LỜI CAM ĐOAN.i
LỜI CẢM ƠN.ii
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT.v
DANH MỤC BẢNG BIỂU .vi
DANH MỤC HÌNH.vi
LỜI MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG .10
TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ .10
1.1. Khái niệm trái phiếu Chính phủ.10
1.1.1. Định nghĩa .10
1.1.2. Đặc điểm.10
1.1.3. Lợi suất trái phiếu Chính phủ.13
1.2. Phương pháp định giá trái phiếu.15
1.2.1. Định giá trái phiếu không có thời hạn .16
1.2.2. Định giá trái phiếu có kỳ hạn được hưởng lãi định kỳ.16
1.2.3. Định giá trái phiếu có kỳ hạn không hưởng lãi định kỳ .17
1.3. Thị trường trái phiếu Chính phủ.18
1.3.1. Khái niệm .18
1.3.2. Đặc điểm của thị trường trái phiếu Chính phủ.18
1.4. Vai trò của thị trường trái phiếu Chính phủ.18
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi suất TPCP .21
1.5.1. Lạm phát .21
1.5.2. Cán cân thương mại .22
1.5.3. Ngân sách Nhà nước .22
1.5.4. Tỷ giá .23
1.5.5. Lãi suất liên ngân hàng.24
1.5.6. Lợi suất TPCP Mỹ .25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TPCP VÀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA LỢI SUẤT TPCP VỚI .26
NỀN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM.26
2.1. Thực trạng phát triển thị trường TPCP .26
2.1.1. Về khuôn khổ pháp lý .26
80 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 28/02/2022 | Lượt xem: 385 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tác động của các yếu tố vĩ mô đến lợi suất trái phiếu chính phủ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ hạn ngắn vì kỳ vọng trong
các năm tới lợi suất sẽ giảm. Tóm lại, khi ngân sách Nhà nước thặng dư Chính phủ
có ít động lực để vay từ kênh phát hành TPCP, đồng nghĩa với nguồn cung trái phiếu
thấp sẽ dẫn đến lợi suất trái phiếu giảm.
1.5.4. Tỷ giá
Tỷ giá trong kinh doanh (Exchange rate) là giá cả của một đồng tiền được biểu
thị thông qua đồng tiền khác (GS TS. Nguyễn Văn Tiến, 2009). Hầu hết các quốc gia
trên thế giới đều có đồng tiền riêng, để thanh toán, đầu tư và tham gia vào các hoạt
động tài chính quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải thanh toán với nhau. Điều này dẫn
đến các quốc gia phải mua bán các đồng tiền khác nhau theo một tỷ lệ nhất định, tỷ
lệ này gọi là tỷ giá.
Tương tự như vậy, tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng là tỷ giá ngoại tệ được hình
thành trên thị trường liên ngân hàng do Ngân hàng Trung ương tổ chức. Tỷ giá ngoại
24
tệ bình quân liên ngân hàng là tỷ giá ngoại tệ để thanh toán giữa các ngân hàng với
nhau và là tỷ giá ngoại tệ để ghi sổ kế toán. Quy chế của thị trường liên ngân hàng
quy định tỷ giá ngoại tệ bình quân xoay quanh chênh lệch phần trăm so với tỷ giá liên
ngân hàng do ngân hàng Nhà nước công bố.
Tỷ giá liên ngân hàng thường được yết theo USD. Khi tỷ giá tăng mạnh (đồng
nội tệ giảm giá) nếu quá lớn thường cho thấy sự bất ổn trong nền kinh tế nguyên do
có thể kể đến chính sách tiền tệ không hợp lý dẫn đến lạm phát tăng áp lực lên tỷ giá.
Ngược lại, nếu tỷ giá được duy trì ở một mức hợp lý có thể ảnh hưởng tốt đến nguồn
vốn từ các nước do đồng nội tệ rẻ hơn. Tỷ giá ổn định hoặc giảm (đồng nội tệ lên giá)
cho thấy nhu cầu đồng nội tệ tăng cao. Tỷ giá hối đoái tác động đến sự dịch chuyển
của dòng vốn vào nội địa, khi tỷ giá giảm đồng thời cũng giảm áp lực lên lãi suất nội
tệ khiến lợi suất trái phiếu giảm (theo Anurag Agnihotri, 2015).
