Luận văn Năng lực công chức văn phòng thống kê cấp xã trên địa bàn thành phố Thủ Dầu một tỉnh Bình Dương

MỞ ĐẦU . 1

1. Tính cấp thiết của đề tài. 2

2. Tình hình nghiên cứu . 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 7

5. Phương pháp nghiên cứu . 7

6. Đóng góp mới của luận văn. 10

7. Bố cục luận văn. 11

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨC VÀ NĂNG LỰC CÔNG

CHỨC VĂN PHÒNG - THỐNG KÊ CẤP XÃ

1.1. Khái niệm về công chức và công chức VP-TK cấp xã . 12

1.2. Khái niệm về năng lực và năng lực công chức VP-TK . 13

1.3. Các yêu cầu của công chức VP-TK . 20

1.4. Vai trò, nhiệm vụ và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực công

chức VP-TK. 23

Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CÔNG CHỨC VĂN PHÒNG -

THỐNG KÊ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội TP Thủ Dầu Một . 30

2.2. Phân tích về thực trạng năng lực công chức VP-TK trên địa bàn

Thành phố Thủ Dầu Một . 32

2.3. Nhận xét, đánh giá chung về năng lực công chức VP-TK trên địa

bàn Thành phố Thủ Dầu Một. 49

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CÔNG CHỨC VĂN

PHÒNG THỐNG KÊ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT

pdf100 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Năng lực công chức văn phòng thống kê cấp xã trên địa bàn thành phố Thủ Dầu một tỉnh Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắc, cứng nhắc: 26,6% 5 Các kỹ năng mà công chức VP-TK còn yếu Kỹ năng soạn thảo văn bản; Kỹ năng văn thư, lưu trữ; Kỹ năng tổ hiện nay chức cuộc họp; Kỹ năng báo cáo; Kỹ năng tham mưu; Kỹ năng giao tiếp; Kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm; Kỹ năng giải quyết vấn đề; Kỹ năng thích ứng với môi trường và công nghệ mới; Kỹ năng học và tự học; Kỹ năng tư duy, sáng tạo. Bảng 3: Tổng hợp kết quả khảo sát về kỹ năng giải quyết công việc Hiện nay, nhìn chung công chức VP-TK Thành phố Thủ Dầu Một cũng có nhiều tích cực trong việc phấn đấu vượt qua những khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tích cực trong công tác tham mưu cho lãnh đạo phường, có khả năng xây dựng các chính sách đúng và tham mưu để lãnh đạo chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Tuy nhiên, tính nhạy bén chủ động chưa cao, một số công chức còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, một số mặt còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, sự thành thạo trong công việc của một số công chức còn hạn chế từ đó đã ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ủy ban nhân dân phường nên hiệu quả công việc đôi lúc chưa được như mong muốn. Căn cứ vào bảng thống kê đánh giá có thể thấy, chất lượng công chức VP-TK hiện nay còn nhiều hạn chế, các tiêu chí đánh giá tương đối thấp (hầu hết đều nằm dưới mức 50%). Chẳng hạn như: Tinh thần trách nhiệm của công chức VP-TK giải quyết công việc cũng là điều đáng phải quan tâm, vì kết quả cho thấy có đến 70,3% lãnh đạo và đồng nghiệp được khảo sát đánh giá ở mức bình thường, vẫn còn 22,6% đánh giá là thiếu trách nhiệm. Điều này chứng tỏ rằng vẫn còn những công chức thiếu trách nhiệm hoặc tinh thần trách nhiệm chưa cao trong quá trình giải quyết công việc được giao. Sự linh hoạt, nhạy bén của công chức VP-TK cũng chỉ được đánh giá ở mức trung bình là 68,6%, vẫn còn đến 26,6% đánh giá ở mức độ nguyên tắc, cứng nhắc, điều này có nghĩa họ còn thiếu kỹ năng giao tiếp, thiếu sự linh hoạt trong giải quyết công việc. Khả năng giải quyết công việc nhanh, chính xác và hiệu quả cũng chỉ được đánh giá ở mức trung bình là 87,5%, còn 12,5% đánh giá ở mức độ tương đối chậm. Khả năng nắm bắt các văn bản của Đảng và Nhà nước trong giải quyết công việc tương đối thấp, có đến 70% đánh giá là tạm được và có đến 30% đánh giá là còn yếu kém. Từ những kết quả trên có thể thấy được