MỤC LỤC .I
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.IV
DANH MỤC BẢNG . V
DANH MỤC HÌNH.VI
MỞ ĐẦU. 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN . 5
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẬT LIỆU NANO TIO2 TRONG VÀ
NGOÀI NƯỚC. 5
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước. 5
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài . 7
1.2. GIỚI THIỆU VỀ VẬT LIỆU NANO TIO2. 8
1.2.1. Cấu trúc tinh thể của vật liệu nano TiO2 . 8
1.2.2. Tính chất vật lý và hóa học của TiO2 . 11
1.2.3. Hoạt tính quang xúc tác của vật liệu TiO2. 13
1.2.4. Các phương pháp tổng hợp TiO2. 16
1.2.5. Ứng dụng của TiO2 kích thước nano. 21
1.2.6. Các chất mang nano TiO2 . 24
1.3. GIỚI THIỆU VỀ VẬT LIỆU MAO QUẢN TRUNG BÌNH SBA-15. 27
1.3.1. Vật liệu mao quản trung bình. 27
1.3.2. Vật liệu mao quản trung bình SBA-15. 28
1.3.3. Ứng dụng của vật liệu mao quản trung bình SBA-15. 29
1.4. GIỚI THIỆU VỀ KHÁNG SINH NORFLOXACIN. 30
1.4.1. Đặc điểm và tính chất của Norfloxacin. . 30
1.4.2. Tính chất dược động học của Norfloxacin . 31
111 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 02/03/2022 | Lượt xem: 385 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu tổng hợp xúc tác nano titan đioxit mang trên vật liệu mao quản trung bình sba - 15 và ứng dụng trong xử lý kháng sinh norfloxacin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giai đoạn thứ hai có thể kể
đến là sự phát hiện của nhóm Zhao và cộng sự về việc sử dụng các polym
trung hòa điện như những chất ĐHCT để tổng hợp họ vật liệu SBA-15 [17].
Vật liệu này có đường kính mao quản đồng đều với kích thước lớn hơn 3 - 4
lần kích thước mao quản zeolit và diện tích bề mặt riêng có thể lớn hơn 800
m2 /g. Một ưu điểm của họ vật liệu SBA-15 là có kích thước mao quản lớn,
tường mao quản dày nên có tính bền nhiệt và thủy nhiệt cao. Vì thế, họ vật
liệu SBA-15 có thể mở ra một chương mới trong việc ứng dụng các vật liệu
mao quản trong thực tiễn. Nói chung, lịch sử tổng hợp vật liệu MQTB trật tự
gắn liền với việc phát hiện các chất ĐHCT. Kích thước mao quản tăng theo
kích thước phân tử chất ĐHCT. Với những phân tử amin hoặc muối amin đơn
giản, như tri thylamin , mao quản tương ứng được tạo ra là nhỏ. Những chất
có kích thước phân tử lớn hơn, như các chất hoạt động bề mặt
cetyltrimethylamonium bromua, có thể tạo ra mao quản có kích thước lớn có
thể đến 2-3 nm. Trong lúc đó, với chất ĐHCT lớn hơn, như những polyme
poly(ethylen oxit)-poly(propylen oxit)-poly(ethylen oxit) thì mao quản được
tạo ra có thể lên đến vài chục nano mét.
28
1.3.2. Vật liệu mao quản trung bình SBA-15
Năm 1998, Zhao và cộng sự [17] đã công bố một loại vật liệu mới ký
hiệu là SBA-15. Đây là vật liệu silic dioxit MQTB trật tự có đối xứng lục lăng
được tổng hợp bằng cách sử dụng các polym không mang điện poly(ethylen
oxit)-poly(propylen oxit)-poly(ethylen oxit) (Pluronic, EOyPOxEOy), như
những chất ĐHCT trong môi trường axit. Đường kính mao quản nằm trong
khoảng 2-30 nm và bề dày tường có thể lên đến 6 nm. SBA-15 điển hình được
tổng hợp bằng cách dùng chất ĐHCT Pluronic P123 (EO20PO70EO20) ở nhiệt
độ từ 35oC đến 80oC. Người ta nhận thấy rằng khi nồng độ của P123 cao hơn
6%, chỉ có gel silic dioxit tạo thành. Ngược lại, khi nồng độ P123 dưới 0,5%
chỉ có tạo thành silic dioxit vô định hình. SBA-15 được tạo thành trong môi
trường pH < 1 (với axit HCl, HBr, HI, H2SO4). Tại giá trị pH từ 2-6, trên
điểm đẳng điện của silic dioxit (pH = 2,2), không có sự tạo thành silic dioxit
gel. Tại pH trung tính khoảng 7, chỉ có silic dioxit vô định hình hay MQTB
kém trật tự tạo thành. Tetraethoxysilane(TEOS), tetramethoxysilane(TMOS)
và tetraproxysilane(TPOS) là những nguồn cung cấp silic thích hợp cho việc
điều chế SBA-15.
