Luận văn Hiện tượng song đề trong chân dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1: JAMES JOYCE VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHƯƠNG HƯỚNG

KHẢO SÁT. 20

1.1. James Joyce và hiện tượng song đề. 20

1.1.1. Giới thuyết thuật ngữ song đề. 20

1.1.2. Cội nguồn của hiện tượng song đề trong phong cách sáng tác của

James Joyce. 31

1.2. James Joyce và Jacques Lacan . 35

1.2.1. Phân tâm học cấu trúc của Jacques Lacan. 35

1.2.2. Phương cách nghiên cứu song đề trong Chân dung một nghệ sĩ trẻ

của James Joyce dưới ánh sáng phân tâm học Lacan. 41

Chương 2: CÁI THỰC VÀ SONG ĐỀ TRỰC GIÁC . 46

2.1. Cái Thực theo quan niệm của Jacques Lacan. 46

2.2. Song đề trực giác từ sự quy chiếu của cái Thực. 49

2.2.1. Song đề trực giác từ giác quan. 51

2.2.2. Hòa giải song đề trực giác. 66

Chương 3: CÁI TƯỞNG TƯỢNG VÀ SONG ĐỀ BẢN THỂ . 77

3.1. Cái tưởng tượng theo quan niệm của Jacques Lacan . 77

3.2. Song đề bản thể từ sự quy chiếu của cái Tưởng tượng . 82

3.2.1. Chủ thể và cái Khác . 85

3.2.2. Cái tôi và cái Khác như là tôi. 98

pdf165 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 622 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hiện tượng song đề trong chân dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng hòa giải của sự định danh, vì thế giới của cha Dolan hay của cô Dante (cô Dante đi đến tận cùng đối nghịch khi loại bỏ bàn chải màu xanh đại diện cho Parnell) đầy những mâu thuẫn, bạo loạn, bất an, phủ nhận sự tồn tại của chức năng định danh như là phương cách hòa giải (đó là dự báo của một thế giới thực tại mà Stephen sẽ rơi vào khi rời bỏ thế giới cái Thực, ở giai đoạn phát triển thứ hai). Thế nên cả cha Dolan và cô Dante đều là những người khơi mào cho xung đột xảy đến. Trong khi thầy hiệu trưởng lại nhớ tên cậu bé dù Stephen chưa hề xưng danh trước đó: người nhớ tên Stephen tức đã công nhận khả năng hòa giải của tên cậu bé, nên Stephen đã được thầy hiệu trưởng “giải oan” từ sự gán tội của cha Dolan – người không nhớ tên cậu. Đó là một dẫn chứng minh xác cho nỗ lực viện dẫn tên làm thành phương cách hòa giải những song đề trực giác của Stephen. Phương cách trò chơi Nếu phương cách định danh giữ chức năng hòa giải song đề nổi lên từ thế giới bên ngoài và bên trong, cái Thực và thực tại, thì phương cách trò chơi có khả năng biến tính chất bất khả của song đề dưới sự chi phối của cái Thực thành ra khả thể. Có thể làm được như vậy vì, trò chơi là một cách “đối đáp” của con người lại hiện thực xã hội. Theo Freud, trò chơi là để “tìm cách thỏa mãn một xu hướng thống trị” và “biến đổi sự thụ động ra hành vi chủ động” [61]. Trong trò chơi, con người có toàn quyền định đoạt diễn biến, thời gian, sự kiện và chính mình với tư cách là người chơi. Trò chơi cũng giúp cho người chơi thực hiện những ước muốn vốn nằm trong thế tiềm năng hoặc 72 không thể đạt đến trong đời sống, vì khi thất bại trong cuộc chơi, người chơi có thể chơi lại cho đến khi đạt được mục đích. Vì thế, khả năng của trò chơi là tái diễn và đồng nhất: tái diễn sự kiện theo ý muốn của người chơi và đồng nhất thế tiềm năng với khả năng, hiện thực với ngụy tạo để hướng đến mục đích là làm cho cái bất khả thành ra khả thể. Do đó, trò chơi được xem như một