một thực trạng là đa số công chức VP-TK còn thiếu sự thành thạo trong công việc, dẫn đến kết quả công việc vẫn còn nhiều sai sót, chưa có phương pháp làm việc khoa học, chưa nhạy bén trong công việc, chưa có cách giải quyết công việc một cách linh hoạt. Đó là những hạn chế lớn mà công chức VP-TK còn mắc phải trong thời gian vừa qua. Một trong những yếu tố cấu thành năng lực công chức VP-TK chính là kỹ năng. Nhờ các kỹ năng mà công chức VP-TK có thể thực hiện tốt công việc của mình. Các kỹ năng giúp cho người công chức có thể chủ động vượt qua khó khăn, thách thực, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các nhiệm vụ trong thực tiễn. Qua khảo sát, có thể thấy rằng hiện nay công chức VP-TK đều yếu toàn diện các kỹ năng, hầu hết tất cả các kỹ năng được khảo sát đều được đánh giá ở mức yếu kém còn chiếm tỷ lệ cao như: kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng tổ chức cuộc họp, kỹ năng báo cáo, kỹ năng tham mưu, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng thích ứng với môi trường và công nghệ mới, kỹ năng tư duy, sáng tạo. Bên cạnh khảo sát bằng phiếu điều tra, khảo sát đối với lãnh đạo và đồng nghiệp của công chức này thì tác giả cũng thực hiện phương pháp phỏng vấn sâu. Bằng phương pháp này, chính những người công chức VP-TK đã cho biết bản thân họ thực sự còn cảm thấy yếu kém về những kỹ năng như: kỹ năng tổng hợp, báo cáo, kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng tham mưu, kỹ năng thích ứng với công nghệ mới, kỹ năng tra cứu và tìm hiểu văn bản mới. Họ tự đánh giá bản thân mình về những kỹ năng trên còn chưa thành thạo, đôi khi còn tỏ ra yếu kém trong quá trình làm việc. Chính những điều này lý giải vì sao thời gian qua năng lực công chức này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc trong cơ chế mới, bởi vì kết quả công việc có đạt hiệu quả hay không thì chính các kỹ năng vốn có của người công chức là một trong những yếu tố quyết định hàng đầu, vẫn còn tình trạng một số công chức VP-TK có trình độ cao nhưng làm việc lại không hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, thậm chí còn lúng túng trong xử lý các tình huống phát sinh trong công việc. Và tất cả những điều này chính là do những công chức này còn thiếu và yếu các kỹ năng về nghiệp vụ. Mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng được tăng cường, số lượng công chức VP-TK được qua các lớp, khóa đào tạo, bồi dưỡng cũng nhiều nhưng chất lượng về kỹ năng nghiệp vụ hành chính thì lại không được nâng lên. Nguyên nhân một phần là do phương thức đào tạo chủ yếu theo chức nghiệp, nhằm vào việc tiêu chuẩn hóa chức danh công chức chứ chưa chú trọng đầy đủ những kiến thức và kỹ năng thực tế để xây dựng cho công chức VP-TK có năng lực thực hiện tốt hơn công việc và nhiệm vụ được giao. Thực trạng công tác đào tạo này đang gây ra tình trạng thiếu hụt về năng lực thực hiện công việc của công chức này và so với yêu cầu nhiệm vụ nhằm đáp ứng các mục tiêu phát triển của Thành phố Thủ Dầu Một trong tương lai. Có thể thấy, suy cho cùng thì bằng cấp, chứng chỉ tăng nhưng chất lượng về chuyên môn của mỗi công chức vẫn chưa tăng theo yêu cầu của công việc. Vì vậy, để đạt được hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước của UBND phường, đòi hỏi công chức VP-TK phải đổi mới về kiến thức, nghiệp vụ, kỹ năng và nâng cao trách nhiệm của mình để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về năng lực, trình độ trong quá trình giải quyết công việc và tạo sự tin tưởng cho người dân và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra từng ngày trên địa bàn Thành phố Thủ Dầu Một. 2.2.3. Độ tuổi và kinh nghiệm công tác Stt Độ tuổi Số lƣợng công chức Tỷ lệ (%) Ghi chú 1 Dưới 30 06 22,2 2 Từ 31 đến 45 18 66.7 3 Từ 46 đến 55 03 11,1 4 Trên 55 00 00 Tổng