Theo Zhao và cộng sự [17] cơ chế của sự tạo thành SBA-15 đi qua hợp
chất trung gian (SoH+ )(XI+ ), trong đó So là chất hoạt động bề mặt, H+ là
proton, X- là anion axit, và I+ là các mẫu Si-OH bị proton hóa. Các phân tử
chất hoạt động bề mặt bị proton hóa được tổ chức dưới dạng một cấu trúc mix
n hình trụ. Chúng hoạt động như những chất ĐHCT và kết hợp với các cation
oxit silic bởi sự kết hợp của những tương tác tĩnh điện, liên kết hydro và van
der Waals. Bằng việc sử dụng phổ cộng hưởng từ điện tử (electron
paramagnetic resonance), Ruthstein và cộng sự [18] đã đưa ra mô hình về cấu
trúc của SBA-15 trước giai đoạn thủy nhiệt (hình 1.7). Trong mô hình này,
phần đen nhạt là của oxit silic, phần đen đậm tương ứng các chuỗi PEO, còn
phần trắng là của các chuỗi PPO. Giai đoạn xử lý nhiệt sau đó sẽ làm giảm
mức độ chuỗi của PEO trong oxit silic, vì thế làm giảm độ dày tường và làm
tăng kích thước mao quản. Mô hình này cũng giải thích sự hình thành các hệ
thống vi mao quản trong tường SBA-15 do PEO tạo nên.
29
Hình 1.7. Mô hình được đề nghị cho cấu trúc SBA-15 sau phản ứng ở
50oC trước khi thủy nhiệt
1.3.3. Ứng dụng của vật liệu mao quản trung bình SBA-15
1.3.3.1. Hấp phụ
SBA-15 với diện tích bề mặt lớn, có thể lên đến 800 m2/g, và kích
thước mao quản rộng, đồng đều rất thích hợp để làm vật liệu hấp phụ. Đặc
biệt, SBA-15 còn có cấu trúc vi mao quản trong thành nên còn có khả năng
phân tách các hidrocacbon nhẹ [19]. Không những thế, người ta có thể tạo ra
hai hệ mao quản này một cách độc lập với nhau do đó có thể đưa các nhóm
chức vô cơ hay hữu cơ khác nhau lên mỗi hệ mao quản từ đó tạo ra tính chất
bề mặt khác nhau. Chang và cộng sự [20] đã nghiên cứu và chỉ ra rằng vật
liệu SBA-15 với tính chất bề mặt mang điện tích âm trong môi trường có pH
> 2 thích hợp sử dụng hấp phụ các cation thuốc nhuộm trong môi trường
nước. Với những đối tượng cần hấp phụ cụ thể, người ta có thể gắn các nhóm
chức tương ứng lên trên bề mặt SBA-15.
1.3.3.2. Chất nền cho xúc tác
Nhờ có độ bền nhiệt và thủy nhiệt cao (do thành mao quản dày) nên
SBA-15 rất thích hợp cho các quá trình xúc tác trong điều kiện khắc nghiệt.
Như một ví dụ, người ta đã dùng SBA-15 được tẩm ZrO2 làm chất nền cho hệ
xúc tác CuO/CO2 cho quá trình oxi hóa CO thành CO2 trong môi trường giàu
hydro. Hệ xúc tác này có độ chuyển hóa rất cao, lên đến 100% và ưu tiên
chọn lọc tạo CO2 [21]. Những nghiên cứu mới nhất cho thấy chất xúc tác Ni-
WS2 trên chất nền SBA-15 cho hiệu suất cao hơn 1,4 lần trong quá trình xử lý
30
lưu huỳnh bằng hidro dib nzothioph n và cao hơn 7,3 lần trong quá trình xử lý
hidro của toluen so với chất xúc tác CoMo/Al2O3 thương phẩm [22].
1.3.3.3. Xúc tác
Do bản thân oxit silic có cấu trúc SBA-15 trung hòa điện và không có
tâm axit vì vậy đã có rất nhiều kim loại khác nhau được thử nghiệm để thay
thế vào mạng lưới của SBA-15 nhằm tạo hoạt tính xúc tác mong muốn
[22][23][24].