1.5.5. Lãi suất liên ngân hàng
Lãi suất liên ngân hàng (interbank offered rate) là lãi suất vay mượn lẫn nhau
giữa các ngân hàng, thông qua thị trường liên ngân hàng. Những ngân hàng thương
mại khi cho vay bị thâm hụt lượng dự trữ tiền tệ bắt buộc do Ngân hàng Trung Ương
quy định, thì phải thông qua thị trường liên ngân hàng để vay nhằm bù đắp cho đủ
lượng tiền dự trữ.
Lãi suất liên ngân hàng được kiểm soát chặt chẽ bởi các ngân hàng trung tâm.
Điển hình là Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) sẽ tổ chức họp tám lần một năm để tìm
ra lãi suất tốt nhất đối với nền kinh tế. Vì lãi suất liên ngân hàng tác động rất mạnh
đến nền kinh tế thông qua dòng tiền lưu thông cũng như giá cả của nguồn vốn, lãi
suất giảm đồng nghĩa với chính sách tiền tệ nới lỏng giúp tăng cung tiền, tăng lưu
lượng lưu thông, tăng đầu tư khiến kích thích tăng trưởng. Ngược lại, lãi suất cao
khiến đồng vốn đắt hơn gây khó khăn cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn. Lãi suất
liên ngân hàng cao thường đi kèm với lãi suất TPCP tăng và ngược lại do lãi suất này
chính là chi phí để nắm giữ trái phiếu.
25
1.5.6. Lợi suất TPCP Mỹ
Lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ là lãi suất trái phiếu do KBNN Hoa Kỳ phát
hành để thu hút vốn cho quỹ cũng như tạo công cụ đầu tư, dự trữ cho các ngân hàng
thương mại nói riêng cũng như các tổ chức tài chính nói chung.
Lợi suất TPCP Mỹ thường đi theo kỳ vọng của nền kinh tế và đặc biệt là các
quyết định về lãi suất của FED. Khi nền kinh tế phát triển quá nóng thể hiện qua chỉ
số lạm phát cao, FED thường có xu hướng giảm lãi suất FED Fund Rate điều này khả
năng cao làm giảm lãi suất TPCP Mỹ và ngược lại. Kết quả này cũng được chỉ ra
trong nghiên cứu của Inoguchi (2007). Do đó, kỳ vọng rằng, khi lợi suất TPCP Mỹ
thấp sẽ khiến lãi suất TPCP Mỹ rẻ tương đối hơn so với lãi suất trái phiếu tại quốc
gia khác gây áp lực giảm lãi suất trái phiếu của quốc gia đó, còn trong trường hợp
TPCP Mỹ cao sẽ tạo điều kiện để lãi suất TPCP của quốc gia đó tăng.
26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
TPCP VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỢI SUẤT TPCP VỚI
NỀN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng phát triển thị trường TPCP
Thị trường TPCP bắt đầu hình thành từ những năm 1990 khi Chính phủ phát
hành công trái xây dựng tổ quốc. Đầu những năm 2000, đối tượng mua TPCP đã đa
dạng hơn tuy nhiên chủ yếu là sự tham gia của NHTM dưới hình thức bảo lãnh và
bán lẻ. Thị trường TPCP là kênh huy động vốn hiệu quả cho NSNN và là thị trường
chuẩn cho thị trường tài chính. Sự thiếu vắng thị trường TPCP làm giảm khả năng
huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế và không tạo ra các cơ hội đầu tư cho tầng lớp
dân cư. Trước yêu cầu phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển hệ thống tài chính đòi
hỏi cần phải có một thị trường vốn để huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển
kinh tế. Những năm 2009 trở về trước, thị trường TPCP khá khiêm tốn, trái phiếu chủ
yếu có kỳ hạn ngắn cùng với đó Nhà nước phát hành tín phiếu kho bạc.
