MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .2
PHẦN MỞ ĐẦU.1
1. Lí do chọn đề tài.1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.2
3. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu.3
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu .3
5. Lịch sử nghiên cứu đề tài .6
6. Đóng góp chủ yếu của đề tài.8
7. Cấu trúc luận văn .8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.9
VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA.9
1.1. Một số khái niệm và quan niệm .9
1.1.1. Du lịch.9
1.1.2. Văn hóa .9
1.1.3. Du lịch văn hóa.10
1.1.4. Tài nguyên du lịch nhân văn.12
1.1.5. Sản phẩm du lịch.12
1.1.6. Sản phẩm du lịch văn hóa.13
1.1.7. Điểm du lịch văn hóa.14
1.2. Một số vấn đề lý luận về phát triển du lịch văn hóa .14
1.2.1. Mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch .14
1.2.2. Các nguồn lực phát triển du lịch văn hóa .15
1.3. Thực tiễn khai thác tài nguyên nhân văn phục vụ phát triển du lịch trên thế giới
và ở Việt Nam .24
1.3.1. Trên thế giới.24
1.3.2. Ở Việt Nam.27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN NHÂN VĂN PHỤC
VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .29
2.1. Tổng quan về thành phố Hồ Chí Minh .29
2.2. Tiềm năng về tài nguyên du lịch nhân văn ở thành phố Hồ Chí Minh.32
2.2.1. Khái quát tiềm năng của trung tâm du lịch Thành phố Hồ Chí Minh.32
2.2.2. Các di tích lịch sử văn hóa .34
2.2.3. Lễ hội .51
2.2.4. Các tài nguyên du lịch khác.54
2.3. Thực trạng khai thác tài nguyên nhân văn phục vụ phát triển du lịch ở Thành
phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 - 2011 .57
2.3.1. Khái quát về thực trạng phát triển du lịch ở TP.HCM.57
2.3.2. Thực trạng khai thác tài nguyên nhân văn trong phát triển du lịch ở thành
phố Hồ Chí Minh.59
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng khai thác tài nguyên nhân văn để phát triển
du lịch ở thành phố Hồ Chí Minh .75
129 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khai thác tài nguyên nhân văn phục vụ phát triển du lịch ở thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh đá. Chùa Hội Sơn được xếp hạng là di tích kiến
trúc nghệ thuật quốc gia năm 1993.
Ngoài ra ở TP.HCM còn có nhiếu chùa được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ
thuật cấp quốc gia và cấp thành phố như: chùa An Lạc, chùa Bửu Sơn, chùa Phước
Tường, chùa Sắc Tứ Huệ Lâm, chùa Sắc Tứ Tập Phước, chùa Sắc Tứ Trường Thọ,
chùa Sùng Đức, chùa Thiên Phước, chùa Văn Thánh. Các ngôi chùa đều có một giá
trị về kiến trúc nghệ thuật và giá trị văn hóa riêng, gắn liền với tiến trình lịch sử của
cư dân mỗi địa phương. Nghiên cứu các ngôi chùa góp phần phát huy và bảo tồn
các giá trị văn hóa, kiến trúc mà thế hệ trước để lại. Đó cũng là cơ hội để con người
hiểu thêm về văn hóa dân tộc, về giá trị cuộc sống.
Điện Ngọc Hoàng (Chùa Phước Hải): tọa lạc tại số 73, đường Mai Thị
Lựu, phường Đa Kao, quận 1. Là một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng của Sài
Gòn xưa. Theo nhận xét của một học giả Pháp thì đây là “một ngôi chùa đẹp nhất ở
Nam phần và thú vị nhất do các tư liệu lý thú đã mang lại về tôn giáo của người
Hoa ở Đông Dương”.
Chùa Phước Hải được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.
Chùa có sự ảnh hưởng nhất định trong đời sống tinh thần của người Việt và người
Hoa. Du khách đến viếng chùa không chỉ là những người ở quanh vùng, mà còn ở
nhiều tỉnh Nam bộ cũng đến chùa chiêm bái và tế lễ.
Đình: là loại hình di tích khá đặc trưng ở TPHCM nói riêng, cả nước nói
chung. Đến nay, cả thành phố có 32 ngôi đình được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ
thuật. Mỗi ngôi đình là một kiến trúc trong khuôn viên nhất định với những chi tiết
tinh xảo được thiết kế và xây dựng từ trước. Đây đa số là những ngôi đền tiêu biểu
cho kiểu đình làng Nam Bộ. Cùng với những truyền thống văn hóa, tín ngưỡng, các
ngôi đình đã góp phần là phong phú di sản lịch sử văn hóa của Thành Phố Hồ Chí
Minh.