1.3.3.4. Tổng hợp vật liệu mới
Vật liệu mao quản trung bình SBA-15 có một hệ thống mao quản đồng
đều với đường kính nằm trong khoảng 2 - 30 nm. Đây có thể là một bình phản
ứng lý tưởng cho việc tạo các vật liệu nano. Nếu chúng ta điều khiển cho
phản ứng xảy ra trong hệ thống mao quản này thì sản phẩm có kích thước
nano bởi mao quản sẽ làm hạn chế sự phát triển hạt. Một số công trình đã
công bố tổng hợp thành công khi sử dụng hệ thống mao quản này. Đầu tiên,
người ta đưa các ion kim loại vào có thể bằng con đường trao đổi ion [25]
hoặc sau khi đã chức năng hóa bề mặt bởi các nhóm thiol hay amin. Sau đó,
các ion kim loại này được khử thành kim loại [26], hoặc cho tác dụng với một
chất khác tùy theo mục đích. Cuối cùng sản phẩm thu được có thể là các sợi
hoặc các hạt nano có những tính chất đặc biệt mà không tìm thấy ở dạng khối
(bulk). Bằng phương pháp này, người ta đã điều chế được những chất bán dẫn
ở dạng nano với những tính chất thú vị và có khả năng ứng dụng.
1.4. GIỚI THIỆU VỀ KHÁNG SINH NORFLOXACIN
1.4.1. Đặc điểm và tính chất của Norfloxacin.
Norfloxacin là kháng sinh thuộc loại 1- thế hệ thứ 2 của nhóm
Quinolone, một loại biệt dược Fluoroquinolone tổng hợp có tác dụng diệt
khuẩn với cả vi khuẩn ưa khí Gram dương và Gram âm.
Tên theo IUPAC: Axit 1 – etyl – 6 – flooro – 4 – oxo – 7 – piperazin –
1 – ylquinolin – 3 – carboxylic.
31
Hình 1.8. Cấu trúc phân tử của Norfloxacin
Tên thương mại: Noroxin, Chibroxin, Floxenor, Norofin, Norxacin
Công thức hóa học: C16H18FN3O3
Khối lượng phân tử: 319.331 g/mol
Nhiệt độ nóng chảy: 220 đến 221 oC (428 đến 430 oF)
Norfloxacin có dạng bột kết tinh màu trắng hoặc màu vàng nhạt, nhạy
cảm với ánh sáng rất khó tan trong nước, khó tan trong Aceton và Ethanol
96%.
Norfloxacin là một dược phẩm được sử dụng phổ biến trong điều trị các
bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu và đường hô hấp. Ở dạng dung dịch tra mắt,
norfloxacin được dùng trong điều trị viêm kết mạc, viêm mi mắt, viêm sụn mi
nhiễm khuẩn....
1.4.2. Tính chất dược động học của Norfloxacin
Nhóm dược lý: Thuốc chống nhiễm khuẩn, trị ký sinh trùng, kháng
virus, kháng nấm;
Tên biệt dược: Effectsal, Intasnor, Loravax;
Thành phần: Norfloxacin.
Norfloxacin ức chế DNA - gyrase, một enzym cần thiết cho sự sao chép
DNA của vi khuẩn.
Norfloxacin có tác dụng diệt khuẩn với cả vi khuẩn ưa khí Gram dương
và Gram âm. Norfloxacin có tác dụng với hầu hết các tác nhân gây bệnh
đường tiết niệu thông thường nhất như: Escherichia coli, Proteus mirabilis,
32
Staphylococcus saprophyticus. Ngoài ra, Norfloxacin cũng có tác dụng diệt
các khuẩn gây bệnh đường tiết niệu khác như Klebsiella spp., Enterobacter
spp., Proteus spp. indol dương, Pseudomonas aeruginosa và Streptococcus
faecalis.
Norfoxacin cũng diệt Salmonella spp., Shigella spp., Campylobacter
spp., Vibrio cholerae và Yersina enterocolitica, và các vi khuẩn có liên quan.
Nó còn có tác dụng diệt Neisseria gonorrhoeae (Cả các chủng tạo Penicilinase
hoặc không tạo ra Penicilinase). Chlamydia và các vi khuẩn yếm khí như
Bacteroides spp. không nhạy cảm với Norfloxacin.