phương cách để Stephen hòa giải song đề giữa cái Thực và thực tại bằng cách đồng nhất hóa chúng. “Trò chơi” hiện ra ở phương diện bề mặt là những trò đùa theo nghĩa đen: đó là trò chơi biến đổi nghĩa hiện thực trong những cái biểu đạt như những chữ viết trong buồng tắm của trường: Đằng sau một cánh cửa buồng tắm có hình vẽ một người đàn ông có râu mặc đồ La Mã, tay cầm gạch với lời đề: “Balbus đang xây một bức tường” [26, 72], trong một buồng tắm khác là dòng chữ “Julius Caesar đã viết The Calico Belly” [88, 50]1. Tính chất trò chơi thể hiện ở chỗ: Balbus2 được vẽ thêm bộ râu trên khuôn mặt: “Ai đó đã vẽ hình này ở đây để làm trò đùa. Gương mặt trong hình vẽ trông buồn cười nhưng giống một người đàn ông có râu” [26, 72], còn dòng chữ “The Calico Belly” thực ra là biến âm và đảo vần của De Bello Gallico – tên một tác phẩm do hoàng đế Caesar viết về cuộc chiến tranh Gallic. Tất cả “trò đùa” này nhằm diễn đạt tính hư ngụy của cái biểu đạt: hình vẽ, chữ viết vì chúng có thể bị bóp méo, bị xuyên tạc so với “bản gốc” – những cái được biểu đạt, tức những vật thật. Đó cũng là lí do vì sao khi trong giờ tập viết chính tả, Stephen “đã cố gắng đánh vần đầu bài [] Nhưng những dòng chữ như những sợi 1 Bản dịch Tiếng Việt dịch dòng “Julius Caesar wrote The Calico Belly” (theo văn bản gốc) là “Julius Caesar đã viết những lời bình luận trên những bức tường của Pháp” [26, 72]. Chúng tôi dịch sát theo bản gốc vì có cách lí giải khác. 2 Marcus Nonius Balbus là một quan trấn thủ tỉnh Herculaneum sống vào khoảng những năm 30 trước Công Nguyên. Ở đây có rất nhiều những bức tượng điêu khắc ông, như một cách tôn vinh cho người bảo trợ và xây dựng thành phố. Một trong những bức tượng nổi tiếng đó được tìm thấy gần những nhà tắm ngoại ô Herculaneum, với khuôn mặt nhẵn nhụi [chúng tôi nhấn mạnh], mặc đồ La Mã, một tay giơ cao. (Chú thích của chúng tôi) 73 dây vô hình và chỉ bằng cách nhắm mắt phải thật chặt và mở mắt trái nó mới có thể tạo ra được những đường cong của những chữ cái viết hoa” [26, 76]. Đó giống như một thái độ “từ chối” nghĩa biểu đạt của chữ. Từ chối sự biểu đạt cũng có nghĩa là từ chối mọi quy ước mà thực tại tạo ra. Các quy ước là “luật” nhằm phân cách giữa cái Thực và thực tại, phá bỏ quy ước mang ý nghĩa đồng nhất hai thế giới lại với nhau (“phá bỏ quy ước” cũng chính là điều mà năm thằng bé đã làm với tội danh: tình dục đồng giới ngay tại nhà tắm có những hình vẽ và dòng chữ mang tính “trò chơi” ấy – điều này cũng lí giải câu hỏi của Stephen: vì sao tội mà năm thằng bé phạm phải lại diễn ra ở đây). Dù chỉ xuất hiện như một tín hiệu rất nhỏ, nhưng đó là mầm mống cho cuộc “vượt thoát” sau này của Stephen khi trò chơi biến đổi nghĩa biểu đạt này hiển lộ thành những dòng nhật kí kết thúc tác phẩm (sẽ phân tích ở chương 4). Đồng nhất không chỉ bằng con đường phá bỏ quy ước mà cái biểu đạt tạo ra, trò chơi đồng nhất thực ra đã được báo trước ngay đầu tác phẩm, giữa hiện thực và huyền thoại: “Ngày xửa ngày xưa vào một thời rất tươi đẹp, có một con bò cái đi xuôi xuống con đường dài, đang đi thì nó gặp một cậu bé xinh đẹp tên là bé Tuckoo [] Cậu bé là bé Tuckoo” [26, 13]. Huyền thoại Ireland có kể về những con bò thần mang trẻ con tới một hòn đảo nơi chúng được trút