MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG HẬU QUẢ PHÁP LÝ VỀ QUAN HỆ
TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN
8
1.1. Một số khái niệm chung 8
1.1.1. Khái niệm ly hôn 8
1.1.2. Khái niệm hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng
khi ly hôn
10
1.2. Đặc điểm của hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ
chồng khi ly hôn
10
1.3. Ý nghĩa của các quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài
sản giữa vợ chồng khi ly hôn
11
1.4. Khái quát hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng
khi ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
13
1.4.1. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
trong cổ luật Việt Nam
13
1.4.2. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
thời kì Pháp thuộc (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945)
15
1.4.3. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn ở
miền Nam nước ta giai đoạn 1954 - 1975
16
1.4.4. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1945
đến nay
103 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 65 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo luật hôn nhân gia đình năm 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất không có khả
năng thanh toán hoặc cố tình không thanh toán cho bên kia giá trị quyền sử
dụng đất mà họ được hưởng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Vì
51
vậy, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để TAND các cấp có
thể thống nhất về đường lối giải quyết trong trường hợp này nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng của các bên.
2.1.3.2. Chia tài sản của vợ chồng khi vợ chồng sống chung với gia đình
Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
1. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà
ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia
đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần
trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp
của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung
cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần
trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà
tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể
xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng
được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia [32].
Trong thực tế đời sống xã hội, sau khi kết hôn, nhiều đôi vợ chồng
cùng sống chung với gia đình cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ. Một mặt, đây là
phong tục tập quán của một số vùng miền, một mặt việc sống chung này tạo
điều kiện để con cháu được chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ và ông
bà, cha mẹ cũng có điều kiện giúp đỡ con cháu. Điều này là phù hợp với
truyền thống đùm bọc, đoàn kết của gia đình Việt Nam. Quá trình sống chung
cùng gia đình, nhiều cặp vợ chồng đã có công sức tạo lập, đóng góp làm phát
triển khối tài sản cho gia đình. Khi ly hôn, họ có quyền yêu cầu được xem xét
và chia một phần tài sản từ công sức mình đóng góp. Trường hợp vợ chồng
thỏa thuận được với nhau và với gia đình nhà chồng hoặc nhà vợ thì tài sản
của vợ chồng sẽ được chia theo thỏa thuận đó. Trường hợp không thỏa thuận
52
được, vợ, chồng hoặc gia đình có quyền yêu cầu tòa án giải quyết. Chia tài
sản vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình, tòa án cần xem xét thật kỹ
những vấn đề sau:
Nếu hai vợ chồng thuộc trường hợp mới kết hôn, và mới chung sống
với gia đình một thời gian ngắn, phần tài sản chung của vợ chồng chưa có gì
đáng kể, công sức đóng góp của vợ chồng vào gia đình chung chưa nhiều đối
với việc phát triển tài sản của gia đình chung thì vợ chồng ly hôn, cách giải
quyết mà tòa án thường áp dụng là tài sản của ai vẫn thuộc về người đấy và
không chia tài sản chung của gia đình.
Ngược lại, nếu hai vợ chồng đã có quá trình chung sống lâu dài, đóng
góp to lớn cho việc tạo lập, phát triển và tăng giá trị cho tài sản chung của gia
đình thì khi có yêu cầu ly hôn và chia tài sản chung của gia đình, tòa án xem
xét trích một phần giá trị tài sản chung của gia đình cho các bên vợ chồng trên
cơ sở đóng góp của họ.
Nói tóm lại, khi giải quyết vấn đề ly hôn Tòa án cần áp dụng đúng đắn
các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên và lợi ích hợp pháp của người khác. Quy định của pháp luật như vậy, tuy
nhiên, thực tiễn thực hiện, các tòa gặp vô vàn khó khăn vướng mắc. Xác định
được phần đóng góp của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình
không phải lúc nào cũng dễ dàng. Nhưng ngay cả khi xác định được phần tài
sản đó rồi, việc thi hành trên thực tế cũng gặp nhiều vướng mắc. Chia như thế
nào? Giá trị phần đóng góp tính ra bằng tiền rồi nhưng nếu gia đình không có
điều kiện thanh toán cho vợ chồng thì phần đóng góp đó xử lý ra sao? Vợ
chồng muốn bán tài sản chung gia đình để phân chia phần đóng góp nhưng
không được các thành viên khác đồng ý thì giải quyết như thế nào? Thực tế áp
dụng pháp luật trong trường hợp này vẫn còn rất nhiều vấn đề đang để ngỏ và
được xử lý phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của thẩm phán thụ lý giải
quyết vụ việc.