Trong ống nghiệm, Norfloxacin ức chế đa số các chủng nhạy cảm gây
bệnh ở mắt như: Acinetobacter calcoaceticus, Aeromonas hydrophila,
Hemophilus influenzae, Staphylococcus aureus. Ða số các chủng
Pseudomonas aeruginosa bị ức chế bởi Norfloxacin ở nồng độ 4 microgam/ml
hoặc thấp hơn. Norfloxacin tác dụng yếu hơn Ciprofloxacin chống các chủng
gây bệnh nhạy cảm và cũng yếu hơn Ciprofloxacin trong một số mô hình
viêm giác mạc gây ra bởi Pseudomonas aeruginosa trong ống nghiệm. Sự đề
kháng đối với Norfloxacin truyền qua phân tử ADN vòng nhỏ chưa được xác
định
1.4.3. Ảnh hưởng của Norfloxacin tới môi trường
Cho đến nay, Norfloxacin và các loại kháng sinh khác đã được nghiên
cứu phát triển vô cùng mạnh mẽ để phục vụ cải thiện sức khỏe con người.
Bên cạnh ứng dụng trong việc chữa trị và phòng bệnh cho con người, các loại
kháng sinh cũng đã được sử dụng để ngăn ngừa và điều trị cho động vật, thực
vật cũng như đối với việc thúc đẩy tăng trưởng trong chăn nuôi gia súc. Tất cả
các hoạt động trên sẽ phát thải số lượng lớn dư lượng chất kháng sinh vào hệ
sinh thái. Cũng giống như kim loại nặng, kháng sinh là những hợp chất tự
nhiên có trong các hệ sinh thái khác nhau. Tuy nhiên, con người khi sử dụng
kháng sinh đã làm tăng khả dụng sinh học của chúng, dẫn đến những thay đổi
lớn trong hệ sinh thái, làm hệ sinh thái bị ô nhiễm. Khác với các kim loại
nặng, hậu quả của ô nhiễm kháng sinh đối với hệ sinh thái còn chưa được chú
ý tới.
33
Norfloxacin được tìm thấy nhiều trong các hệ sinh thái tự nhiên như
nước (Ví dụ: nước thải, nước ao hồ tự nhiên) và đất (Ví dụ: đất chưa được xử
lý). Những nơi có nồng độ cao hàm lượng kháng sinh dư thừa trong môi
trường thường tập trung ở những khu vực có sự hoạt động của con người, đặc
biệt là môi trường nước thải y tế.
Nước thải y tế là nước thải phát sinh từ các cơ sở y tế, bao gồm: cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở y tế dự phòng; cơ sở nghiên cứu, đào tạo y,
dược; cơ sở sản xuất thuốc. Trong nước thải y tế, ngoài những yếu tố ô nhiễm
thông thường như chất hữu cơ, dầu mỡ động, thực vật, còn có những chất bẩn
khoáng và chất hữu cơ đặc thù, các vi khuẩn gây bệnh, chế phẩm thuốc, chất
khử trùng, các dung môi hóa học, dư lượng thuốc kháng sinh và có thể có các
đồng vị phóng xạ được sử dụng trong quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh.
Một số thuốc kháng sinh là các hợp chất tự nhiên có tiếp xúc với vi sinh vật
môi trường hàng triệu năm mới phân hủy sinh học, thậm chí nó đóng vai trò
như là một nguồn thức ăn cho một số vi sinh vật.
Do tốc độ trao đổi chất thấp và khả năng phân hủy sinh học kém,
Norfloxacin và các loại kháng sinh tổng hợp thường được phát hiện không chỉ
trong nước thải của nhà máy xử lý nước thải, mà còn trong nước mặt và các
môi trường nước khác với nồng độ đạt tới 3,54 µg/l[27]. Sự tồn tại của kháng
sinh fluoroquinolone trong môi trường nước nói riêng có thể dẫn đến tình
trạng kháng kháng sinh. Gần 70% lượng Norfloxacin còn lại trong bùn của
các nhà máy xử lý sinh học. Do vậy, mầm bệnh ngày càng kháng thuốc, gây
ra mối đe dọa lớn đối với các sinh vật dưới nước và trên cạn cũng như con
người. Norfloxacin trong môi trường nước có thể dẫn đến các tác động xấu
đến môi trường, bao gồm sự phát triển vi khuẩn kháng kháng sinh trong thủy
sản [28], gây độc trực tiếp cho vi sinh vật và những rủi ro có thể có đối với
sức khỏe con người thông qua nước uống hoặc chuỗi thức ăn[28].