Ngày 24/9/2009, thị trường TPCP chuyên biệt chính thức đi vào hoạt động tại
Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội. Qua 10 năm hoạt động, thị trường TPCP đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho đầu tư
phát triển. Thị trường TPCP đã và đang đóng vai trò then chốt để phát triển thị trường
trái phiếu, sản phẩm TPCP là công cụ đầu tư an toàn, hiệu quả cho các loại hình nhà
đầu tư (NHTM, hệ thống bảo hiểm, hệ thống các quỹ đầu tư,)
2.1.1. Về khuôn khổ pháp lý
Trong 10 năm qua, hệ thống khuôn khổ pháp lý đối với TPCP từng bước được
hoàn thiện, giúp thị trường trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng
cho đầu tư phát triển. Cụ thể, việc Quốc hội ban hành Luật Quản lý nợ công, Luật
Ngân sách Nhà nước (NSNN), Luật Đầu tư công, Luật Chứng khoán đã tạo ra nền
tảng pháp lý quan trọng cho việc tổ chức phát hành, giao dịch và sử dụng công cụ
giao dịch TPCP.
Kể từ năm 2011, để đáp ứng nhu cầu huy động vốn của NSNN và phù hợp với
thực trạng phát triển của thị trường, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành các cơ
chế chính sách để phát triển thị trường trái phiếu một cách đồng bộ trên cả thị trường
27
sơ cấp và thứ cấp, phát triển cơ sở nhà đầu tư và nâng cao hiệu quả công tác quản lý
ngân quỹ Nhà nước. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đã ban hành 02 thông tư hướng
dẫn tổ chức phát hành TPCP vào năm 2012 và năm 2015 theo hướng minh bạch hóa,
từng bước tiếp cận các thông lệ quốc tế.
Để xây dựng một hành lang pháp lý thống nhất, xuyên suốt, tạo được định hướng
rõ ràng cho việc phát triển TTTP nói chung và thị trường TPCP nói riêng, trên cơ sở
quy định tại Luật Quản lý nợ công năm 2017, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban
hành Nghị định số 95/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018 quy định về phát hành, đăng ký,
lưu ký, niêm yết và giao dịch công cụ nợ Chính phủ trên thị trường chứng khoán,
đồng thời ban hành 03 Thông tư hướng dẫn gồm: Thông tư số 111/2018/TT-BTC về
tổ chức phát hành; Thông tư số 30/2019/TT-BTC về tổ chức đăng ký, lưu ký, niêm
yết và giao dịch; Thông tư số 110/2018/TT-BTC về tái cơ cấu danh mục nợ TPCP;
trong đó tập trung vào các giải pháp thúc đẩy giao dịch trên thị trường thứ cấp nhằm
cải cách mạnh mẽ thị trường này sau khi thị trường sơ cấp đã được vận hành theo
thông lệ quốc tế.
2.1.2. Về thành phần tham gia
Các thành viên của thị trường TPCP bao gồm:
- Cơ quan quản lý Nhà nước: Thông qua một số cơ quan như Bộ Tài chính,
NHTW, Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Kho Bạc Nhà nước Chính
phủ tham gia thị trường với tư cách là nhà tổ chức và quản lý thị trường.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán
và thị trường chứng khoán, có chức năng quản lý và giám sát các thị trường chứng
khoán, trong đó có thị trường trái phiếu, đồng thời, soạn thảo văn bản pháp luật liên
quan đến trái phiếu và thị trường trái phiếu để trình các cấp có thẩm quyền xem xét
quyết định, cũng như tổ chức và hướng dẫn thực hiện các văn bản đó.
Ngân hàng Nhà nước tác động đến thị trường TPCP gián tiếp thông qua lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ quản lý, hướng
dẫn hoạt động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác, bao gồm cả
các hoạt động của các tổ chức này trên thị trường trái phiếu. Sự kết hợp giữa các cơ
quan quản lý Nhà nước trong hoạt động quản lý thị trường, quản lý các thành viên có
28
ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn cho hoạt động
của thị trường.
