờng, hàm lƣợng hữu cơ chiếm tỉ lệ lớn
dễ bị phân hủy, lên men, bốc mùi hôi thối gây ô nhiễm môi trƣờng không khí xung
quanh làm ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời và giảm mỹ quan môi trƣờng sống.
Những ngƣời tiếp xúc thƣờng xuyên với rác thải nhƣ những ngƣời làm trực tiếp
công việc thu nhặt các phế liệu từ bãi rác rất dễ mắc các bệnh nhƣ viêm phổi, sốt
rét, các bệnh về mắt, tai, mũi, họng và ngoài da, phụ khoa. Từ việc thải các chất thải
hữu cơ, xác chết động vật qua những trung gian truyền bệnh sẽ gây nên nhiều bệnh
tật, có thể trở thành dịch. Ví dụ điển hình nhất là dịch hạch thông qua môi trƣờng
trung gian là chuột gây nên cái chết cho hàng nghìn ngƣời vào những năm 30 – 40
của thế kỷ X. Ngƣời ta đã tổng kết rác thải gây ra 22 loại bệnh cho con ngƣời. Điển
hình là rác plastic (nilon) là nguyên nhân gây ra ung thƣ cho súc vật ăn cỏ. Hơn thế
nữa khi đốt plastic ở 1.200oC nó sẽ biến đổi thành dioxin gây quái thai ở ngƣời.
Theo tổ chức Y tế Thế giới WHO, trên thế giới mỗi năm có 5 triệu ngƣời
chết và có gần 40 triệu trẻ em mắc các bệnh có liên quan tới rác thải. Nhiều tài liệu
trong nƣớc và quốc tế cho thấy, những xác động vật khi bị thối rữa phát tán hơi có
15
chất amin và các chất dẫn xuất sufua hydro hình thành từ sự phân hủy rác thải kích
thích sự hô hấp của con ngƣời, kích thích nhịp tim đập mạnh gây ảnh hƣởng xấu tới
những ngƣời mắc bệnh tim mạch. [16]
Rác thải ảnh hƣởng tới môi trƣờng nhiều hay ít còn phụ thuộc vào nền kinh
tế của từng quốc gia, khả năng thu gom và xử lý rác thải, mức độ hiểu biết và trình
độ giác ngộ của mỗi ngƣời dân. Khi xã hội phát triển cao, rác thải không những
đƣợc hiểu là có ảnh hƣởng xấu tới môi trƣờng mà còn đƣợc hiểu là một nguồn
nguyên liệu mới có ích nếu chúng ta biết cách phân loại chúng, sử dụng theo từng
loại một cách hợp lý.
Hình 1. Ảnh hưởng của CTRSH đến môi trường và sức khoẻ con người
1.3. Các công nghệ thu hồi năng lƣợng từ chất thải rắn
Rác thải thành năng lƣợng (waste to energy - WTE) là quá trình xử lý
chuyển hóa rác thải thành năng lƣợng, dƣới dạng điện và/hoặc nhiệt bằng phƣơng
Nƣớc mặt
Bụi
CH4
NH3
H2S
VOC
Chất thải rắn sinh hoạt
- Sinh hoạt
- Thƣơng nghiệp
- Tái chế
Môi trƣờng không khí
Nƣớc ngầm
Ngƣời, động vật
Môi trƣờng đất
Qua
đƣờng
hô hấp
Kim loại nặng,
chất độc Ăn uống, tiếp xúc qua da
16
pháp đốt cháy, là một trong những công nghệ tái chế thu hồi năng lƣợng. Hầu hết
các quá trình WTE là sản xuất điện và nhiệt trực tiếp thông qua quá trình đốt cháy,
hoặc sản xuất một số nhiên liệu dễ cháy nhƣ mê-tan, ethanol, methanol, than sinh
học, hoặc nhiên liệu tổng hợp. Lò đốt rác chính thức ghi nhận sớm nhất đƣợc xây
dựng ở Mỹ năm 1885, sau đó là Na uy 1903, Tiếp Khắc 1905.