1.4.4. Các phương pháp xử lý kháng sinh trong nước thải
Một số công nghệ xử lý nước truyền thống như keo tụ, lắng, lọc áp
dụng cho việc xử lý các chất dược phẩm nói chung và kháng sinh nói riêng
thường có hiệu quả không cao và còn nhiều hạn chế [29]. Các phương pháp
34
khác như hấp phụ cho hiệu quả xử lý cao hơn so với các quá trình đông, keo
tụ. Nghiên cứu của tác giả Phạm Tiến Đức và cộng sự [30] đã thực hiện
nghiên cứu loại bỏ Amoxicillin bằng cách hấp phụ trên hệ chất đa điện phân
trên nano silic trong thời gian 180 phút, pH 10, nồng độ kháng sinh 10 mg/ml,
hiệu quả xử lý đạt tới 92,3%. Trong nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Vân và
cộng sự[31], các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng hấp phụ Cefotaxim natri,
Amoxicillin trên các vật liệu than hoạt tính, than hoạt tính biến tính bởi các
hóa chất khác nhau (AC-Br, AC-S, AC-HNO3, AC- H2O2.) đã được khảo sát.
Kết quả thực nghiệm cho thấy Amoxicillin hấp phụ tốt nhất ở pH= 6 và thời
gian từ 90 - 120 phút. Cefotaxim natri hấp phụ tối ở pH = 2, thời gian từ 120
đến 180 phút. Sự hấp phụ của Amoxicillin và Cefotaxim natri tuân theo
phương trình hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng than
hoạt tính biến tính với lưu huỳnh nguyên tố (AC-S) - có diện tích bề mặt
556,02 m²/g, có khả năng hấp phụ tốt nhất để loại bỏ Amoxicillin, Cefotaxim
natri ra khỏi môi trường nước. Bước đầu khảo sát sự hấp phụ đồng thời
Amoxicillin, Cefotaxim natri cho thấy có sự cạnh tranh dẫn đến cho hiệu quả
hấp phụ kém hơn. Tuy nhiên, những phương pháp này còn tồn tại những
nhược điểm như tiêu thụ năng lượng cao, hiệu quả xử lý thấp và không thân
thiện với môi trường. việc loại bỏ kháng sinh chỉ mang tính vật lý, kháng sinh
được giữ lại trên các chất hấp phụ và mang lại nguy cơ thải ra môi trường
nước nếu chất hấp phụ được sử dụng không đúng cách.
35
CHƯƠNG 2. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. HÓA CHẤT VÀ THIẾT BỊ
2.1.1. Dụng cụ
- Bình định mức: 5; 10; 25; 50; 100 và 500ml;
- Pipet 1; 2; 5; và 10ml;
- Micropipet 1-10µl; 10-100µl và 100-1000µl ;
- Cuvet thạch anh;
- Cốc thủy tinh 100ml, 200ml và 500ml;
- Phễu thủy tinh, đũa thủy tinh, đĩa cân, thìa cân, giấy lau;
- Khuấy từ.
2.1.2. Hóa chất
- Poly (ethylene glycol)- block- poly (propylene glycol)- block- poly
(etylen glycol) pluronic P123; Sigma- Aldrich;
- Axit Clohidric đặc; Trung Quốc;
- Tetraethyl orthosilicat 99%; Merck;
- Aeroxide TiO2 P25;
- Norfloxacin; Sigma- Aldrich;
- Nước cất.
2.1.3. Thiết bị
- Cân kĩ thuật Satorius; Germany;
- Cân phân tích METTLER TOLEDO, Switzeriand;
- Máy khuấy từ gia nhiệt Hotplate Stirrer JSHS-18D; 230VAC- 50/60
Hz; 650 Watt; 3.0 Amps; Korea;
- Lò nung JSOF- 150; 220VAC; 50-60Hz; 1,9Kw; 8,7A, 1P và lò nung
JSMF-120T;
- Máy li tâm Combi 514R; Korea;
- Máy đo quang phổ UV-Vis Perkin – Elmer Lamda 35.
36
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Phương pháp chế tạo vật liệu
* Quy trình tổng hợp vật liệu TiO2/SAB-15
Hình 2.1. Sơ đồ quy trình tổng hợp vật liệu TiO2/SAB-15[32]
2.2.2. Phương pháp đánh giá cấu trúc vật liệu
2.2.2.1. Phương pháp phổ nhiễu xạ tia X (XRD)
Phương pháp nhiễu xạ tia X là một trong những phương pháp thường
được sử dụng để nhận dạng cấu trúc và độ tinh thể của vật liệu.