Bộ Tài chính là đơn vị ra quyết định liên quan đến chính sách phát triển thị
trường trái phiếu, tổ chức thực hiện phát hành TPCP, điều hành lãi suất phát hành trái
phiếu, tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ bảo lãnh của hai ngân hàng là Ngân
hàng Chính sách xã hội (VBS) và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB). Bên cạnh
đó, Bộ Tài chính cũng quản lý thành viên thị trường. Hằng năm, căn cứ vào kết quả
tham gia trên thị trường sơ cấp và thứ cấp, Bộ Tài chính sẽ đánh giá xếp hạng để duy
trì tư cách nhà tạo lập thị trường.
- Cơ quan quản lý thị trường:
Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) là địa điểm giao dịch có tổ chức để giao
dịch các trái phiếu được niêm yết. Sở giao dịch thực hiện vận hành thị trường thông
qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên thị
trường chính thức. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh
các hoạt động giao dịch chứng khoán ở Sở, phù hợp với các quy định luật pháp về
chứng khoán và giao dịch chứng khoán. SGDCK còn là cơ quan quản lý thành viên
thị trường.
Trung tâm lưu ký chứng khoán (VSD): là nơi cung cấp dịch vụ đăng ký, lưu
ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán cho các chứng khoán niêm yết, đăng ký giao
dịch, chứng khoán phái sinh trên Sở Giao dịch Chứng khoán và chứng khoán của
công ty đại chúng khác; các dịch vụ liên quan đến hỗ trợ giao dịch chứng khoán phù
hợp với quy định của pháp luật. Nhà đầu tư muốn mua, bán TPCP cần mở mã giao
dịch tại VSD để được ghi nhận quyền sở hữu trái phiếu. VSD cũng thực hiện việc
theo dõi, hạch toán và thanh toán lãi và gốc trái phiếu cho chủ sở hữu.
- Hiệp hội kinh doanh trái phiếu: là một tổ chức phi lợi nhuận hoạt động nhằm
thúc đẩy sự phát triển chuyên nghiệp và hiệu quả của thị trường trái phiếu Việt Nam,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, đồng thời đảm bảo lợi ích của quốc
gia. Chức năng và nhiệm vụ chính của VBMA là: (1) Chuẩn hóa tập quán thương mại
và thông lệ thị trường đối với các giao dịch trái phiếu và công cụ nợ khác tại Thị
trường trái phiếu Việt Nam; (2) Nâng cao khả năng hội nhập khu vực và quốc tế của
thị trường trái phiếu nói chung và các hội viên nói riêng thông qua việc khuyến khích
29
các đối tác tham gia thị trường áp dụng các tập quán thương mại quốc tế phù hợp với
đặc điểm thị trường trái phiếu Việt Nam; (3) Thiết lập các quy tắc ứng xử, hành nghề
và đạo đức nghề nghiệp để điều chỉnh mối quan hệ giữa các đối tác trên Thị trường
trái phiếu Việt Nam nhằm đảm bảo sự bình đẳng cho các thành viên tham gia thị
trường; (4) Tổ chức các chương trình đào tạo, diễn đàn, cầu nối để trao đổi, cập nhật
thông tin, đóng góp ý kiến và tham gia hỗ trợ các cơ quan chức năng trong việc hoàn
thiện chính sách, khung pháp lý cho Thị trường trái phiếu Việt Nam.
- Tổ chức phát hành: tổ chức phát hành chủ yếu đóng vai trò là người bán trên
thị trường (trừ trong trường hợp mua lại hoặc hoán đổi trái phiếu, tổ chức phát hành
đóng vai trò là người mua trái phiếu). Đối với TPCP Việt Nam, đơn vị chịu trách
nhiệm phát hành là Bộ Tài chính. Bộ Tài chính có thể phát hành hoặc giao cho Kho
Bạc Nhà nước. KBNN sẽ thông báo kế hoạch đấu thầu hàng tuần và giao cho Sở Giao
dịch Chứng khoán Hà Nội tổ chức đấu thầu. Tùy vào mục đích và kế hoạch huy động
vốn trong thời gian tới mà Bộ Tài chính và KBNN quyết định khối lượng, kỳ hạn trái
phiếu được phát hành.