Các ngôi đình tiêu biểu phải kể đến là: đình An Nhơn (quận Gò Vấp) thờ
“Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương”; đình Bình Hòa (Quận Bình
Thạnh) có kiến trúc nhà tứ trụ với những tác phẩm điêu khắc có giá trị thẩm mĩ
được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia; đình Bình Quới Tây ( Quận
45
Bình Thạnh) có khuôn viên rộng ra sông Sài Gòn; đình Bình Thọ (Quận Thủ Đức)
có khuôn viên rộng hơn 5.000m2 với nhiều cây xanh bóng mát cảnh quan đẹp; đình
Bình Tiên (Quận 6) từng là cơ sở cách mạng trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân
(1968); đình Bình Trường (Huyện Bình Chánh) là nơi tín ngưỡng dân gian với các
lễ cầu an cho cư dân địa phương; đình Cần Thạnh (Huyện Cần Giờ) lưu giữ nhiều
di vật có giá trị thẩm mỹ và lịch sử; đình Chí Hòa (Quận 10) gắn liền với sự nghiệp
và tên tuổi của cụ đồ nho Võ Trường Toản; đình Hưng Phú (Quận 8) thờ tướng
quan Phi Vân Nguyễn Nhục; đình Khánh Hội (Quận 4) có cách bài trí đơn gian
nhưng nhưng vẫn giữ được nét cổ kính của đình làng Nam Bộ; đình Linh Tây (Quận
Thủ Đức) được thiết kế theo dạng chữ “tam” gồm 3 căn nhà; đình Linh Thông
(Quận Thủ Đức) được xây dựng cách nay gần 200 năm; đình Minh Hương Gia
Thạnh (Quận 5) được thiết kế theo kiểu nhà rường, ba gian hai chái, mái ngói, cột
gỗ; đình Nam Chơn (Quận 1) được vua Tự Đức ban sắc phong là Bắc Quân Đô Đốc
Thái Bảo Trấn Quận Công Bùi Tá Hán; đình Nhơn Hòa (Quận 1) là nơi thờ tổ nghề
sân khấu; đình Phong Phú (Quận 8); đình Phú Lạc (Huyện Bình Chánh) đều có
chung kiểu kiến trúc nghệ thuật truyền thống cảu đình làng Nam Bộ; đình Phú
Nhuận (Quận Phú Nhuận) thờ thần Thành Hoàng; đình Phú Thạnh (Quận 3) từng là
trụ sở của tổ chức Thanh Niên Tiền Phong sài Gòn - Chợ Lớn; đình Phú Xuân
(Huyện Nhà Bè) tọa lạc trên vùng đất “trị thủy” (nước hội tụ); đình Tân Kiểng
(Quận 5) là dấu tích cảu một ngôi làng nổi tiếng sầm uất ở Gia Định đầu thế kỷ 19;
đình Tân Quy Đông (Quận 7) lưu giữ những giá trị tinh thần của bà con vùng đất
Tân Quy Đông; đình Tân Thới Nhì (Huyện Hóc Môn) xây dựng theo kiến trúc kiểu
tứ trụ; đình Tân Thới Tứ (Huyện Hóc Môn) là nơi đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh
của nhân dân Tân Thới Tứ; đình tăng Phú (Quận 9) được tô điểm bởi hai màu vàng
và đỏ thể hiện sự trang nghiêm, uy nghi; đình Thông Tây Hội (Quận Gò vấp) đến
nay vẫn giữ nguyên vẹn cấu trúc và vật liệu xây dựng của một ngôi đình cổ Nam Bộ
thế kỷ XVIII – XIX; đình Trường Thọ (Quận Thủ Đức) tọa lạc trên gò đất đỏ, giữa
những hàng cây sao cao vút; đình Vĩnh Hội (Quận 8); đình Vĩnh Hội (Quận 4); đình
Xóm Huế (Huyện Củ Chi); đình Xuân Hòa (Quận 3) đều được xếp hạng di tích kiến
trúc nghệ thuật quốc gia.
46
Hội quán: là những di tích kiến trúc nghệ thuật không chỉ có giá trị nghiên
cứu về lịch sử, văn hóa của cộng đồng người Hoa mà còn là nguồn tư liệu góp phần
nghiên cứu lịch sử hình thành phát triển của Thành phố, cùng nhau chung sức khám
phá, xây dựng nên vùng đất mới. Kiến trúc của các hội quán là kiểu kiến trúc trang
trí trên mái, nhất là đỉnh mái với những mảng phù điêu khắc hoặc cụm tượng với
chủ đề phản ánh những điển tích của người Hoa.