53
Có thể nói, các quy định của pháp luật HN&GĐ năm 2000 về việc
phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tương đối đầy đủ và cụ thể.
Các quy định này tạo cở sở pháp lý vững chắc để giải quyết các tranh chấp về
quan hệ tài sản phát sinh khi vợ chồng ly hôn, bảo vệ quyền lợi chính đáng
của các bên và các thành viên trong gia đình, hạn chế thấp nhất những tiêu
cực xảy ra góp phần ổn định các quan hệ xã hội.
2.1.3.3. Xác định nghĩa vụ tài sản của vợ chồng khi ly hôn
Về nguyên tắc, khi vợ chồng ly hôn, "Tài sản riêng của bên nào vẫn
thuộc quyền sở hữu của bên đó" [32, Điều 95]. Như vậy, khi ly hôn, tài sản
riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó và bên đó có quyền lấy
về. Tuy nhiên, người có tài sản riêng phải chứng minh tài sản đó thuộc quyền
sở hữu riêng của mình dựa trên cơ sở các quy định về tài sản riêng tại Điều 32
Luật HN&GĐ năm 2000 hoặc thông qua sự thừa nhận của bên kia (thỏa thuận),
Văn bản khước từ hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu của vợ chồng
như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, di chúc, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Nếu người có tài sản riêng
không chứng minh được đó là tài sản riêng của mình thì xác định đó là tài sản
chung của vợ chồng để chia [32, Điều 27].
Trường hợp, vợ chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản
chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng đã chi dùng cho gia đình mà không còn
nữa thì người có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc đòi đền bù. Khi ly
hôn, những tài sản đó được xác định là tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ
chồng để chia. Riêng đối với tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên đã được
tu sửa bằng tài sản chung làm tăng giá trị tài sản lên nhiều lần thì khi ly hôn
Tòa án cần xác định phần giá trị tăng lên để nhập vào tài sản chung để chia.
Các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định khi chia
tài sản là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng mà có tranh chấp, cần lưu ý đã
có sự trộn lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài sản riêng trong quá trình
54
sử dụng ở thời kỳ hôn nhân. Trường hợp tài sản riêng của một bên được tu
sửa bằng tài sản chung làm tăng giá trị lên nhiều lần thì khi có yêu cầu Tòa án
cũng cần xem xét giá trị phần tăng lên và có sự phân chia hợp lý.
Đối với những đồ trang sức mà vợ, chồng được cha mẹ vợ hoặc cha
mẹ chồng tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng, nhưng nếu những
thứ đó được cha mẹ cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ
chồng một số vốn nhất định thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Khi ly
hôn, Tòa án áp dụng chia theo nguyên tắc chia tài sản chung, nếu bố mẹ cho
riêng thì là tài sản riêng. Tuy nhiên, vấn đề cho chung hay cho riêng trên thực
tế là rất khó xác định. Đặt trong hoàn cảnh cha mẹ cho tài sản là khi đám cưới
diễn ra, việc cho tặng luôn bằng miệng và không có bất cứ một văn bản nào
ghi nhận, mà chỉ có sự chứng kiến của quan viên hai họ. Tuy nhiên, sự chứng
kiến ấy cũng chỉ xảy ra trong giây lát, tính đến thời điểm diễn ra sự kiện ly
hôn thường là rất lâu sau đó, rất ít người có khả năng nhớ được và cũng rất ít
khi bên được tặng cho thừa nhận những tài sản này là tài sản cho chung khi có
tranh chấp xảy ra. Và rất khó để chúng ta xác định được đâu là cho riêng, đâu
là cho chung?