- Các nhà đầu tư: Nếu coi người phát hành trái phiếu là đối tượng tạo ra sức
cung hàng hoá thì các nhà đầu tư chính là những người tạo ra sức cầu hàng hoá trên
thị trường trái phiếu. Nói một cách khác, nếu người phát hành bán các trái phiếu của
mình thì chủ thể đầu tư là những đối tượng trực tiếp mua chúng. Đối với thị trường
TPCP hiện nay ở Việt Nam chỉ tồn tại nhà đầu tư tổ chức mà không có nhà đầu tư cá
nhân. Do đó, các nhà đầu tư tổ chức có tính chuyên nghiệp cao, thường xuyên mua
bán trái phiếu với số lượng lớn trên thị trường. Một số các nhà đầu tư chuyên nghiệp
trên thị trường chứng khoán là các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, các công ty
chứng khoán, các ngân hàng thương mại. Hành vi của các nhóm này đối việc đầu
tư trái phiếu tương đối khác nhau vì phụ thuộc mục đích đầu tư và khẩu vị rủi ro của
từng nhóm. Họ sử dụng số vốn huy động từ các nguồn để đầu tư vào trái phiếu với
mục đích cuối cùng là thu được một khoản lợi nhuận. Hơn thế nữa, trái phiếu Chính
phủ là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao nhất nên các nhà đầu tư rất ưa thích
nắm giữ để nhằm mục đích thuận lợi cho việc quản lý khả năng thanh toán hay thanh
khoản hơn là vì mục đích sinh lời.
30
Trong số các nhà đầu tư tham gia thị trường TPCP, một nhóm nhà đầu tư được
lựa chọn trở thành nhà tạo lập thị trường (chủ yếu là các ngân hàng thương mại). Hoạt
động của các nhà tạo lập cũng giống các tổ chức kinh doanh trái phiếu. Tuy nhiên,
nhà tạo lập thị trường là những người tạo ra thị trường có tính thanh khoản cao bằng
cách thường xuyên yết các mức giá chào mua, chào bán, qua đó, đảm bảo một thị
trường hai chiều (mua bán liên tục). Tại Việt Nam, tính đến cuối năm 2019 có 13 nhà
tạo lập thị trường gồm 10 ngân hàng thương mại và 3 công ty chứng khoán (đây là
danh sách các tổ chức đủ điều kiện trở thành nhà tạo lập thị trường 2020).
Bảng 2.1: Danh sách nhà tạo lập thị trường năm 2020
STT Mã
Thành
viên
Tên tổ chức
1 002 Công ty CPCK Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2 009 Công ty TNHH CK Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
3 011 Công ty CPCK Thành phố Hồ Chí Minh
4 ACB Ngân hàng TMCP Á Châu
5 BID Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
6 CTG Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
7 MBB Ngân hàng TMCP Quân Đội
8 MSB Ngân hàng TMCP Hàng Hải
9 OCB Ngân hàng TMCP Phương Đông
10 SGT Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín
11 TCB Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam
12 TPB Ngân hàng TMCP Tiên Phong
13 VBA Công ty TNHH MTV Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam
Nguồn: Bộ tài chính
2.1.3. Về sản phẩm
Sản phẩm hàng hóa trên thị trường được phát triển đa dạng hơn, đáp ứng nhu
cầu của nhà đầu tư và yêu cầu huy động vốn cho NSNN. Từ năm 2015, Kho bạc Nhà
31
nước bắt đầu phát hành trái phiếu theo lô lớn, nâng cao chất lượng hàng hóa TPCP
trên thị trường tài chính thông qua việc phát hành trái phiếu kỳ hạn 20 năm và 30 năm
theo phương thức phát hành riêng lẻ và sau đó đấu thầu thường xuyên, thu hút nguồn
vốn dài hạn từ các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư. Bên cạnh trái phiếu truyền thống
trả lãi cố định còn có các hình thức trái phiếu không trả lãi định kỳ, trái phiếu có kỳ
trả lãi đầu tiên ngắn hơn hoặc dài hơn kỳ trả lãi chuẩn để tăng hiệu quả quản lý ngân
quỹ, quản lý danh mục nợ TPCP. Ngoài ra, KBNN còn linh hoạt thực hiện nghiệp vụ
tái cơ cấu nợ thông qua hoán đổi và mua lại TPCP. Với chủ trương tái cơ cấu danh
mục nợ, thời gian qua KBNN đã nhiều lần thực hiện hoán đổi TPCP để tái cơ cấu
danh mục TPCP, giảm rủi ro hoặc để cải thiện thanh khoản như: hoán đổi các trái
phiếu có kỳ hạn còn lại tương đương để hình thành các mã có giá trị niêm yết lớn,
thúc đẩy thanh khoản trên thị trường trái phiếu thứ cấp hoặc gom các trái phiếu có kỳ
hạn còn lại ngắn để hoán đổi sang trái phiếu có kỳ hạn dài hơn, kéo dài kỳ hạn danh
mục nợ. Vào cuối năm 2019, KBNN đã tổ chức các đợt hoán đổi công cụ nợ trái
phiếu kỳ hạn 1 năm – 3 năm với trái phiếu kỳ hạn 10 năm và 15 năm nhằm giảm rủi
ro đảo nợ của NSNN trong năm 2020 – 2021 do đỉnh nợ của những năm này rất lớn.