bỏ mọi giam hãm và sự lệ thuộc của tuổi ấu thơ và rèn luyện phép thuật để trở thành những người anh hùng trước khi trở lại với cha mẹ và cộng đồng. Trong cuốn Book of Invasions (Quyển sách về những cuộc xâm lăng – [120]), cuốn sách có thể xem là lịch sử buổi ban đầu hình thành dân tộc và đất nước Ireland, đầy rẫy những tình tiết hiện thực xen lẫn hoang đường như thế. Lịch sử ở đây đã được trộn lẫn với Kinh thánh và huyền thoại Hy Lạp, La Mã. Đó cũng là phương cách mà Stephen đã sử dụng khi “kể” về quãng đời thơ ấu của mình – một hiện thực pha lẫn yếu tố huyền thoại cổ xưa – trong đó 74 Stephen, với biệt danh là cậu bé Tuckoo, giữ vai chính trong cuốn sách huyền thoại-sử mà cậu “viết” nên. “Once upon a time” (ngày xửa ngày xưa) – mấy chữ quen thuộc mào đầu cho những câu chuyện cổ tích, thần thoại – đã biến toàn bộ những tình tiết xảy ra sau đó thành lời kể chuyện, và quan trọng hơn, thành một hiện thực ảo hóa. Trò chơi kể chuyện này của Stephen vô tình trở thành phương cách đồng nhất thực tại – cuộc đời hiện hữu – và cái Thực – huyền thoại bất khả – lại với nhau, nó giải thích được tất cả những điều khó hiểu, những câu hỏi không lời đáp, những cảm giác cảm nhận bằng trực giác trái với cảm nhận thông thường nói cách khác, nó hòa giải được mọi vấn đề thuộc về song đề trực giác. Phương cách định danh và phương cách trò chơi là thái độ ứng xử của Stephen nhằm hòa giải hiện tượng song đề nổi lên từ sự cảm nhận trực giác, tựu trung là song đề giữa thế giới bên ngoài và bên trong, cái Thực và thực tại. Qua đó, còn cho thấy những dự báo cho sự phát triển tâm hồn, tính cách về sau của Stephen: nỗ lực bước đầu trong sự khẳng định, hoàn thiện chính mình (bằng sự định danh) và ham muốn vượt thoát khỏi những ràng buộc theo lề thói (theo tính chất của trò chơi). 75 Tiểu kết chương 2 Từ tìm hiểu nội hàm cái Thực trong học thuyết Lacan, chúng tôi sử dụng cách hiểu cái Thực như một tồn tại bên trong, là trạng thái vẹn nguyên của chủ thể, đồng nhất với sự thuần nhất của tự nhiên, nằm ngoài ý thức và ngôn ngữ, để vận dụng vào phân tích hiện tượng song đề trong giai đoạn phát triển tâm hồn ban đầu của cậu bé Stephen, thuộc phần một tác phẩm. Đó là những song đề trực giác từ các giác quan cảm giác thị giác, xúc giác, khứu giác, thính giác. Những song đề ấy đều chịu sự chi phối của nội hàm cái Thực nên vấn đề đặt ra của nó đều xoay quanh quan hệ đối lập và tương chiếu giữa thế giới bản nguyên trong tâm hồn Stephen (thế giới cái Thực) và thế giới hiện thực bên ngoài chịu sự chi phối của các quy ước xã hội như gia đình, nhà thờ và trường học. Nhưng Stephen không dừng lại ở sự phân vân chọn lựa những song đề này, mà nhân vật nỗ lực hòa giải chúng bằng phương cách định danh và phương cách trò chơi. Tiến trình đi từ phát hiện song đề đến hòa giải song đề là tiến trình phát triển tất yếu của bản thể con người. Nhân loại được sinh ra như một tờ giấy trắng (bản nguyên vô thức), khi có sự va chạm với cuộc đời (song đề xuất hiện) thì mới nảy sinh những vấn đề liên quan đến sự tồn tại của chủ thể. Chủ thể muốn tự viết những dòng chữ đầu tiên trên “tờ căn cước” hình thành nhân cách của mình thì phải bước qua những song đề này để đạt đến giai đoạn phát triển cao hơn. Một tiến trình phát