Trường hợp với nghĩa vụ dân sự riêng mà người vợ hoặc người chồng
đã vay mượn tiền hoặc tài sản của người khác để chi dùng cho nhu cầu, mục
đích riêng của mình thì họ phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng của
mình [32, khoản 3 Điều 33]. Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ để
thanh toán thì phải thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong khối tài
sản chung của vợ chồng hoặc vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau để thanh
toán bằng tài sản chung của vợ chồng.
Thực tế hiện nay, khi ly hôn, vợ chồng thường có tranh chấp gay gắt
về tài sản. Việc xác định tài sản đang có tranh chấp là tài sản chung hay tài sản
riêng để chia hiện nay gặp rất nhiều khó khăn và phức tạp. Vì tài sản đã được sử
dụng trong thời kỳ hôn nhân đã qua nhiều năm hoặc đã qua nhiều lần luân
55
chuyển, biến đổi hoặc có sự trộn lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài sản
riêng, hoặc tài sản mua được từ thu nhập do lao động của mình nhưng họ lại nói
rằng tài sản đó họ mua được là do bố, mẹ, anh, chị, em tặng cho riêng một khoản
tiền, nhất là đối với những tài sản có giá trị như: quyền sử dụng đất, nhà ở, ô
tô, xe máy, Vì thế, Tòa án gặp rất nhiều khó khăn khi giải quyết các tranh
chấp liên quan đến việc xác định đâu là tài sản riêng, tài sản chung của vợ
chồng. Để xác định một cách chính xác tài sản đó là tài sản chung hay tài sản
riêng của một bên, Tòa án phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ, căn cứ
vào tình hình thực tế hoặc thu nhập thực tế của mỗi bên. Có như vậy mới giải
quyết thấu tình, đạt lý các tranh chấp phát sinh, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng về tài sản của vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình.
Thông qua việc phân tích đánh giá về hậu quả pháp lý quan hệ tài sản
giữa vợ chồng khi ly hôn, có thể thấy: Mặc dù pháp luật quy định nguyên tắc
tài sản riêng của ai thì thuộc về người đấy, tài sản chung chia đôi có xét đến
công sức đóng góp của vợ chồng song thực tế áp dụng pháp luật vẫn cho thấy,
pháp luật HN&GĐ chưa dự liệu hết một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc quy định chia tài sản do các bên thỏa thuận [32, Điều 95]
đã thực sự hợp lý chưa. Nếu như vấn đề tài sản chung và tài sản riêng chỉ là
vấn đề nội bộ giữa hai vợ chồng đầy đủ năng lực hành vi thì có thể thấy quy
định này là phù hợp. Tuy nhiên, quan hệ HN&GĐ luôn tồn tại song song với
quan hệ của xã hội, quyền lợi của người thứ ba luôn đồng hành cùng quyền
lợi của vợ chồng. Trường hợp, việc thỏa thuận trên nếu vi phạm quyền lợi của
bên thứ ba hoặc vi phạm quyền lợi của con cái thì được xử lý như thế nào?
Giả sử, để đạt được việc ly hôn, người vợ mong muốn được nuôi con nên
đồng ý với yêu cầu của người chồng, công nhận toàn bộ tài sản của hai vợ
chồng hiện nay là tài sản riêng của người chồng. Điều này đồng nghĩa với
việc khi người con về ở với mẹ là quyền lợi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Thỏa
thuận giữa vợ chồng trong trường hợp này được coi là vi phạm nghiêm trọng
56
đến quyền lợi của người con. Vậy, pháp luật có cho phép? Hoặc giả, nếu hai
bên vợ chồng thống nhất nhằm mục đích tẩu tán tài sản thì cơ chế nào để tòa
án giải quyết? Nhất là sau khi người thứ ba có quyền lợi liên quan không hay
biết về việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn và khi biết được thì tài sản đã
chuyển hóa qua rất nhiều chủ thể, việc bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
cho họ là vô cùng khó khăn.