Bảng 2.2: Danh sách hội quán ở TP. Hồ Chí Minh
STT Tên hội quán Địa điểm Cấp xếp
hạng
1 Hội quán Hà Chương 820 Nguyễn Trãi, P14, Q5 Quốc gia
2 Hội quán Lê Châu 586 Trần Hưng Đạo, P14, Q5 Quốc gia
3 Hội quán Nghĩa An 678 Nguyễn Trãi, P11, Q5 Quốc gia
4 Hội quán Nghĩa Nhuận 27 Phan Văn Khỏe, P13, Q5 Quốc gia
5 Hội quán Nhị Phủ 264 Hải Thượng Lãn Ông, P14, Q5 Quốc gia
6 Hội quán Ôn Lăng 12 Lão Tử, P11, Q5 Quốc gia
7 Hội quán Quỳnh Phủ 276 Trần Hưng Đạo, P11, Q5 Quốc gia
8 Hội quán Quảng Triệu 122 Bên Chương Dương, Phường
Nguyễn Thái Bình, Quận 1 Quốc gia
9 Hội quán Tuệ Thành 710 Nguyễn Trãi, P11, Q5 Quốc gia
10 Hội quán Phước An 184 Hồng Bàng, P12, Q5 Thành phố
11 Hội quán Quần Tân 2 Lý Thường Kiệt, P7,Q Gò vấp Thành phố
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP.HCM
Lăng, Miếu, Mộ: là những công trình nhằm tỏ lòng tôn kính, động viên
người có công lớn xây dựng vùng đất Sài Gòn – Gia Định, những công trình mang
đậm phong cách cổ truyền, được phối trí theo nguyên mẫu đặc thù Nam Bộ, lưu giữ
một nét kiến trúc cổ kính của Thành phố hiện nay.
47
Bảng 2.3: Danh sách Lăng, Miếu, Mộ được xếp hạng di tích ở TP. Hồ Chí
Minh
STT Tên di tích Địa điểm Cấp xếp
hạng
1 Lăng Lê Văn Duyệt 1 Vũ Tùng, P1, Bình Thạnh Quốc gia
2 Lăng Trương Tấn Bửu 41 Nguyễn Thị Huỳnh, P8, Phú
Nhuận Quốc gia
3 Lăng Võ Duy Nguy 19 Cô Giang, P2, Phú Nhuận Quốc gia
4 Miếu Tân Kỳ và Miếu
Ông Bổn 1A/13 Trường Chinh, P14, Tân Bình Thành phố
5 Miếu Thánh Mẫu 284 Nguyễn Thị Minh Khai, P5, Q3 Thành phố
6 Miếu Thất Phủ Thiên Hậu 128 Nguyễn Thái Sơn, P4, Gò Vấp Thành phố
7 Mộ Tiền Hiền Tạ Dương Minh KP4, P. Linh Chiểu, Q. Thủ Đức Thành phố
8 Mộ ông Lý Trường
Quang và Bà Mỹ Thị Lâu
Đường Nguyễn Sơn, P.Phú Thọ Hòa,
Tân Phú Thành phố
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP.HCM
Nhà cổ, Từ đường:
Những ngôi nhà cổ, phản ánh đời sống vật chất, văn hóa tương đối mộc mạc,
giản dị của người dân Sài Gòn – Gia Định xưa. Từ đường thể hiện đời sống tâm
linh, truyền thống văn hóa của một cộng đồng di dân người Hoa luôn cố gắng giữ
gìn bản sắc dân tộc nơi vùng đất mới và sự đổi thay của một vùng đất trong quá
trình phát triển của Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 2.4: Danh sách nhà cổ, từ đường được xếp hạng ở TP. Hồ Chí Minh
STT TÊN DI TÍCH ĐỊA CHỈ CẤP XẾP
HẠNG
1 Nhà cổ Vương Hồng
Sển
9/1 Nguyễn Thiện Thuật, P14,
Bình Thạnh Thành phố
2 Từ đường họ Lý 292 Hải Thượng Lãn Ông, P14, Q5 Thành phố
3 Từ đường Phước Kiến 314 Nguyễn Trãi, P8, Q5 Thành phố
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP.HCM
48
Công trình đương đại:
TP.HCM có nhiều công trình kiến trúc đẹp như là điểm nhấn cho Thành phố
trong thời kỳ công nghiệp hóa. Những công trình tiêu biểu có giá trị về kiến trúc
nghệ thuật là trụ sở của Ủy ban Nhân dân Thành phố, Nhà hát Thành phố, Bưu điện
trung tâm, Tòa án Nhân dân, Thư viện Khoa hoạc tổng hợp, Trường Trung học phổ
thông Lê Hồng Phong, các trung tâm thương mại như Diamond Plaza, Sài Gòn
Trade Centre, và hệ thống các bảo tàng trong Thành phố.