cộng 27 100 Bảng 4: Độ tuổi của công chức VP-TK (Nguồn: Phòng Nội vụ Thành phố Thủ Dầu Một) Stt Thâm niên công tác Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) Ghi chú 1 Dưới 5 năm 8 29,7 2 Từ 6 đến 15 năm 19 70,3 3 Từ 16 đến 30 năm 00 00 4 Trên 30 năm 00 00 Thời gian giữ chức vụ 5 Dưới 5 năm 17 63 6 Từ 6 đến 10 năm 07 26 7 Trên 10 năm 04 11 Bảng 5: Thâm niên công tác của công chức VP-TK (Nguồn: Phòng Nội vụ Thành phố Thủ Dầu Một) Dựa vào bảng thống kê số 4 cho thấy, hầu hết công chức VP-TK trong độ tuổi từ 31 đến 45 tuổi (chiếm tỷ lệ 66,7%), lực lượng này có sự trưởng thành về chuyên môn và kinh nghiệm công tác, nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Tuy nhiên, 22,2% những công chức VP-TK còn lại ở lứa tuổi 30 trở xuống, lực lượng này đa phần mới được tuyển dụng chưa được thử thách nhiều, chưa trải qua nhiều công việc khác nhau, bố trí công tác theo sở trường hoặc chuyên môn đào tạo và ít có thuyên chuyển sang một vị trí khác, lĩnh vực khác hay phường khác như những công chức lớn tuổi, do đó những công chức này thường thiếu kinh nghiệm công tác và thiếu bản lĩnh chính trị hơn lứa tuổi đàn anh đi trước. Dựa vào bảng thống kê số 5 về kinh nghiệm và thâm niên công tác thì đa số công chức VP-TK có thâm niên công tác từ 6-10 năm là chiếm số đông (70,3%), nên phần lớn là công chức lớn tuổi, mặc dù chúng ta vẫn biết rằng điểm mạnh của công chức VP-TK lớn tuổi là họ có sự trưởng thành và giàu kinh nghiệm trong công việc, trong quản lý và trong quan hệ giao tiếp sẽ dễ dàng tạo được sự tin tưởng và uy tín đối với đồng nghiệp và những người trẻ tuổi. Tuy nhiên, trong giải quyết công việc và xử lý tình huống mới vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, vì còn nặng về chủ nghĩa kinh nghiệm, giáo điều, sức ỳ quá lớn, ngại học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thiếu nhiệt huyết và tính năng động, sáng tạo. Nhìn chung, với hai tiêu chí về độ tuổi và thâm niên công tác trên có thể thấy công chức VP-TK Thành phố Thủ Dầu Một cũng đáp ứng phần nào việc trẻ hoá, nhưng về thâm niên công tác dưới 5 năm và từ 6 - 10 năm chưa ngang nhau, điều này cũng có nguy cơ dẫn đến sự hụt hẫng về lực lượng kế thừa sau này. Đồng thời, số lượng công chức VP-TK giữ chức vụ với thời gian ngắn còn chiếm tỷ lệ tương đối cao, điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hiệu quả công việc đạt được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao vì thời gian công tác càng ngắn thì càng ít kinh nghiệm làm việc và chất lượng giải quyết công việc cũng sẽ càng giảm nếu xét ở một góc độ nào đó đối với công chức VP-TK. 2.2.4. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ Stt Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Năm 2014 Năm 2017 Ghi chú Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) 1 Chưa qua đào tạo 03 11,1 0 0 2 Sơ cấp 02 7,4 0 0 3 Trung cấp 02 7,4 01 3,7 4 Cao đẳng 05 18,5 7 25,9 5 Đại học 06 55,6 18 66,6 6 Sau Đại học 0 0 01 3,7 Tổng số 18 100 27 100 Bảng 6: Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức VP-TK (Nguồn: Phòng Nội vụ Thành phố Thủ Dầu Một) Stt Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Năm 2014 Năm 2017 Ghi chú Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) 1 Đúng chuyên môn 03 16,7 06 22,2 2 Trái chuyên môn 15 83,3 21 77,8 Tổng số 18 100 27 100 Bảng 7: Độ phù hợp của chuyên ngành đào tạo công chức VP-TK (Nguồn: Phòng Nội vụ Thành phố Thủ Dầu Một) Bảng tổng hợp số 6 về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của công chức VP-TK qua các năm 2014 đến 2017 ta có thể thấy, trình độ học vấn của công chức VP-TK cũng tăng lên đáng kể (số lượng công chức đạt trình độ đại học từ 55,6% năm 2014 lên 66,6% năm 2017). Số lượng công chức VP-TK có trình độ đại học 66,6% vẫn còn là khá thấp nếu xét trên