Thứ hai, quá trình chung sống giữa hai vợ chồng, việc cùng nhau sử
dụng cả tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng có khả năng dẫn đến tài
sản bị trộn lẫn, chuyển hóa từ riêng sang chung. Vậy, căn cứ nào để xác định
tài sản chung và tài sản riêng làm căn cứ để chia tài sản? Nếu quá trình chung
sống có việc một bên dùng tài sản chung vợ chồng làm tăng giá trị của tài sản
riêng thì sẽ được xem xét chia một phần giá trị tăng lên của tài sản. Quy định
nghe qua tưởng chừng rất hợp lý nhưng đi vào thực tiễn có thể thấy, quá trình
gia tăng giá trị tài sản rất khó để chứng minh, vậy làm cách nào để có thể bảo
vệ được quyền lợi của bên không có tài sản?
Nói tóm lại, vấn đề chia tài sản chung giữa vợ và chồng khi ly hôn là
vấn đề cốt lõi trong hệ thống các vấn đề về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản
giữa vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000. Đây cũng là vấn đề
được Luật HN&GĐ năm 2000 dành nhiều quy định và cũng có rất nhiều văn
bản hướng dẫn thi hành. Bởi lẽ, đây là vấn đề được vợ chồng quan tâm hàng
đầu khi ly hôn và cũng là vấn đề gây ra nhiều tranh chấp nhất giữa vợ và
chồng khi ly hôn. Nhìn chung, các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 nói
riêng và pháp luật HN&GĐ nói riêng quy định về vấn đề này khá cụ thể, tuy
nhiên, do bản chất phức tạp của quan hệ này, các nhà làm luật vẫn đang tiếp
tục hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật theo định hướng minh
bạch hóa tài sản giữa vợ và chồng mà vẫn đảm bảo tài sản chung để phục vụ
lợi ích của gia đình. Mong muốn ấy đã được các nhà làm luật hôn HN&GĐ
thể hiện trong Luật HN&GĐ năm 2014. Điều 147 Luật HN&GĐ năm 2014 là
57
một bước tiến vượt bậc của các nhà làm luật khi quy định về chế độ tài sản vợ
chồng: "Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa
thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn
bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn". Bản chất của dân sự là tự do
thỏa thuận. Xét về một khía cạnh nào đó, quan hệ HN&GĐ cũng là quan hệ
dân sự, do vậy, để vợ chồng tự do thỏa thuận về chế độ tài sản là điều hợp lý.
Về mặt thực tiễn, quy định này giúp vợ chồng minh bạch hóa tài sản ngay từ
lúc kết hôn, tránh việc kết hôn vì mục đích kinh tế và cũng phần nào giảm thiểu
gánh nặng cho tòa án cũng như các bên đương sự phải chứng minh tài sản
chung, riêng khi ly hôn. Quy định về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận là
một điểm mới tiêu biểu trong Luật HN&GĐ năm 2014. Ngoài ra, khi quy định
về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn, Luật HN&GĐ
năm 2014 cũng có một số quy định mới về quyền lưu cư [38, Điều 63], giải
quyết quyền và nghĩa vụ của người thứ ba khi ly hôn [38, Điều 60], việc chia
tài sản chung vợ chồng khi ly hôn có tính đến yếu tố „Lỗi" của mỗi bên trong
vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng [38, Điều 59]. Những đổi mới này góp
phần khắc phục cơ bản những hạn chế về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản
giữa vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000.
2.2. CẤP DƯỠNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN
Theo quy định tại Khoản 11 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 thì:
Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền
hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không
sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc
nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là
người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn túng thiếu theo quy
định của luật này [32, Điều 8].
58
Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng đã từng được quy định trong Luật
HN&GĐ năm 1959 (Điều 30) và Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 43). Hai luật
này đều quy định giống nhau:
Khi ly hôn, nếu một bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng, thì
bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình. Khoản cấp dưỡng
và thời gian cấp dưỡng sẽ do hai bên thỏa thuận; trường hợp hai bên
không thỏa thuận với nhau được thì Tòa án nhân dân sẽ quyết định.
Khi người được cấp dưỡng lấy vợ, lấy chồng khác thì không được
cấp dưỡng nữa [27, Điều 30], [29, Điều 43].
Tiếp nối quy định trên và tiếp tục ghi nhận truyền thống
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_hau_qua_phap_ly_ve_quan_he_tai_san_giua_vo_chong_kh.pdf