Trên địa bàn Thành phố hiện có 11 bảo tàng, bảo tàng lớn và cổ nhất là Bảo
tàng lịch sử Việt Nam với 30 nghìn hiện vật. Mỗi bảo tàng trưng bày mỗi nội dung
và khả năng hấp dẫn khách du lịch là khác nhau. Đến TP.HCM, du khách không thể
không ghé thăm một trong số bảo tàng nổi bật như: bảo tàng Chứng tích chiến
tranh, bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Lịch sử Việt Nam, bảo tàng TP.HCM, bảo
tàng Phụ nữ Nam Bộ, bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM,
bảo tàng Lịch sử Việt Nam, bảo tàng Tôn Đức Thắng,.
- Bảo tàng Chứng tích chiến tranh tọa lạc tại số 28 Võ Văn Tần, phường 6,
quận 3.
Sau ngày Việt Nam hoàn toàn giải phóng, để lưu lại những chứng tích anh
hùng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống các thế lực xâm lược,
đồng thời để tố cáo những tội ác và nêu bật những hậu quả tàn khốc của cuộc chiến
tranh, ngày 4/9/1975 Nhà Trưng bày tội ác Mỹ - Ngụy được mở cửa phục vụ công
chúng. Sau đó, Nhà Trưng bày tội ác Mỹ - Ngụy được đổi tên thành Nhà Trưng bày
Tội ác Chiến tranh xâm lược (ngày 10/11/1990) trước khi trở thành Bảo tàng Chứng
tích Chiến tranh (ngày 4/7/1995).
Hiện nay, bảo tàng Chứng tích Chiến tranh nằm trong hệ thống các bảo vì
hòa bình thế giới và là thành viên của Hội đồng các bảo tàng thế giới (ICOM). Đây
là bảo tàng chuyên đề nghiên cứu, sưu tầm, lưu trữ, bảo quản và trưng bày những
tư liệu, hình ảnh, hiện vật về những chứng tích tội ác và hậu quả của các cuộc chiến
tranh mà các thế lực xâm lược đã gây ra đối với Việt Nam. Qua đó, Bảo tàng giáo
dục công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ về tinh thần đấu tranh bảo vệ độc lập tự do
49
của Tổ quốc, về ý thức chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hòa bình và tinh thần
đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới.
Bảo tàng lưu giữ hơn 20.000 tài liệu, hiện vật và phim ảnh, trong đó hơn
1.500 tài liệu, hiện vật, phim ảnh đã được đưa vào giới thiệu ở 8 chuyên đề trưng
bày thường xuyên. Trong 35 năm hoạt động, bảo tàng đã đón tiếp trên 15 triệu lượt
khách tham quan trong và ngoài nước. Hiện nay với khoảng 500.000 lượt khách
tham quan mỗi năm, bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là một trong những địa chỉ
văn hóa du lịch có sức thu hút cao, được sự tín nhiệm của công chúng trong và
ngoài nước.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh TP.HCM, hiện tọa lạc tại số 1 Nguyễn
Tất Thành, Phường 12, Quận 4. Đây cũng là một chi nhánh nằm trong hệ thống các
bảo tàng và di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước.
Bảo tàng đặt trong ngôi nhà trước đây là trụ sở của Tổng Công ty Vận tải
Hoàng đế (Messageries Impériales) - một trong những công trình đầu tiên do thực
dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Ngôi nhà được xây dựng từ giữa
năm 1862 và hoàn thành vào năm 1863 với lối kiến trúc phương Tây nhưng trên
nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trăng theo mô típ "Lưỡng long chầu
nguyệt" - một kiểu trang trí quen thuộc của đình chùa Việt Nam. Có kiểu kiến trúc
độc đáo đó nên trụ sở của Tổng Công ty Vận tải Hoàng đế (Hotel des Messageries
Impériales) còn được gọi là Nhà Rồng và bến cảng cũng mang tên là Bến cảng Nhà
Rồng.