bình diện yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Thủ Dầu Một trong thời gian tới. Như vậy là còn chưa xét đến yếu tố đa số các bằng đại học của công chức này hiện nay là bằng tại chức, vừa học vừa làm, số lượng bằng đại học chính quy khá khiêm tốn. Trong quy hoạch phát triển một Thành phố công nghiệp với các khu công nghiệp, dịch vụ trình độ cao, trình độ kinh tế xã hội sẽ phát triển vượt bậc thì đòi hỏi công chức VP- TK có đủ trình độ ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kỳ mới, do đó yêu cầu số lượng công chức VP-TK phải có trình độ đại học nhiều hơn nữa. Trong khi đó, hiện nay số lượng công chức VP-TK có trình độ cao đẳng và trung cấp còn chiến một tỷ lệ khá lớn (tổng cộng 29,6%) thì chưa thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra từng ngày trên địa bàn Thành phố. Mặc dù số lượng công chức đạt trình độ đại học chiếm 66,6% năm 2017 tuy nhiên có đến 77.8% số lượng công chức VP-TK có chuyên ngành đào tạo không phù hợp với chức danh công việc. Đây là số lượng đáng chú ý khi lực lượng này giữ nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo, cũng chính là lực lượng thừa hành công vụ sau khi các công việc cũng như các vấn đề tham mưu đã được phê duyệt, hiện tại có thể đáp ứng công việc về quản lý hành chính, nhưng về lâu dài thì công chức này sẽ gặp nhiều khó khăn do bị hạn chế về trình độ chuyên môn không phù hợp với công việc được giao, đây sẽ là rào cản lớn để có thể nâng cao trình độ năng lực, vì kết quả thực hiện công việc cũng là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực của mỗi cá nhân. Có thể nói, trình độ của công chức VP-TK trên địa bàn Thành phố Thủ Dầu Một được đánh giá vẫn còn thấp và chưa phù hợp so với yêu cầu thực tế đặt ra và cũng là một trong những nguyên nhân thể hiện sự yếu kém về năng lực. Đây là một tín hiệu đáng quan tâm đối với trọng trách quản lý nguồn nhân lực của chính quyền các cấp. Nếu không có giải pháp tích cực nâng cao trình độ toàn diện cho công chức VP-TK ảnh hưởng lớn đến mục tiêu phát triển và hạn chế tốc độ phát triển kinh tế xã hội của Thành phố hiện nay và trong thời gian tới. 2.2.5. Trình độ lý luận chính trị Stt Trình độ lý luận chính trị Năm 2014 Năm 2017 Ghi chú Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) 1 Chưa qua đào tạo 06 33,3 20 74,1 2 Sơ cấp 08 44,4 0 0 3 Trung cấp 04 22,3 07 25,9 4 Cao cấp 0 0 00 0 Tổng số 18 100 27 100 Bảng 8: Trình độ lý luận chính trị của công chức VP-TK (Nguồn: Phòng Nội vụ Thành phố Thủ Dầu Một) Bảng 8 về trình độ lý luận chính trị của công chức VP-TK cho thấy, trình độ lý luận chính trị của công chức VP-TK qua các năm đã có những bước phát triển, tuy nhiên cũng còn có những hạn chế nhất định, mức lý luận chính trị chưa qua đào tạo vẫn còn chiếm tỷ lệ không nhỏ 74,1% (năm 2017) điều này đã ảnh hưởng ít nhiều đến năng lực làm việc của công chức này. Hiện nay một số công chức VP-TK tại các phường vẫn còn những biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, không có lập trường tư tưởng vững vàng trước những cám dỗ về vật chất và danh vọng dẫn đến làm trái, làm sai các quy định của nhà nước, tham ô, tham nhũng cũng là do nhận thức, kiến thức về chính trị còn hạn chế. Và chính những hạn chế này đã làm cho những công chức này gặp nhiều khó khăn trong xử lý các tình huống phát sinh, vì khi không nắm vững được lập trường quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thì không thể xử lý tốt mọi công việc được. 2.2.6. Trình độ lý quản lý nhà nước Stt Trình độ quản lý nhà nƣớc Năm 2014 Năm 2017 Ghi chú Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) 1 Chưa qua đào tạo 12 66,7 16 59,3 2 Sơ cấp 04 22,2 04 14,8 3 Trung cấp 02 11,1 02 7,4 4 Cao cấp 0 0 0 0 5 Cử nhân 0 0 05 18,5 Tổng số 18 100 27 100 Bảng 9: Trình độ quản lý nhà nước của