Tháng 7/2019, hợp đồng tương lai TPCP ra đời bổ sung công cụ phòng ngừa rủi
ro cho các nhà đầu tư tham gia thị trường. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, việc
lựa chọn tài sản cơ sở cho hợp đồng tương lai TPCP 5 năm là trái phiếu KBNN có kỳ
hạn 5 năm phù hợp với nhu cầu và định hướng phát hành. Theo đó, trái phiếu KBNN
có khối lượng niêm yết lớn, tính thanh khoản cao hơn so với các trái phiếu khác. Trái
phiếu KBNN được sử dụng làm tài sản cơ sở là trái phiếu giả định có kỳ hạn 5 năm.
Trái phiếu giả định là trái phiếu không có thật tuy nhiên có những đặc điểm tương tự
như trái phiếu thật về lãi suất danh nghĩa, kỳ hạn, mệnh giá, kỳ trả lãi,... Dự kiến trong
thời gian tới Bộ tài chính và Kho bạc Nhà nước sẽ mở rộng thêm các kỳ hạn khác
như 10 năm và 15 năm
2.1.4. Về quy mô
Từ năm 2009 đến nay, kênh phát hành TPCP đã huy động được 1.96 triệu tỷ
đồng cho NSNN, gấp hơn 40 lần so với giai đoạn 2000 - 2008. Đặc biệt trong giai
đoạn 2015 - 2019, khối lượng phát hành TPCP bình quân đạt trên 230,000 tỷ
32
đồng/năm, tăng 55% so với bình quân giai đoạn 2009 - 2014. Quy mô thị trường
TPCP đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 27%/năm trong 10 năm qua, được đánh giá
có mức tăng trưởng dẫn đầu các nền kinh tế mới nổi tại khu vực Đông Á cũng như
khu vực ASEAN + 3.
Năm 2009 dư nợ thị trường trái phiếu Việt Nam chỉ đạt 15% GDP trong đó
TPCP chiếm 86%, tương đương với khoảng 12.9% GDP. Tính đến 31/12/2019, giá
trị niêm yết TPCP Việt Nam đạt 1,155 nghìn tỷ đồng (trong đó gồm 997 nghìn tỷ
đồng TPCP và 138 nghìn tỷ đồng TPCP Bảo lãnh), tương đương khoảng 25.1% GDP,
gấp 7 lần so với năm 2009 (trong đó TPCP chiếm 22%GDP).