Một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt liên quan đến cảng Sài Gòn và thành phố Hồ
Chí Minh đó là vào ngày 5/6/1911, Bác Hồ (lúc bấy giờ lấy tên là Văn Ba) đã
xuống tàu Amiral Latouche Tréville từ bến cảng Sài Gòn, đi ra nước ngoài tìm
đường cứu nước. Người đã đi qua Pháp và nhiều nước với nhiều châu lục khác
nhau, để sau 30 năm trở lại đất nước, trực tiếp lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng
lên giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc
giành độc lập thống nhất tổ quốc.
50
Để ghi nhớ sự kiện trên, sau ngày đất nước thống nhất, ngôi Nhà Rồng được
giữ lại làm Di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh theo Quyết định số 1315/QĐ-
UB, ngày 7/9/1979, của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Bảo tàng có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền
về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở các
tư liệu, hiện vật của bảo tàng, đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiện Bác Hồ ra đi tìm
đường cứu nước và tình cảm sâu nặng của Bác Hồ đối với nhân dân miền Nam và
tình cảm kính yêu của nhân dân miền Nam đối với Bác.
Bên cạnh hoạt động tuyên truyền giáo dục rộng rãi nhằm làm cho tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đi sâu vào quần chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ
trẻ, Bảo tàng còn phối hợp và liên kết có hiệu quả với các cơ quan, đơn vị trong và
ngoài thành phố Hồ Chí Minh tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học, xuất
bản các ấn phẩm, chiếu phim tư liệu, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, các
cuộc thi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện
những bộ sưu tập hiện vật, những tư liệu hồi ký về Bác Hồ; trưng bày lưu động các
chuyên đề có liên quan đến hoạt động của Người.
Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh TP. Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành một
trung tâm giáo dục về lịch sử cách mạng, về tư tưởng đạo đức và cuộc đời hoạt
động cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bảo tàng đã thu hút không ít
khách tham quan từ khắp nơi trong nước và khách quốc tế, đặc biệt có hàng trăm
đoàn nguyên thủ quốc gia và cao cấp các nước đến thăm viếng, tìm hiểu nghiên cứu
về Chủ tịch Hồ Chí Minh...
2.2.2.3. Di tích khảo cổ
TP.HCM mới có lịch sử phát triển hơn 300 năm, song có nhiều di tích và di
vật khảo cổ được phát hiện có niên đại cách nay hàng nghìn năm. Điều đó cho thấy
trên địa bàn Thành phố từ cách nay hàng nghìn năm đã có cư dân sinh sống và có sự
giao lưu rộng rãi với những vùng văn hóa khác.
Cho đến năm 2011, ngoài những hiện vật được phát hiện từ thời Pháp thuộc,
đã có nhiều hiện vật được phát hiện ở quận 2, quận 9, quận 11, quận 12, huyện Hóc
51
Môn, huyện Bình Chánh và huyện Cần Giờ. Trong đó có hai di tích được xếp hạng
là Giồng Cá Vồ (huyện Cần Giờ) và Lò Gốm cổ Hưng Lợi (Quận 8).
2.2.3. Lễ hội
Tuy là một thành phố trẻ nhưng TP. HCM cũng nổi tiếng với một số lễ hội
truyền thống như lễ hội chùa Bà Thiên Hậu, lễ hội nghinh Ông, lễ hội chùa Phước
Hải, Bên cạnh các lễ hội này, trên địa bàn Thành phố còn tổ chức nhiều lễ hội
hiện đại và sự kiện văn hóa, nghệ thuật như: lễ hội đường hoa Nguyễn Huệ, hội
Hoa xuân, lễ hội Trái cây Nam Bộ góp phần tạo sức hút mạnh mẽ đối với du
khách trong và ngoài nước.
Bảng 2.5: Danh sách những lễ hội điển hình ở TP.HCM
STT Tên lễ hội Địa điềm
Thời gian
(theo Âm
lịch)
1 Lễ hội chùa Phước Hải Quận 1 9/1
2 Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu Quận 3 23/3
3 Lễ kỳ yên đình Bình Đông Huyện Bình Chánh 12, 13/2
4 Hội Chùa ông Bổn Quận 5 15/1 và 15/8
5 Lễ kỳ yên đình Phú Nhuận Quận Phú Nhuận 16, 17, 18/1
6 Hội miếu ông Địa Quận Gò Vấp 2/2
7 Lễ hội giỗ Tổ nghề Kim Hoàn Quận 5 6, 7, 8/2
8 Lễ hội nghinh Ông Huyện Cần Giờ 16/8
9 Lễ hội người Hoa (tết Nguyên Tiêu) Các đền, miếu 15/1
10 Lễ hội lăng ông – bà Chiểu Quận Bình Thạnh 1/8
Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP Hồ Chí Minh
Lễ hội chùa bà Thiên Hậu:
Lễ hội chùa bà Thiên Hậu được tổ chức vào ngày 23/3 âm lịch hàng năm, tại
710 Nguyễn Trãi, quận 3, TP.HCM. Lễ hội nhằm suy tôn bà Thiên Hậu.
Chùa bà Thiên Hậu theo cách gọi của người Việt còn được gọi là chùa bà
Chợ Lớn, tên chữ Hán là Thiên Hậu miếu, người Hoa gọi là Phò Miếu (tức miếu
52
Đức Bà). Do bên cạnh chùa có Tuệ Thành Hội quán là nơi quy tụ của nhóm người
Hoa Quảng Đông, nên chùa còn được gọi Tuệ Thành Hội quán.
Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất của người Hoa đã gây dựng trên
đất Đề Ngạn xưa. Chùa nằm trong khu trung tâm của những người Hoa đầu tiên đến
tạo lập nên Chợ Lớn sau này. Chùa xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng của
người Hoa, đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình
chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và
hậu điện. Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời),
giúp không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát khói
hương.
Chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa miếu, có lịch sử lâu đời
nhất của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh giá trị về nghệ thuật kiến
trúc, điêu khắc, hiện vật cổ, nơi đây còn có một giá trị khác, đó không chỉ là nơi đáp
ứng nhu cầu tín ngưỡng mà còn là nơi qui tụ và tương trợ lẫn nhau của bà con người
Việt gốc Hoa (Quảng Đông). Chùa Bà được công nhận là di tích kiến trúc nghệ
thuật cấp quốc gia ngày 07 tháng 01 năm 1993.
Lễ hội Nghinh Ông - Cần Giờ:
Lễ hội Nghinh Ông là một nét văn hóa đặc trưng của người dân ven biển và
đây cũng là dịp để các địa phương thu hút du khách trong và ngoài nước góp phần
nâng cao doanh thu cho ngành du lịch.
Tại Cần Giờ, lễ hội Nghinh Ông có các hoạt động chính trong phần lễ như:
Viếng và thắp hương Nghĩa trang liệt sĩ Rừng Sác, Bia tưởng niệm trận đánh Đồn
Cần Giờ, Nhà bia ghi danh thị trấn Cần Thạnh và lễ thượng đại kỳ, Mừng công ngư
dân Cần Giờ, Cúng tiền hiền, hậu hiền và bạn cũ lái xưa.
Ngoài ra, lễ hội còn có biểu diễn Đoàn thuyền hoa đăng, thả 1.000 đèn hoa
đăng trải dài trên 3km tại bờ biển Chợ và công viên Cần Thạnh khi con nước lớn
vào lúc 23 giờ đêm 15/8 âm lịch và lễ Nghinh Ông trên biển, đón đoàn Nghinh về
tại Lăng Ông Thủy tướng, Cúng đại lễ cổ truyền lúc 10 giờ sáng ngày 16/8 âm lịch
tại Lăng Ông Cần Thạnh.
53
Cùng thời điểm rước Nghinh Ông về, tại bến đò cơ khí sẽ diễn ra các trò chơi
dân gian thả vịt chạy, bắt vịt, trói cua, quăng chài, vá lưới trên bờ biển. Ngoài ra sẽ
có 3 chiếc tàu khách trên biển bán vé phục vụ du khách xem đoàn tàu tham gia rước
Nghinh Ông, Đây là nét đẹp văn hóa đã được chính quyền thành phố và người
dân địa phương chung tay gìn giữ.
TP.HCM đã xác định việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc là
nhiệm vụ quan trọng và mục tiêu hàng đầu trong quá trình phát triển của địa
phương. Đồng thời, là điểm đến du lịch biển, du lịch tâm linh của TP.HCM, góp
phần quảng bá du lịch cho du khách trong và ngoài nước tham quan tìm hiểu và
thưởng thức những hoạt động mang đậm bản sắc dân tộc truyền thống Việt Nam.