công chức VP-TK (Nguồn: Phòng Nội vụ Thành phố Thủ Dầu Một) Bảng 9 về trình độ quản lý nhà nước của công chức VP-TK cho thấy số lượng công chức VP-TK tại các phường trên địa bàn chưa có trình độ quản lý nhà nước còn ở mức khá cao (năm 2014 chiếm đến 66,7% và năm 2017 chiếm 59,3%), điều này cho thấy rằng công chức này còn thiếu kiến thức chuyên môn về quản lý nhà nước nên dễ dẫn đến tình trạng công chức sẽ không nắm hết chức năng, nhiệm vụ được giao, không nắm rõ các văn bản, các quy định pháp luật, không đảm bảo được chất lượng công việc cũng như yêu cầu quản lý nhà nước. Do chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về pháp luật, kiến thức quản lý hành chính nhà nước, chưa được hoặc ít được huấn luyện về kỹ năng thực hành công vụ nên trong nhiều trường hợp công chức VP-TK giải quyết công việc, xử lý vụ việc dựa vào kinh nghiệm, chủ quan, không rõ chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mình, không nắm chắc quy trình và nguyên tắc giải quyết từng công việc cụ thể. Trong khi đó, công chức VP-TK tại các phường là người trực tiếp làm công tác tham mưu cho lãnh đạo những hầu hết những vấn đề liên quan đến tình hình kinh tế xã hội địa phương cũng như sự phát triển của ủy ban nhân dân phường, mà trình độ quản lý nhà nước hạn chế sẽ dẫn đến tình trạng công tác tham mưu sẽ thiếu hiệu quả, sai lầm, từ đó sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của cả tập thể ủy ban nhân dân và kinh tế xã hội địa phương. Và đây cũng là một trong những lý do cấp xã Thành phố Thủ Dầu Một chưa thể có những công chức VP-TK đủ trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu công việc, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới và hạn chế đến hiệu quả của cả Ủy ban nhân dân. 2.2.7. Trình độ ngoại ngữ, tin học Stt Trình độ ngoại ngữ, tin học Ngoại ngữ Tin học Ghi chú Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) 1 Chưa qua đào tạo 04 14,8 03 11,1 2 Chứng chỉ A 07 26,9 11 40,7 3 Chứng chỉ B 16 58,3 13 48,2 4 Tổng số 27 100 27 100 Bảng 10: Trình độ ngoại ngữ và tin học của công chức VP-TK (Nguồn: Phòng Nội vụ Thành phố Thủ Dầu Một) Bảng 10 về trình độ ngoại ngữ và tin học của công chức VP-TK cho thấy có đến 14,8% số lượng công chức VP-TK tại các phường chưa qua đào tạo về trình độ ngoại ngữ, còn lại phần lớn đều có chứng chỉ A ngoại ngữ trở lên, tuy nhiên một thực trạng đáng quan tâm là qua phương pháp phỏng vấn sâu thì hầu hết trong số công chức này không có khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ, đây là một thực tế chung rất đáng báo động đối với cán bộ công chức nói chung và đối với công chức VP-TK nói riêng đặc biệt trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay. Có 48,2% công chức VP-TK tại các phường được trang bị kiến thức về tin học đạt chứng chỉ B, còn lại là trình độ tin học đạt chứng chỉ A, vẫn còn tồn tại 11,1% công chức chưa qua đào tạo về trình độ tin học. Thực trạng là các công chức VP-TK lớn tuổi hiện nay không sử dụng được vi tính hoặc sử dụng vi tính còn kém, dẫn đến làm việc còn thủ công tốn nhiều thời gian hoặc soạn thảo văn bản có nhiều sai sót, chưa theo đúng thể thức văn bản quản lý hành chính nhà nước. Đồng thời, việc hạn chế về trình độ tin học trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay sẽ là một rào cản trong việc cấp nhật những thông tin mới, đặc biệt là việc tra cứu những văn vản mới của Đảng và Nhà nước, từ đó sẽ là nguyên nhân gây nên sự tụt hậu cũng như hạn chế về trình độ đối với công chức VP-TK. Đây là một lỗ hỏng lớn trong kỹ năng vận hành công việc của công chức chuyên môn ở cơ sở. Tỷ lệ công chức VP-TK có trình độ ngoại ngữ, tin học nhìn chung về cơ bản đã và đang dần chuẩn hóa được, tuy nhiên thực tế vẫn còn chưa thật sự đáp ứng được so với yêu cầu đặt ra của thời kỳ hội nhập