Hình 2.1: Quy mô niêm yết TPCP so với GDP (đơn vị: nghìn tỷ đồng)
Nguồn: HNX
190
274
396
522
589
766
830
924
997
7%
8%
11%
14% 14%
19%
17%
18%
22%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
-
200
400
600
800
1,000
1,200
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Giá trị niêm yết (nghìn tỷ đồng) %GDP
33
Hình 2.2: Cơ cấu niêm yết thị trường TPCP Việt Nam 2009 - 2019
(đơn vị: tỷ đồng)
Nguồn: HNX
Hình 2.3: Khối lượng phát hành TPCP giai đoạn 2011–2019 (đơn vị: tỷ đồng)
Nguồn: HNX
Đồng thời, với việc tập trung phát hành các kỳ hạn dài từ năm 2015 đến nay, kỳ
hạn phát hành bình quân TPCP đang ở mức kỷ lục 13.6 năm vào cuối tháng 11/2019,
cao hơn 9-10 năm so với giai đoạn 2009 - 2014. Việc nhà đầu tư trên thị trường tập
trung vào trái phiếu có kỳ hạn ngắn (2-3 năm) trong giai đoạn 2009 – 2014 là do lo
ngại sự bất ổn của nền kinh tế trong dài hạn hoặc có thể các NHTM chỉ coi đây là
152,877 173,280
190,563
274,256
396,226
522,015
589,160
766,093
830,134
924,856
997,401
3,624
49,868
93,140
126,490 147,182 148,930 139,780 143,185 145,530 141,265 138,168
-
200,000
400,000
600,000
800,000
1,000,000
1,200,000
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
TPCP TPCPBL
80,254
141,340
181,093
248,024 256,223
296,750
244,221
165,797
197,769
0
50,000
100,000
150,000
200,000
250,000
300,000
350,000
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
34
kênh đầu tư tạm thời, trong khi chờ thị trường tín dụng phục hồi. Tính riêng năm
2019, tỷ trọng giao dịch các kỳ hạn dài trên 7 năm chiếm tới 57.43% tổng khối lượng
giao dịch.
Hình 2.4: Tỷ trọng giao dịch outright theo kỳ hạn năm 2019
Nguồn: HNX
Bảng 2.2: Tỷ trọng giao dịch outright các kỳ hạn trong năm 2019
Kỳ hạn
KLGD
(Tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Dưới 1 năm 77,349 6.81%
2 năm 79,840 7.03%
3 năm 73,644 6.48%
Trên 3 năm đến 5 năm 189,835 16.71%
Trên 5 năm đến 7 năm 62,863 5.53%
Trên 7 năm đến 10 năm 314,760 27.71%
Trên 10 năm đến 15 năm 194,631 17.14%
Trên 15 năm 142,835 12.59%
Tổng cộng 1,135,758 100%
Nguồn: HNX
Đi kèm với kỳ hạn phát hành bình quân tăng lên thì lãi suất phát hành tiếp tục
duy trì ở mức thấp nhất trong vòng 10 năm, bình quân ở mức 4.58%/năm, thấp hơn
6.4%-7.6%/năm so với giai đoạn 2009 - 2014. Nhờ đó, đã tạo điều kiện cho Chính
phủ tăng vay nợ tại thị trường trong nước, giảm vay nợ nước ngoài, danh mục nợ
công ngày càng bền vững.
7%
7%
6%
17%
5%28%
17%
13% Dưới 1 năm
2 năm
3 năm
3-5 năm
5-7 năm
7-10 năm
10-15 năm
Trên 15 năm
35
2.1.5. Về thanh khoản
Để tăng thanh khoản trên thị trường thứ cấp, từ năm 2015, Kho bạc Nhà nước
bắt đầu phát hành trái phiếu theo lô lớn, góp phần nâng cao chất lượng hàng hóa
TPCP. Số lượng mã trái phiếu đã giảm từ mức khoảng 300 mã năm 2009 xuống còn
170 mã năm 2019, quy mô bình quân của các mã tăng khoảng 9 lần lên khoảng 6,000
tỷ đồng, trong đó các mã chuẩn tăng lên mức 10,000 - 12,000 tỷ đồng. Khối lượng
giao dịch trái phiếu bình quân tại thời điểm 2019 đạt khoảng 8,500-9,000 tỷ
đồng/phiên, tăng mạnh so với mức dưới 1,000 tỷ đồng/phiên giai đoạn 2009 - 2011.