triển như thế rất giống mô hình biện chứng của Hegel (chính đề - phản đề - hợp đề), nhưng khác nhau về tính chất bên trong: song đề không phải là mâu thuẫn để có thể phá vỡ đi lên rồi lại tiếp tục hình thành mâu thuẫn khác và lại phá vỡ đi lên, theo hình xoắn ốc; ở đây sự phát triển của chủ thể dựa trên nguyên tắc tạo lập và hòa giải song đề nhưng những vấn đề song đề đặt ra không hề mất đi, không bị hóa giải triệt để, mà 76 vẫn tiếp tục lặp lại y như thế, chỉ có phức tạp hơn do chủ thể đã phát triển nhận thức hơn. Từ những điều này sẽ cho thấy mọi giai đoạn phát triển đều là quá trình tái diễn lại song đề mang tính chất giống nhau, chỉ khác ở sự chi phối khác nhau của các cấp độ: cái Thực, cái Tưởng tượng, cái Biểu tượng. Do đó, sự hòa giải song đề trực giác bằng các phương cách khác nhau là tín hiệu dự báo cho sự phát triển tất yếu của giai đoạn tiếp theo của chủ thể: cái Thực dần tan vỡ, chủ thể tách rời thế giới bản nguyên – thế giới của trực giác – để nhường chỗ cho sự định hình bản thể ở cái Tưởng tượng. Đó cũng tương tự như quá trình phát triển của nhân loại thời hiện đại: khi luồng gió thời đại mới thổi đến, nhân loại tự cảm nghiệm sự tồn tại bằng cái nhìn của một đứa bé; luồng gió ấy sẽ thâm nhập vào từng ngóc ngách tâm hồn để thổi bùng những vấn đề về triết lí nhân sinh, và câu hỏi tiếp theo sẽ là: cái gì làm nên sự tồn tại? 77 Chương 3: CÁI TƯỞNG TƯỢNG VÀ SONG ĐỀ BẢN THỂ 3.1. Cái Tưởng tượng theo quan niệm của Jacques Lacan Cái Tưởng tượng (the Imaginary) nằm ở vị trí thứ hai trong cấu trúc tinh thần, sau cái Thực. Nếu cái Thực là bản nguyên, một tồn tại hoàn hảo bên trong tâm hồn con người và chỉ cảm nhận được rõ khi con người chưa hình thành ý thức và ngôn ngữ, thì cái Tưởng tượng gắn liền với sự hình thành bản thể con người như là một tồn tại cá biệt. Đó là khi chủ thể từ trạng thái nguyên sơ của cảm xúc, trực giác trong nhận thức thực tại (trong cái Thực) chuyển sang nhận thức chính mình như một tồn tại trong thực tại ấy trước khi tiếp cận với xã hội bằng một ý thức độc lập và khả năng ngôn ngữ hoàn bị (trong cái Biểu tượng). Do đó, Lacan đã đặc biệt nhấn mạnh vào tầm quan trọng của giai đoạn này trong phân tích cấu trúc tâm thần của con người, thông qua bài viết “The Mirror Stage as Formative of the Function of the I as Revealed in Psychoanalytic Experience” – được xem là đóng góp đầu tiên của Lacan cho ngành phân tâm học. Từ bài viết ấy, nhiều khái niệm mới được đặt ra và trở thành những chìa khóa quan trọng khi nghiên cứu về cấp độ này, như giai đoạn gương (mirror stage), hình ảnh phản chiếu (specular image), sự thiếu (lack) Theo cách hiểu thông thường, tưởng tượng là hoạt động nội tại làm nảy sinh ảo tưởng, tức những hình ảnh không thực thông qua thị giác hoặc xuất hiện trong tâm trí. Trong phân tâm học Lacan, hệ quả của cái Tưởng tượng cũng xoay quanh sự sản sinh những điều nằm bên ngoài thực tại, nhưng cơ chế hoạt động của nó lại khá phức tạp, bắt đầu từ giai đoạn gương. Giai đoạn gương là một cách nói hình tượng của Lacan chỉ khả năng tưởng tượng phát sinh trong chủ thể khi chủ thể bắt đầu nhận diện chính mình: Giống như một đứa bé sơ sinh (từ 6 đến 18 tháng tuổi) khi phát hiện thấy tấm gương, nó nhìn vào và bắt gặp hình ảnh của chính