và phát triển, và đặc biệt chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Thủ Dầu Một thời gian qua và trong tương lai, đây cũng là một trong những đểm hạn chế lớn của những công chức này. 2.2.8. Thái độ làm việc Stt Tiêu chí đánh giá Kết quả đánh giá Ghi chú 1 Thái độ của công chức VP-TK khi tiếp xúc Nhiệt tình: 16,7% với người dân trong giải quyết công việc Tạm được: 37,1% Quan liêu, hách dịch: 46,2% 2 Phẩm chất đạo đức, lối sống của công chức VP-TK Rất tốt: 0% Tốt: 29% Bình thường: 62,5% Tha hóa, suy thoái: 7,5% Bảng 11: Kết quả khảo sát về thái độ làm việc của công chức VP-TK Một trong những nhiệm vụ của công chức VP-TK tại các phường là nhận đơn thư khiếu nại tố cáo, tổ chức tiếp công dân và tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của người dân; tham gia bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả, cùng với các công chức khác tham gia giải quyết công việc tại bộ phận “một cửa” nên thường xuyên tiếp xúc với người dân. Tuy vậy, đối với những phường chỉ có 01 công chức VP-TK thì công chức này không tham gia bộ phận một cửa phường Chánh Nghĩa, phường Chánh Mỹ), do đó, tác giả đã tiến hành khảo sát người dân tại 10 phường còn lại trên địa bàn Thành phố Thủ Dầu Một. Qua kết quả khảo sát người dân đánh giá thái độ của công chức này khi tiếp xúc với người dân để giải quyết công việc, thì mức nhiệt tình chỉ có 16,7%, một kết quả không cao, nhất là khi chúng ta đang thực hiện chương trình cải cách hành chính nhà nước, đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” như hiện nay. Vẫn có đến 46,2% cho rằng họ còn quan liêu, hách dịch, một con số tương đối lớn, điều này chứng tỏ mức độ hài lòng của người dân về thái độ, tinh thần phục vụ, kết quả làm việc của công chức này còn rất thấp. Cụ thể như thái độ, tinh thần phục vụ của một số công chức thường thể hiện vẻ vô cảm, trong giao tiếp hành chính thì ít niềm nở, còn hạch họe, quan trọng hóa, đòi hỏi gây khó khăn, kết quả làm việc thường chậm. Một trong những yếu tố cấu thành năng lực chính là phẩm chất đạo đức, thái độ của người công chức, tuy nhiên dựa vào bảng kết quả khảo sát cho thấy một thực trạng là có đến 62,5% người dân cho rằng phẩm chất đạo đức của công chức VP-TK ở mức bình thường và có đến 7,5% ở mức suy thoái. Điều này cho thấy, số công chức VP-TK có phẩm chất đạo đức, lối sống được đánh giá tốt không nhiều, mặc dù hiện nay chúng ta đã thực hiện chương trình cải cách hành chính khá lâu. 2.3. Nhận xét, đánh giá chung về năng lực công chức Văn phòng - thống kê trên địa bàn Thành phố Thủ Dầu Một 2.3.1. Những điểm mạnh Những năm qua, trình độ năng lực của công chức VP-TK có thể nói được nâng lên một bước. Điều đó chứng tỏ sự nỗ lực rất lớn của địa phương tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ cho công chức VP-TK. Mặt khác, cũng nói lên sự nỗ lực của chính bản thân họ đã vươn lên để tiếp thu những cái mới. Đến nay, trình độ học vấn của công chức VP-TK so với trước kia đã tăng lên rõ rệt. Số người có trình độ đại học, cao đẳng cũng được tăng lên. Công chức VP-TK trên địa bàn Thành phố Thủ Dầu Một phần lớn là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng Xã hội chủ nghĩa và đường lối đổi mới của Đảng, có ý thức độc lập tự chủ. Thời gian qua, cùng với quá trình phát triển của tỉnh, số lượng và chất lượng, cán bộ trẻ được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ ngày càng tăng, từng bước đáp ứng được yêu cầu của địa phương. Cùng với trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì trình độ kiến thức về lý luận chính trị và quản lý nhà nước, quản lý kinh tế cũng được nâng lên. Qua điều tra xã hội học cho thấy hầu hết số công chức được hỏi đều khẳng định nhờ những kiến thức được trang bị qua đào tạo, bồi dưỡng ở các trường mà năng lực làm việc của họ đã được