Đốt rác thu nhiệt là kỹ thuật thông dụng nhất. Ngoài ra còn có những công
nghệ WTE khác với đốt trực tiếp có tiềm năng sản xuất điện với hiệu suất cao hơn,
bằng cách chuyển hóa rác thải thành nhiên liệu, tách bỏ các thành phần ăn mòn và
tro, do đó cho phép sử dụng cho tuabin khí, động cơ đốt trong, pin nhiên liệu.
Chuyển hóa WTE là một giải pháp hoàn hảo bảo vệ trƣờng và sản xuất năng lƣợng
xanh, vì vậy luôn đƣợc quan tâm tập trung nghiên cứu và hoàn thiện.
Công nghệ biến CTR thành năng lƣợng biến đổi chất thải rắn thành các dạng
năng lƣợng dƣới các hình thức khác nhau nhƣ nhiệt, điện, nhiên liệu khí hoặc lỏng.
Điện có thể đƣợc sản xuất và nối vào lƣới điện địa phƣơng hay của quốc gia. Nhiệt
có thể đƣợc sử dụng cho các mục đích sƣởi ấm hoặc các quá trình nhiệt động lực
học khác. Một số loại nhiên liệu sinh học có thể đƣợc chiết xuất từ các thành phần
hữu cơ trong chất thải.
Bảng 1.2. Các công nghệ xử lý chất thải [13]
STT Công nghệ tổng quát
Công nghệ
riêng
Sản phẩm chính
1 Nhiệt hóa
Đốt Nhiệt
Khí hóa Khí tổng hợp
Nhiệt phân Dầu, than và khí tổng hợp
Plasma Khí tổng hợp
2 Sinh hóa
Phân hủy kỵ khí Khí metan
Lên men Ethanol
3 Cơ, sinh học Khí biogas và viên sinh khối
17
1.3.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng công nghệ thu hồi năng lƣợng từ
chất thải rắn ở các nƣớc trên thế giới
Trên thế giới, các công nghệ tái tạo năng lƣợng từ CTR đã đƣợc nhiều nƣớc
nghiên cứu và đƣa vào sản xuất trên quy mô thƣơng mại. Tại nhiều nƣớc nhƣ Đan
Mạch, Thụy Điển, Nhật BảnCTR không còn là vấn nạn môi trƣờng mà đƣợc xem
là nguồn tài nguyên. Mặc dù khủng hoảng kinh tế trong những năm gần đây, thị
trƣờng biến năng lƣợng thành chất thải vẫn tăng đáng kể. Từ năm 2008 đến 2012,
tăng trung bình hàng năm là 5 %. Trên toàn thế giới có 2.200 nhà máy thu hồi năng
lƣợng từ CTR bằng phƣơng pháp nhiệt với khả năng xử lý 225 triệu tấn CTR mỗi
năm và chủ yếu để xử lý CTR đô thị (World energy council, 2013) [29]. Hitachi
Zosen (Nhật Bản) là một trong những công ty đi đầu trong công nghệ nhiệt biến
CTR thành năng lƣợng. Công ty này đã và đang xây dựng và cung cấp công nghệ
cho 458 nhà máy trên toàn thế giới, trong đó có 197 nhà máy ở châu Âu, 23 nhà
máy ở Bắc Mỹ, 235 nhà máy ở châu Á, 3 nhà máy ở châu Úc.
Năm 2009, tại Đức có hơn 4.500 nhà máy điện biogas cấp trên 1.500 MW
hòa lƣới điện quốc gia, với quy mô trung bình 300 kW/nhà máy. Nhà máy xử lý
chất thải thành năng lƣợng RDF ở Malaysia, có thể xử lý 700 tấn rác thải/ngày và
có khả năng tạo ra 8 MW điện, trong đó 5,5 MW điện xuất dùng cho mạng lƣới điện
quốc gia. Với mô hình xử lý chất thải của nhà máy RDF, nếu kết hợp với việc khí
sinh học đƣợc sử dụng trong nồi hơi để tăng công suất thì mạng lƣới điện của
Malaysia sẽ có khoảng 150 MW điện một năm.