nó, nhưng nó không nhận biết ngay đấy là 78 nó, nó phải trải qua những “thử nghiệm” bằng hành động để đi tới sự đồng nhất hình ảnh trong gương – sự phản chiếu – và chính nó – một tồn tại thực. Giai đoạn gương được hình thành từ mối quan hệ song đôi này, giữa chủ thể và hình ảnh phản chiếu. Hình ảnh phản chiếu ấy được tạo nên từ sự “soi ngắm” – phóng chiếu chính bản thân mình vào một tấm gương. “Tấm gương” ấy có thể là chính bản thân chủ thể, cũng có thể là một đối tượng khác bên ngoài chủ thể nhưng đối tượng ấy giúp chủ thể “nhìn thấy” chính mình. Như vậy, “tấm gương” đóng vai trò là cái Khác so với chủ thể. Cái Khác ở đây hiểu theo hai nghĩa, cái Khác như một tồn tại khác và cái Khác như sự phân đôi trong chính chủ thể, là hình ảnh khác của chủ thể (khi đi vào phân tích chúng tôi sẽ áp dụng cả hai hướng này). Dù hiểu theo nghĩa nào thì cái Khác cũng phải quy chiếu về chủ thể tôi. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa cái Tưởng tượng và cái Biểu tượng về sau, nếu ở cái Biểu tượng, cái Khác hoàn toàn là đối tượng ở bên ngoài, làm thành thế lực áp đặt lên chủ thể bằng các loại diễn ngôn khiến cho “ham muốn [của chủ thể] luôn là ham muốn của cái Khác” – công thức quen thuộc của Lacan – tức quan hệ giữa cái Khác và chủ thể ở cái Biểu tượng là quan hệ hoàn toàn hướng ngoại, chủ thể phụ thuộc vào cái Khác bên ngoài; thì quan hệ giữa cái Khác và chủ thể ở cái Tưởng tượng lại là quan hệ hướng nội, cái Khác (tuy có thể là thực thể khác bên ngoài) hoàn toàn được nhìn qua sự phóng chiếu của chủ thể, nói cách khác là cái Khác đóng vai trò bồi đắp cái nhìn cho chủ thể về chính mình. Do đó, cái Khác sẽ mang tính chất lí tưởng, là một thể hoàn hảo trong cách nhìn của chủ thể, mà Lacan gọi là cái tôi lý tưởng (ideal-ego hay ideal-I). Vì sao cái Khác phải là một cái tôi lý tưởng, hay vì sao chủ thể lại nhìn cái Khác – hình ảnh phóng chiếu từ mình – ra một thể lí tưởng và hoàn hảo? Vì nguyên nhân sau: 79 Khi rời khỏi thế giới cái Thực, chia tách khỏi người mẹ, chủ thể hoang mang và có cảm giác mất mát. Sự thiếu ở đây ám chỉ trạng thái bơ vơ khi “lạc mất thiên đường”, đánh mất bản nguyên của chính mình. Do đó sự thiếu thốn này không quy vào một cái gì tất định mà chỉ một sự mất mát trừu tượng: mất mát bản nguyên, mất mát thế giới cái Thực – thế giới thiên đường – khi chủ thể bước vào cái Tưởng tượng để bắt đầu nhận thức về mình. Trong trạng huống mất mát ấy, cái tôi lý tưởng trở thành một cứu cánh cho chủ thể vin vào để tìm kiếm nguồn an ủi: “Hình ảnh là một ảo tưởng mà đứa trẻ tạo nên để bù đắp cho ý nghĩa thiếu sót hay mất mát của nó” [111]. Khi tách khỏi cái Thực, chủ thể trở nên bơ vơ nên cái tôi lý tưởng là đại diện cho sự hiện thực hóa sự đòi hỏi (demand) của chủ thể về sự độc lập, lớn mạnh, tự trị. Sự đòi hỏi này sẽ dẫn đến ham muốn (desire) được yêu chính mình hay yêu người khác là hình bóng của mình. Yêu chính mình, quy chiếu cái Khác vào hình ảnh của mình chính là chứng tự si (narcissism1) theo cách gọi của Lacan. Như vậy, về tính chất, cái tôi lý tưởng là một hình ảnh tưởng tượng manh tính tự si của chủ thể nảy sinh do chủ thể nhận thức về sự thiếu của mình khi rời khỏi cấp độ cái Thực. Về phương pháp, cái tôi lý tưởng là một hình ảnh được hình