Lễ hội Trái cây Nam Bộ:
Từ năm 2004 đến nay, Lễ hội trái cây Nam bộ đã trở thành một hoạt động
văn hóa du lịch phản ánh và tôn vinh những giá trị thành quả lao động trong lĩnh
vực nông nghiệp của khu vực Nam bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch TP.HCM phối hợp cùng Khu du lịch Suối
Tiên liên tục tổ chức chương trình Lễ hội trái cây Nam bộ hằng năm với quy mô
phong phú, đa dạng và từng bước nâng tầm sự kiện thông qua việc tham gia của
một số nước trong khu vực như: Lào, Myanma, Campuchia, Thái Lan, Hàn Quốc,...
Trong những ngày diễn ra lễ hội, lễ hội trái cây kết hợp diễu hành cùng các
làng nghề của Suối Tiên và các đoàn nghệ thuật mang lại những màn trình diễn độc
đáo. Mỗi tên đường gắn liền với tên một loại trái cây và “Chợ nổi trái cây” với
những chiếc xuồng đầy ắp quả tươi ngon sẽ chào đón du khách đến với hành trình
thưởng ngoạn vô số đặc sản cây trái Nam bộ như dưa hấu, thanh long, xoài, sầu
riêng...Thú vị hơn nữa, nơi đây còn có gian hàng trưng bày giới thiệu các loại trái
cây ngon nổi tiếng, các sản phẩm chế biến từ trái cây, các loại cây giống. Thấm mệt
sau một chuyến tham quan, du khách có thể nghỉ chân tại nhà hàng Long Phụng
Suối Tiên và thưởng thức hơn 30 món ăn ngon, thức uống lạ miệng được chế biến
từ trái cây: cocktail, chè, bánh, nước ép
54
Lễ hội trái cây Nam bộ năm 2012 đã đăng ký kỷ lục Guiness lễ hội trái cây
có nhiều món ăn chế biến từ trái cây nhất và kỷ lục trái cây khổng lồ, hứa hẹn mang
lại cho du khách nhiều chương trình nghệ thuật giải trí độc đáo tại TP.HCM.
Các lễ hội truyền thống và hiện đại đã mang lại nhiều điều thú vị và đặc sắc
cho du khách khi tham quan du lịch tại TP.HCM.
2.2.4. Các tài nguyên du lịch khác
2.2.4.1. Làng nghề truyền thống
Theo thống kê của Liên minh Hợp tác xã TP. HCM, đến năm 2010 toàn
Thành phố có 63 làng nghề truyền thống, tập trung ở cả khu vực nội thành, khu vực
đô thị hóa và vùng ngoại thành (Phụ lục 4). Các làng nghề tiêu biểu như: làng nghề
đan lát Thái Mỹ (huyện Củ Chi), làng nghề nuôi và chế biến cá sấu Sài Gòn (quận
12), làng nghề đồ gỗ gia dụng phường Đông Hưng Thuận (quận 12), làng nghề hoa
cây kiểng, Đặc biệt nhất là làng bánh tráng Phú Hòa Đông (huyện Củ Chi), làng
nghề này hiện có hơn 5.000 lao động tham gia với 1.700 lò bánh tráng và 40 cơ sở
bánh tráng xuất khẩu.
Việc tổ chức tốt các tour du lịch đến với làng nghề truyền thống vừa có tác
dụng khôi phục và phát triển làng nghề, đồng thời tạo ra các sản phẩm du lịch làng
nghề mang dấu ấn địa phương rất hấp dẫn du khách. Phát triển du lịch làng nghề
góp phần khai thác chiều sâu các giá trị của nguồn tài nguyên nhân văn của Thành
phố.
2.2.4.2. Văn hóa nghệ thuật
TP.HCM còn là nơi hội tụ và nuôi dưỡng nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật
của dân tộc. Đến đây, du khách có thể hòa mình trong không gian văn hóa dân gian
đặc sắc của nghệ thuật múa rối nước, hát ả đào, hát xẩm, hát bội, nghe nhạc đờn ca
tài tử, hoặc thưởng thức loại hình âm nhạc “mộc” vang lên từ những nhạc cụ
truyền thống với những làn điệu dân ca nổi tiếng của nhiều dân tộc. Đó là điều mà
không phải một thành phố lớn nào trên thế giới cũng có được.