Theo nguyên lý cấu tạo tinh thể, mạng tinh thể được xây dựng từ các
nguyên tử hay ion phân bố đều đặn trong không gian theo một quy tắc xác
định. Khi chùm tia Rơnghen tới bề mặt tinh thể, các nguyên tử, ion bị kích
thích sẽ trở thành tâm phát ra các tia phản xạ (hình 2.2).
37
Hình 2.2. Sự phản xạ trên bề mặt tinh thể
Mối liên hệ giữa khoảng cách hai mặt song song (d), góc giữa chùm tia
X với mặt phản xạ (), bước sóng () được thể hiện trong hệ thức Vulf –
Bragg:
2dsin = nλ (2.1)
Trong đó:
- d: khoảng cách giữa hai mặt song song [nm];
- θ: góc giữa chùm tia X và mặt phản xạ;
- n: bậc phản xạ;
- λ: bước sóng [nm].
Phương trình Vulf – Bragg là cơ sở để nghiên cứu cấu trúc tinh thể.
Căn cứ vào cực đại nhiễu xạ trên giản đồ (giá trị 2), ta có thể suy ra được
khoảng cách d theo phương trình (2.1), so sánh giá trị d vừa tính được với giá
trị d chuẩn ta sẽ xác định được thành phần cấu trúc mạng tinh thể của vật liệu
cần nghiên cứu[33].
Từ hệ thức Vulf – Bragg có thể thấy rằng, góc phản xạ tỉ lệ nghịch
vớikhoảng cách giữa hai mặt phẳng song song hay khoảng cách giữa hai lớp
nút mạng. Vì vậy đối với vật liệu vi mao quản, do kích thước mao quản nhỏ
(D < 20Å) nên góc quét 2 thường lớn hơn 5 độ, còn đối với vật liệu mao
quản trung bình do kích thước mao quản > 20Å nên góc quét 2 thường từ 0,5
độ trở lên.
38
Xác định độ trật tự của vật liệu: Đối với vật liệu mao quản trung bình
có đối xứng lục lăng (hexagonal), mức độ trật tự của cấu trúc có thể được
đánh giá theo XRD góc nhỏ.
Có thể minh họa một cách cụ thể hình chiếu mặt (100) của các mao
quản trung bình ở hình 2.3. Các hình lục giác biểu thị các mao quản có đường
kính là Dpore. Giá trị d100 là khoảng cách hai lớp mao quản song song. Theo
hình 2.3, khoảng cách hai tâm mao quản lục lăng tiếp hay “tế bào mạng” là
ao= 2d100/ do đó, độ dày thành mao quản sẽ là:
tw = ao- Dpore (2.2)
Trong đó:
- tw: độ dày thành mao quản [nm];
- ao: khoảng cách hai tâm mao quản lục lăng [nm];
- Dpore: đường kính mao quản [nm].
Hình 2.3. Mặt cắt của vật liệu mao quản trung bình lục lăng
Trong phần thực nghiệm, phổ nhiễu xạ tia X của các mẫu được đo trên
nhiễu xạ kế Brucker D8 Advance với ống phát tia X của Cu có bước sóng λ
(Cu Kα = 1,5406 Å), công suất 40 kV, dòng 40 mA. Góc quét từ 0,5 đến 10o
với góc nhỏ; 5 đến 60o với góc lớn. Góc mỗi bước quét là 0,008o và thời gian
mỗi bước quét 0,6 giây.
39
2.2.2.2. Phương pháp phổ hấp thụ hồng ngoại (IR)
Nguyên tắc: Khi hấp thụ năng lượng trong vùng hồng ngoại sẽ xảy ra
dao động của các nguyên tử trong phân tử. Các nguyên tử trong phân tử dao
động theo ba hướng trong không gian gọi là dao động riêng của phân tử. Số
dao động riêng của phân tử có N nguyên tử tối đa bằng (3N – 5) đối với phân
tử thẳng như CO2 và bằng (3N – 6) đối với phân tử không thẳng như H2O.
Mỗi dao động riêng ứng với một mức năng lượng nhất định, năng lượng để
làm chuyển các mức dao động này là khá bé, tương đương với năng lượng
bức xạ hồng ngoại. Tuy nhiên, không phải bất cứ phân tử nào cũng có khả
năng hấp thụ bức xạ hồng ngoại để có hiệu ứng phổ dao động mà chỉ có
những phân tử khi dao động gây ra sự thay đổi momen lưỡng cực điện mới có
khả năng hấp thụ bức xạ hồng ngoại.