thành qua sự phóng chiếu: chủ thể tự phóng chiếu bản thân lên chính mình hay phóng chiếu mình lên đối tượng bên ngoài, nhưng đều mang tính chất lý tưởng hóa để thỏa mãn tính tự si của chủ thể. Về mục đích, khi tự si và thỏa mãn chứng tự si thông qua hình ảnh lý tưởng, chủ thể truyền đặc tính của hình ảnh ấy vào sự hình thành bản thể của mình, làm nên cái nhìn mang tính cá nhân, sự độc lập của chủ thể ít nhiều mang tính tự tôn 1 Thần thoại Hy Lạp có kể câu chuyện về vị nam thần Narcissus đem lòng yêu chính hình bóng dưới nước của mình, nhưng thất vọng vì không sở hữu được hình bóng ấy vì mỗi khi chạm vào là nó liền tan biến, nên chàng tuyệt vọng mà chết, biến thành hoa thủy tiên. 80 mà chủ thể sẽ mang theo suốt cuộc đời – một cơ sở hình thành cá tính, phong cách của một nghệ sĩ đích thực. Một điều nữa cần lưu ý, những hình ảnh tưởng tượng thường xuyên hiện lên thông qua một phương tiện rất quen thuộc đối với phân tâm học, là giấc mơ: “Hình ảnh phản chiếu có vẻ là ngưỡng cửa đầu tiên của thế giới có thể nhìn thấy, nếu ta đi qua sự sắp đặt tấm gương, cái mà imago của cơ thể chính chúng ta hiện diện trong ảo giác hay giấc mơ” [92, 443]1. Giấc mơ, theo quan niệm của Freud, là sự bộc phát những ẩn ức bị dồn nén do sự kiểm duyệt bên ngoài; theo tính chất này, giấc mơ không chỉ trong lúc ngủ mà còn có loại “giấc mơ khi thức” – tức những ảo ảnh sinh ra từ vô thức, hiện lên giữa đời thực qua thị giác. Khi chủ thể ham muốn một điều gì mà không thể thực hiện, ham muốn ấy lặn vào vô thức và chuyển hóa vào trong mơ. Như vậy, với Freud, hình ảnh trong mơ bảo vệ ước muốn không được thỏa mãn của con người trong thế giới thực. Khi “trở về Freud” từ những nghiên cứu về giấc mơ, Lacan có sự lí giải thú vị khác: với Lacan, giấc mơ giúp ta thỏa mãn ham muốn, nhưng ngược lại, cũng khiến chủ thể có nguy cơ gặp chấn thương nhiều hơn, vì mơ đưa chủ thể trở vào thế giới của vô thức, cũng là thế giới cái Thực, nơi chủ thể phải đối mặt với tình trạng thiếu khuyết của mình rõ ràng hơn, nên chủ thể ngay lập tức tỉnh thức, trở về thực tại để tránh cái Thực này2. 1 “the mirror-image would seem to be the threshold of the visible world, if we go by the mirror disposition that the imago of one's own body presents in hallucinations or dreams” 2 Ví dụ: Phân tích của Lacan từ một giấc mơ được Freud trình bày trong cuốn Diễn giải giấc mơ: Một người cha ngủ quên khi canh chừng chiếc quan tài của đứa con trai, trong giấc mơ, đứa con đã chết hiện lên trước mặt ông và khẩn khoản thốt lên: “Cha ơi, cha không thấy con đang cháy sao?”, khi người cha tỉnh dậy, ông phát hiện tấm vải trên quan tài con mình đang bắt lửa vì một cây nến ngã xuống. Đây là lí giải của Lacan: “khi giấc ngủ của người cha bị quấy phá bởi làn khói, ông nhanh chóng xây dựng một giấc mơ kết hợp với yếu tố quấy rối này (khói) để kéo dài giấc mơ của mình; tuy nhiên, điều ông phải đối mặt trong mơ là một chấn thương (về trách nhiệm của ông với cái chết của đứa con trai) mạnh hơn rất nhiều so với thực tại, vì vậy, ông thức dậy, về lại thực tại để tránh cái Thực” [122] 81 Có thể rút ra một số kết luận từ lí giải của Lacan: một là, nó cho thấy mối quan hệ đan cài giữa cái Thực, cái Tưởng tượng và thực tại vẫn tiếp diễn, dù chủ thể ở giai