Khí sinh học thu đƣợc từ quá trình ủ kỵ khí cũng đƣợc áp dụng rộng rãi trên
thế giới, vừa để tạo phụ phẩm khí sinh học làm phân bón, vừa tạo năng lƣợng. Tại
hội nghị quốc tế diễn ra tại Montreal Canada năm 2010, các nhà khoa học đã kêu
gọi phát triển các nguồn nhiên liệu sinh học từ rác thải thay vì sử dụng ngũ cốc
nhằm đảm bảo an ninh năng lƣợng, lƣơng thực và giảm các phế liệu chƣa tái chế.
Công nghệ sản xuất nhiên liệu sinh học từ CTR nông nghiệp, CTR sinh hoạt thuộc
thế hệ thứ hai đã đƣợc nhiều nƣớc ủng hộ. Khí sinh học đƣợc sử dụng để sinh nhiệt
bằng cách đốt cháy, sản xuất điện bằng các pin năng lƣợng hoặc động cơ phát điện,
18
sản xuất nhiệt - điện kết hợp, làm nhiên liệu cho phƣơng tiện giao thông. Hiện nay,
các nƣớc trên thế giới tạo ra khoảng 5,1 tỷ tấn chất thải rắn nông nghiệp mỗi năm,
có khả năng cung cấp 75 EJ, tƣơng đƣơng với 15 % nhu cầu năng lƣợng trên thế
giới. Các nƣớc Đức, Đan Mạch, Thụy Điển, Thụy Sỹ đã chế tạo ra các phƣơng tiện
giao thông chạy bằng khí metan sinh học. Đức đƣợc xem là nƣớc đi đầu trong phát
triển các nhà máy điện biogas. Ở Thụy Điển, 44% KSH sản xuất đƣợc sử dụng làm
nhiên liệu xe cộ. Các loại xe có thể chạy hoàn toàn bằng động cơ metan sinh học
hoặc động cơ kết hợp với nhiêu liệu khác. Rất nhiều ô tô cá nhân chạy bằng KSH là
xe đƣợc chuyển đổi. Loại xe này đƣợc trang bị thêm một bồn chứa khí nén trong
khoang hành lý, và hệ thống cấp khí, bên cạnh hệ thống nhiên liệu thông thƣờng
(Teodorita Al Seadi, 2008). [28]
Năm 2012, các nhà nghiên cứu của phòng thí nghiệm quốc gia Argonne
(ANL), thuộc Bộ Năng lƣợng Mỹ, đã tạo ra một thiết bị đƣợc gọi là lò phản ứng
năng lƣợng sinh học bền (EBR), có thể sản xuất tại chỗ năng lƣợng sinh học từ chất
thải nhà bếp và nhà vệ sinh. Loại nhiên liệu nói trên có thể đƣợc cấp trực tiếp cho
các động cơ và máy phát điện mà không cần bất kỳ quá trình tinh chế nào. Theo các
nhà nghiên cứu, EBR có thể sản xuất từ 94,6 - 189,2 lít nhiên liệu sinh học/ngày từ
chất thải hoặc vật liệu xenlulo đã qua xử lý. Công nghệ này dựa trên các vi khuẩn
quang hợp thông qua việc kết hợp các enzyme thực vật với một hệ thống chiếu sáng
hiệu quả mà có nhiều trong những tế bào đó. Những phản ứng từ sự kết hợp của các
enzym và vi khuẩn sẽ tạo ra các phân tử nhiên liệu, sau đó đẩy chúng vào một môi
trƣờng để cô lập và tách ra khỏi dung dịch lên men. Loại nhiên liệu đƣợc tạo ra ở
công đoạn cuối cùng sẽ không cần tinh chế và có thể sử dụng thay thế dầu diesel để
chạy động cơ và máy phát điện. Với tính dễ vận chuyển và lắp đắp, EBR rất lý
tƣởng, để phục vụ quân đội và các hoạt động nhân đạo tại các khu vực hẻo lánh.
Theo ƣớc tính, một EBR có thể cung cấp nhiên liệu cho một máy phát điện có khả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 01050003427_1_5689_2002722.pdf