Người ta phân biệt các dao động riêng thành hai loại:
- Dao động hóa trị (kí hiệu là υ) là những dao động làm thay đổi chiều
dài liên kết của các nguyên tử trong phân tử nhưng không làm thay đổi góc
liên kết.
- Dao động biến dạng (kí hiệu là δ) là những dao động làm thay đổi góc
liên kết nhưng không làm thay đổi chiều dài liên kết của các nguyên tử trong
phân tử.
Mỗi loại dao động còn được phân chia thành dao động đối xứng (kí
hiệu là υs và δs) và bất đối xứng (kí hiệu là υas và δas). Những dao động này
làm thay đổi mômen lưỡng cực điện của liên kết sẽ làm xuất hiện tín hiệu
hồng ngoại.
Phương pháp phổ hồng ngoại dựa trên cơ sở của sự tương tác giữa chất
cần phân tích với các tia đơn sắc có bước sóng nằm trong miền hồng ngoại
(400-4000 cm-1). Kết quả của sự tương tác sẽ dẫn tới chất nghiên cứu hấp thu
một phần năng lượng và làm giảm cường độ tia tới. Lúc này, phân tử sẽ thực
hiện dao động làm thay đổi góc liên kết và độ dài liên kết giữa các nguyên tử
trong phân tử.
40
Sự hấp thụ bức xạ điện từ của phân tử tuân theo phương trình
Lambert - Beer:
(2.3)
Trong đó:
- D : mật độ quang;
- Io, I : cường độ ánh sáng trước và sau khi qua chất phân tích;
- ε : hệ số hấp thụ;
- l : bề dày cuvet;
- C : nồng độ chất cần phân tích (mol/l).
Đường cong biểu diễn sự phụ thuộc của mật độ quang vào bước sóng
gọi là phổ hấp thụ hồng ngoại.
Mỗi cực đại trong phổ IR đặc trưng cho sự có mặt của một nhóm chức
hoặc dao động của một liên kết. Do đó, có thể dựa vào các tần số đặc trưng
này để dự đoán sự có mặt của các liên kết hoặc nhóm chức trong phân tử chất
nghiên cứu.
Phổ IR của các mẫu vật liệu được ghi theo kỹ thuật ép viên với KBr
trên máy Nicolet iS10 (Thermo Scientific), Viện Kỹ thuật nhiệt đới - Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.2.2.3. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Mặc dù phát triển trước nhưng đến bây giờ TEM mới tỏ ra có ưu thế
hơn SEM trong lĩnh vực vật liệu mới. Nó có thể dễ dàng đạt được độ phóng
đại 400.000 lần với nhiều vật liệu, và với các nguyên tử nó có thể đạt được độ
phóng đại tới 15 triệu lần. Cấu trúc của thiết bị TEM khá giống với một máy
chiếu (projector), một chùm sáng được phóng xuyên qua phim (slid) và kết
quả thu được sẽ phản ánh những vật thể được thể hiện trên đó, hình ảnh sẽ
được phóng to và hiển thị lên màn chiếu.
41
Các bước ghi ảnh TEM cũng tương tự: chiếu một chùm electron qua
một mẫu vật, tín hiệu thu được sẽ được phóng to và chuyển lên màn huỳnh
quang cho người sử dụng quan sát. Mẫu vật liệu chuẩn bị cho TEM phải
mỏng để cho phép electron có thể xuyên qua giống như tia sáng có thể xuyên
qua vật thể trong hiển vi quang học, do đó việc chuẩn bị mẫu sẽ quyết định tới
chất lượng của ảnh TEM.
- Một chùm electron được tạo ra từ nguồn cung cấp.
- Chùm electron này được tập trung lại thành dòng electron hẹp bởi các
thấu kính hội tụ điện từ.
- Dòng electron đập vào mẫu và một phần sẽ xuyên qua mẫu.
- Phần truyền qua sẽ được hội tụ bởi một thấu kính và hình thành ảnh.
- Ảnh được truyền từ thấu kính đến bộ phận phóng đại.
- Cuối cùng tín hiệu tương tác với màn hình huỳnh quang và sinh ra
ánh sáng cho phép người dùng quan sát được ảnh. Phần tối của ảnh đại diện
cho vùng mẫu đã cản trở, chỉ cho một số ít electron xuyên qua (vùng mẫu dày
hoặc có mật độ cao). Phần sáng của ảnh đại diện cho những vùng mẫu không
cản trở, cho nhiều electron truyền qua (vùng này mỏng hoặc có mật độ thấp).