Đờn ca tài tử Nam Bộ:
55
Theo một số tài liệu ghi chép, đây là loại hình nghệ thuật xuất xứ từ nhạc
cung đình Huế. Đờn ca tài tử được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XXI, bài bản
dựa trên các bài có sẵn của ca nhạc Huế rồi cải biên, sáng tạo ra nhiều loại bài bản
mang âm hưởng quê hương, giới chơi nhạc chọn ra 20 bài bản tiêu biểu cho bốn hơi
điệu gồm sáu bài Bắc (diễn tả sự vui tươi, phóng khoáng), bảy bài Hạ (dung trong
tế lễ, trang nghiêm), ba bài Nam (diễn tả sự an nhàn, thanh thoát) và bốn bài Oán
(diễn tả cảnh sầu não, đau buồn). Nhạc cụ gồm đờn kìm, đờn tranh, đờn cò, đờn tỳ
bà, đờn tam (hoặc đờn sến, đờn độc huyền). Sau này có thêm cây đờn guitar, violon
được cải biên đưa vào trong nhạc tài tử. Nghe âm hưởng nhạc đờn ca tài tử, du
khách có thể cảm nhận dược không khí yên bình của vùng đất Nam Bộ khó có thể
xen lẫn với nơi khác ngay giữa lòng thành phố náo nhiệt.
Múa rối nước:
Múa rối nước là một loại hình văn hóa truyền thống gắn bó lâu đời với người
dân Việt Nam, đặc biệt là ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
Nghệ thuật múa rối dân gian Việt Nam gồm có múa rối cạn và múa rối nước.
Múa rối cạn có nhiều thể loại khác nhau như: rối tay, rối que, rối dây, rối bóng, rối
mặt nạ, rối nhà mồ, rối lốt... phần lớn các tích trò thường sử dụng các làn điệu chèo,
ca trù, tuồng, nhạc cung đình...
Đặc biệt trong sự đa dạng, phong phú của nghệ thuật múa rối thế giới,
Việt Nam là nước duy nhất có múa rối nước - "độc nhất vô nhị". Múa rối nước đã
góp phần làm giàu thêm vốn nghệ thuật truyền thống và là niềm tự hào của văn hóa
dân tộc.
Múa rối nước là một trong những loại hình sân khấu tiêu biểu cho nền văn
hóa dân tộc Việt Nam - thể hiện trí tuệ và sự thông minh, sức sáng tạo của con
người Việt Nam. Trong xã hội hiện đại ngày nay, múa rối nước không còn quá xa lạ
với quảng đại quần chúng trong nước và trên thế giới. Có lẽ thời gian là một trong
những nhân tố giúp múa rối nước định hình, khẳng định và phát triển, được xếp
hạng là một trong những loại hình nghệ thuật có giá trị cao, mang tính truyền thống
trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Việt Nam.
56
Múa rối nước thực sự đã gây tiếng vang và góp phần không nhỏ trong việc
nâng cao sự hiểu biết và uy tín cho nền văn hóa dân gian - dân tộc Việt Nam. Phát
huy và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, múa rối nước Việt Nam trong những năm
gần đây, không chỉ dừng lại ở vốn cổ, những người yêu nghệ thuật múa rối đã và
đang nghiên cứu, đổi mới phương thức dàn dựng và nội dung, phong phú hơn, đa
dạng hơn cho nghệ thuật múa rối và không kém phần thu hút đặc biệt đối với du
khách nước ngoài. TPHCM có nhiều sân khấu để trình diễn loại hình nghệ thuật này
đến du khách nước ngoài.
Văn hóa dân tộc:
Bên cạnh người Kinh, TP. HCM còn là địa bàn cộng cư của cộng đồng
người Hoa, người Chăm và người Khmer. Hiện nay, Thành phố cũng là nơi có số
dân nhập cư khá lớn từ nhiều địa phương trên cả nước. Điều đó đã tạo nên những
sắc thái văn hóa riêng rất đa dạng, góp phần tạo nên tiềm năng lớn để phát triển
ngành du lịch trên địa bàn.
2.2.4.3. Ẩm thực
TP. HCM cũng là một trong những trung tâm văn hóa ẩm thực lớn của cả
nước. Đây là nơi hội tụ các món ăn đặc sản rất đa dạng và đặc sắc của ba miền Bắc
- Trung - Nam. Bên cạnh đó còn có nhiều món ăn hiện đại của cả phương Đông và
phương Tây.
Đến Quận 1, Quận 3 hay khu vực Chợ Lớn, du khách đều có thể thưởng thức
các món ăn ba miền như phở hay bún chả Hà Nội, bún bò Huế, mì Quảng, hủ tiếu
Nam Vang, đặc sản Trảng Bàng, bánh xèo Nam Bộ hay bò tơ Củ Chi, Du khách
cũ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_08_28_2615622550_2932_1872312.pdf