đoạn nào; hai là, tưởng tượng trong mơ vừa thể hiện nhu cầu tự bộc lộ của chủ thể, đồng thời thể hiện chấn thương của chủ thể; ba là, tưởng tượng là một hoạt động mang tính chủ quan, nhưng cũng không phải là chủ quan: “Tưởng tượng đúng hơn là thuộc về phạm trù kì dị của chủ quan một cách khách quan – những thứ dường như đến với bạn một cách thực sự, khách quan, ngay cả khi chúng không có vẻ đến với bạn” [122] – một quan niệm của Slavoj Zizek (nhà phê bình phân tâm học Lacan) – tức chủ thể có thể nhận thức mình đang tưởng tượng (như một hành động chủ quan), hình ảnh hiện lên qua những gì mình mong muốn; nhưng nhiều khi chủ thể không ý thức được điều ấy, hình ảnh khi mơ xuất hiện có thể không do sự chủ động ý thức của chủ thể (sự tưởng tượng trong tác phẩm Chân dung một nghệ sĩ trẻ chủ yếu là loại tưởng tượng “chủ quan một cách khách quan” này). Tóm lại, nếu cái Thực là giai đoạn của trực giác thì cái Tưởng tượng là lĩnh vực của hình ảnh và trí tưởng tượng, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành bản thể con người, tức một tồn tại hiện hữu một cách cá biệt đặc thù. Bản thể ấy được nhận diện ở cái Tưởng tượng, dựa theo học thuyết phân tâm của Jacques Lacan, từ những bình diện: tưởng tượng bằng cách phóng chiếu chính mình để tạo nên cái tôi lý tưởng, tưởng tượng thông qua hình thức giấc mơ hay những ảo tưởng (giấc mơ khi thức). Chúng đều thể hiện sự thiếu khuyết của chủ thể, một tồn tại bất ổn khi bước đầu tách khỏi thế giới cái Thực, một bản thể đòi hỏi những nhu cầu không thể hiện thực hóa nên dẫn đến chấn thương. Chấn thương là tất yếu phải có trong cuối mỗi giai đoạn phát triển. 82 3.2. Song đề bản thể từ sự quy chiếu của cái Tưởng tượng Bản thể (tiếng Hy Lạp: ousia) theo quan niệm của Aristotle là “những cái đặc thù, là những sự vật mà ta có kinh nghiệm cá nhân trực tiếp về chúng [] Chúng có phẩm tính của tính cá biệt” [54, 46], như cái cây này, con người kia Ông phân biệt phạm trù bản thể với các phạm trù giống, loài – những phạm trù dùng để định nghĩa một vật thể nào đó theo cấp bậc; theo đó, định nghĩa càng ít khái quát thì càng có tính bản thể. Như vậy, Aristotle xem giống, loài thuộc về những cái phổ biến, còn bản thể là một khái niệm mang tính đặc thù, quy chiếu vào sự tồn tại cá biệt. Chúng tôi hiểu nội hàm bản thể theo nghĩa này. Khi phân tích nhân vật Stephen ở giai đoạn hình thành bản thể, thuộc phần hai và ba của tác phẩm Chân dung một nghệ sĩ trẻ, chúng tôi quy chiếu vào phạm trù cái Tưởng tượng theo phân tâm học Lacan và gọi đó là tiến trình phát triển của song đề bản thể. Song đề bản thể tức trạng thái song đề gắn với việc tự nhận thức chính mình như một tồn tại, ở đó có những băn khoăn, day dứt, những phân vân trong quyết định trở thành một tôi như thế nào. Song đề bản thể nối tiếp sau nỗ lực hòa giải song đề trực giác của Stephen Dedalus. Khi song đề trực giác phần nào được hòa giải, nhân vật dần dần từ thế giới phi logic, bất khả của cái Thực cảm nhận ngày càng rõ ràng hơn thế giới hiện thực nơi mình đóng vai trò là một tồn tại riêng. Áp dụng lí giải của Aristotle, ta thấy, nếu sự định danh ở phần một tác phẩm là phương cách hòa giải song đề bằng tên gọi, vì cái tên lúc ấy thực ra được quy chiếu vào phạm trù giống, loài, tức