Trong các phương pháp hiển vi điện tử, khi các electron va chạm với
hạt nhân nguyên tử của mẫu sẽ xảy ra hàng loạt các hiệu ứng khác nhau và
dựa trên những hiệu ứng này người ta có thể kết hợp hiển vi điện tử với các
phương pháp phân tích định tính cũng như định lượng.
Các mẫu được phân tán trong dung môi thanol. Sau đó cho lên trên các
lưới bằng Cu. Hình ảnh TEM được ghi trên JEOL JEM – 2100F.
42
Hình 2.4. Sơ đồ nguyên lý của kính hiển vi truyền qua (TEM)
2.2.2.4. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ- giải hấp phụ Nitơ (BET)
Phương pháp này được sử dụng để xác định bề mặt tổng (diện tích bề
mặt riêng, m2/g), thể tích mao quản và sự phân bố mao quản theo đường kính.
Xác định bề mặt riêng theo phương pháp BET
Phương trình BET:
Trong đó:
- P/Po: Áp suất tương đối;
- V: Thể tích khí bị hấp phụ ở áp suất P;
- C: Hằng số BET;
43
- Vm: Thể tích của lớp hấp phụ đơn phân tử tính cho 1g chất rắn trong
điều kiện tiêu chuẩn.
Để xác định Vm cần xây dựng giản đồ P/[V(Po – P)] phụ thuộc vào P/Po
như hình 2.5.
Hình 2.5. Đồ thị biểu diễn sự biến thiên của P/[V(P0 – P)] theo P/P0.
Từ phương trình 2.4 ta nhận thấy rằng, giá trị P/[V(Po-P)] là hàm bậc
nhất của biến số P/Po. Trong thực tế, tại một nhiệt độ không đổi, hàm P/[V(Po-
P)] biểu diễn theo P/P0 tuyến tính trong khoảng có giá trị P/Po từ 0,05-0,3. Hệ
số góc tg và tung độ của đoạn thẳng OA cho phép xác định thể tích của lớp
phủ đơn lớp (đơn phân tử) Vm và hằng số C.
Diện tích bề mặt riêng BET của vật liệu được tính theo phương trình:
SBET = (Vm/M).N.Am.d (2.5)
Trong đó:
- SBET: diện tích bề mặt [m2/g];
- d và M lần lượt là khối lượng riêng [g/cm3] và khối lượng mol phân tử
chất bị hấp phụ [mol/l];
- N: Số Avogadro ( N = 6,023.1023 phân tử/ mol);
- Vm: Thể tích của lớp hấp phụ đơn phân tử tính cho 1g chất rắn trong
điều kiện tiêu chuẩn [cm3/g];
- Am: Tiết diện ngang của một phân tử chiếm chỗ trên bề mặt chất hấp
44
phụ [m2].
Trường hợp hay gặp nhất là hấp phụ vật lý N2 (77K). Tại nhiệt độ đó,
tiết diện ngang của N2 bằng 0,162 nm2. Nếu Vm tính theo đơn vị cm3.g-1 và
diện tích bề mặt tính bằng m2.g-1 thì :
SBET = 4,35Vm (2.6)
Diện tích BET là diện tích của cả toàn bộ chất rắn xốp cả trong vùng
mao quản nhỏ, trung bình và lớn. Phương pháp BET thừa nhận quá trình hấp
phụ đa lớp.
Các mẫu được tiến hành đo ở nhiệt độ 77,3oK, chất bị hấp phụ là N2,
trên thiết bị Micromeritics TriStar II 3020 (V1.03). Bề mặt riêng được xác
định sử dụng phương trình BET ở vùng áp suất tương đối P/Po thấp
(0,05≤P/Po≤0,30).
2.2.3. Phương pháp đánh giá hoạt tính quang xúc tác
* Đánh giá hoạt tính quang xúc tác trong phản ứng phân hủy
Norfloxacin
Mẫu xúc tác dạng bột đã chế tạo được đánh giá hoạt tính quang xúc tác
trong phản ứng phân hủy kháng sinh Norfloxacin dưới bức xạ tử ngoại. Trong
nội dung nghiên cứu này, ảnh hưởng của hàm lượng chất xúc tác, nồng độ
chất phản ứng, thời gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nghien_cuu_tong_hop_xuc_tac_nano_titan_dioxit_mang.pdf