nâng lên. Trong đó phần lớn số công chức cho rằng kiến thức quản lý nhà nước và pháp luật tiếp thu ở nhà trường đã giúp họ nâng cao năng lực công tác, một phần khác lại cho rằng đó là nhờ tiếp thu các chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương hoặc là nhờ nâng cao trình độ văn hóa. Năng lực tư duy công chức VP-TK cũng được nâng lên, bước đầu họ có khả năng vận dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn ở địa phương. Đa số họ cũng quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế (công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp), giáo dục, y tế, an ninh - quốc phòng, giáo dục chính trị tư tưởng là những vấn đề đặt ra cấp bách và thực tế ở địa phương. 2.3.2. Những hạn chế Một bộ phận công chức VP-TK không thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng chính trị, đã giảm sút ý chí chiến đấu, có biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, dao động về mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ tổ chức và công dân; tác phong làm việc còn quan liêu, không sát công việc, sát tình hình thực tế cơ sở, có biểu hiện lơ là, khi giải quyết công việc gây khó khăn cho tổ chức và công dân. Một số khác thoái hóa biến chất về đạo đức lối sống, ngại đấu tranh va chạm, không nghiêm túc tự phê bình và phê bình, thiếu dân chủ trong sinh hoạt. Còn biểu hiện ngại va chạm, né tránh những vụ việc phức tạp, khó khăn; vẫn còn hiện tượng nể nang trong giải quyết công việc khiến hiệu quả công việc không cao. Tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật còn kém, phong cách làm việc chậm đổi mới, tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân chưa tốt; tình trạng sách nhiễu dân chưa được ngăn chặn một cách triệt để. Bên cạnh đó do trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số công chức còn hạn chế nên khả năng giải quyết công việc của công chức VP-TK chưa phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ trong thời kỳ mới, nhất là việc cụ thể hóa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào tình hình cụ thể của địa phương, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề nảy sinh phức tạp theo thẩm quyền, tính tự chủ trong công việc còn hạn chế. Một số công chức lười học tập, ít rèn luyện, đã bộc lộ những yếu kém bất cập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, giải quyết công việc còn lúng túng thiếu sự nhạy bén, năng động, thường dựa vào những kinh nghiệm đã không còn phù hợp. Hơn nữa nhận thức của những công chức này hiện nay chưa đồng đều, thiếu chủ động sáng tạo trong việc vận dụng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào công việc thực tiễn. Trong giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, tùy tiện theo cảm tính cá nhân. Vẫn còn nhiều bất cập, tuyển dụng đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu công việc và sử dụng. Cơ chế quản lý sử dụng và chế độ chính sách còn nhiều bất hợp lý nên chưa tạo được động lực khuyến khích công chức VP-TK nâng cao tinh thần trách nhiệm phấn đấu học tập, rèn luyện bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức. 2.3.3. Nguyên nhân những hạn chế Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém về năng lực công chức VP-TK cấp xã trên địa bàn Thành phố Thủ Dầu Một thời gian qua, tuy nhiên ta có thể rút ra một số nguyên nhân cơ bản như sau: - Về công tác đào tạo, bồi dưỡng: qua bảng thống kê có thể thấy, công tác đào tạo bồi dưỡng đối với công chức VP-TK ít được quan tâm và không được quan tâm chiếm tỷ lệ tương đối lớn (74% cho rằng ít được quan tâm và 26% cho rằng không được quan tâm). Có thể nói, trong những năm qua, tỉnh Bình Dương cũng rất quan tâm đến việc n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_nang_luc_cong_chuc_van_phong_thong_ke_cap_xa_tren_d.pdf
Tài liệu liên quan