mang tính phổ biến, thì khi nhận thức chính mình không chỉ bằng tên gọi mà bằng hình ảnh phóng chiếu, song đề bản thể liền nổi lên vì hình ảnh vốn thuộc phạm vi của cái Tưởng tượng mang tính cá biệt đặc thù. 83 Nhận thức chủ thể bằng hình ảnh phóng chiếu: đó không phải là sự suy diễn từ phía người nghiên cứu, đó là gợi ý về cách đọc của James Joyce. Đầu phần hai tác phẩm, James Joyce tái dựng những chi tiết cho thấy thế giới cái Thực của Stephen đang dần tan rã, nhường chỗ cho nhận thức thực tại về thế giới xung quanh: đó là khi Stephen lắng nghe câu chuyện giữa bác Charles và cha mình: “Stephen nghe những câu chuyện đó với tất cả niềm khao khát của mình. Những từ mà nó không hiểu, nó cứ thầm nói lại, nói lại cho đến khi nó thuộc lòng thì thôi: và qua họ nó có một ý niệm mơ hồ về thế giới thực của họ. Giờ khắc mà nó cũng được tham dự vào cuộc sống của thế giới đó dường như đang đến gần” [26, 102]. Những thắc mắc bất khả trước đây trong thế giới người lớn đã được Stephen “giải quyết” bằng cách nghe và ghi nhớ dù vẫn chưa nắm bắt ý nghĩa, giống như việc quan sát và lặp đi lặp lại một hành động khi đứa trẻ nhìn thấy chuyển động của chính mình trong gương, vì nó không biết đấy là hình ảnh của nó. Thêm nữa, tín hiệu mở ra sự nhận thức bản thể của Stephen được nhà văn xây dựng có liên quan trực tiếp đến hình ảnh tấm gương: trong phần một, chiếc gương không xuất hiện: “Nó phân vân không biết có đúng là có cái gì đó trên khuôn mặt nó khiến nó trông giống như một kẻ mưu mẹo và nó ước chi nó có một cái gương để soi” [26, 88]; đến đầu phần hai, lần đầu tiên hình ảnh gương soi được đề cập đến: “Nó đi vào phòng của mẹ và nhìn chăm chú khuôn mặt mình ở trong chiếc gương ở bàn trang điểm của mẹ” [26, 116]. Từ chiếc gương cụ thể đó, nhà văn đã cung cấp cho người đọc một tín hiệu về cách đọc ở phần này của tác phẩm: đọc bằng cách thức phản chiếu gương soi. Có thể hình dung cách đọc ấy dựa theo Lược đồ L1 sau: 1 Lược đồ L, cũng như các sơ đồ khác, là một trong nhiều nỗ lực của Jacques Lacan nhằm sơ đồ hóa những lý thuyết chính yếu của phân tâm học. Có tên gọi này vì hình dạng của lược đồ giống với chữ cái Lambda của Hy Lạp. 84 Lược đồ L Nguồn: Lacan, J. (1997), The Seminar of Jacques Lacan, Book III: The Psychoses 1955-1956, Russell Grigg translated with notes, W. W. Norton & Company, p.14. Lược đồ L cho phép nhiều cách đọc khả thể khác nhau, ở đây chúng tôi chọn lựa cách đọc theo hình thức phản chiếu. Theo đó, S là chủ thể, o là cái tôi (ego) của chủ thể đó, o’ là hình ảnh của chính chủ thể sinh ra do sự tự phóng chiếu vào bên trong, O là đối tượng ở bên ngoài. Theo chiều các vectơ trong lược đồ, sự phóng chiếu của chủ thể (S) sẽ đi theo hai hướng: (1) O  S và (2) o’  o Cả o’ và O đều được Lacan chú thích là cái Khác nhưng bản chất của chúng khác nhau: o’ là other và O là Other. Sự khác nhau đó là: o’ là cái Khác trong vai một tồn tại khác bên trong chủ thể, còn O là cái Khác trong vai người khác. Như vậy, song đề bản thể sẽ hiện lên từ hai cách thức phản chiếu: (1) Phản chiếu ở cấp độ bên ngoài (O  S): Chủ thể (S) phóng chiếu mình lên cái Khác ở bên ngoài m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2013_01_24_3466264870_0905_1869323.pdf
Tài liệu liên quan