Trên thị trường thứ cấp đã hình thành 4 phương thức giao dịch trái phiếu, gồm giao
dịch mua bán thông thường (outright), giao dịch mua bán lại (repo), giao dịch bán kết
hợp mua lại (sell buy back) và giao dịch vay và cho vay (sell buy loan).
Hình 2.5: Giá trị giao dịch outright bình quân phiên 2012-2019
(đơn vị: tỷ đồng)
Nguồn: HNX
657
1,379
2,642
2,452
4,013
4,513
4,044
4,543
0
500
1,000
1,500
2,000
2,500
3,000
3,500
4,000
4,500
5,000
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
36
2.2. Mối quan hệ giữa lợi suất TPCP với nền kinh tế Việt Nam
Để phân tích mối quan hệ giữa lợi suất TPCP với các yếu tố kinh tế, người viết
tiến hành phân tích diễn biến lợi suất TPCP tại Việt Nam trong giai đoạn 2012 - 2019.
Hình 2.6: Lợi suất TPCP Việt Nam giai đoạn 2012 - 2019
Nguồn: HNX
Nhìn chung từ năm 2012 đến năm 2019 lợi suất trái phiếu Chính phủ ở tất cả
các kỳ hạn duy trì xu hướng chính là xu hướng giảm, có thể chia thành 4 giai đoạn
như sau:
Giai đoạn 1: Từ năm 2012 đến hết năm 2014
Lợi suất TPCP giảm rất mạnh trong 6 tháng đầu năm 2012 sau đó tiếp tục xu
hướng giảm cho tới hết năm 2014. Chỉ trong vòng 3 năm, lợi suất TPCP đã giảm
khoảng 6 - 8% đối với mỗi kỳ hạn. Đáng chú ý, thời điểm 2012 lợi suất TPCP không
có sự chênh lệch nhiều giữa các kỳ hạn, cụ thể tại phiên ngày 03/01/2012, lợi suất
TPCP kỳ hạn 1 năm là 12.78%; 2 năm là 12.57%; 3 năm ở mức 12.31% và 5 năm ở
mức 12.56%. Điều này khiến đường còn lợi suất trở nên phẳng hơn giữa các kỳ hạn,
lợi suất TPCP không phản ánh đúng rủi ro và lợi suất yêu cầu đối với các kỳ hạn đáo
hạn khác nhau.
Nguyên nhân chính là do trong giai đoạn trước năm 2012, bối cảnh kinh tế vĩ
mô trong nước và thế giới chưa phục hồi. Nguy cơ rủi ro và bất ổn trên thị trường tài
chính toàn cầu gia tăng, thất nghiệp chậm cải thiện, kinh tế các nước thuộc nhóm
00.000%
02.000%
04.000%
06.000%
08.000%
10.000%
12.000%
14.000%
1y 2y 3y 5y 7y 10y
37
khủng hoảng nợ châu Âu gặp khó khăn trong khi nhịp độ tăng trưởng kinh tế tại các
nước mới nổi cũng chậm lại do các vấn đề trong nước và tình trạng mất cân đối tài
chính. Tuy nhiên, bước sang năm 2012, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều cải thiện,
lạm phát được kiềm chế ở mức 1 con số (từ mức 18.58% năm 2011 xuống còn 6.81%
vào năm 2012), tỷ giá ổn định, niềm tin vào đồng Việt Nam được củng cố, dự trữ
ngoại hối tăng, đã tạo điều kiện cho lợi suất TPCP giảm nhanh. Bên cạnh đó, phải
kể đến nỗ lực của các cơ quan quản lý trong việc phát triển thị trường TPCP. Năm
2012 đánh dấu thỏa thuận hợp tác giữa Kho Bạc Nhà nước với Sở Giao dịch Ngân
hàng Nhà nước, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Trung tâm Lưu ký Chứng
khoán Việt Nam trong quá trình tổ chức phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và thanh
toán TPCP nhằm chuẩn hóa thời gian thực hiện các thủ tục, đảm bảo quy trình thông
suốt góp phần nâng cao tính thanh khoản cho trái phiếu, giảm thời gian từ khi đấu
thầu đến khi giao dịch từ T+6 xuống còn T+4 đối với trái phiếu.
Năm 2013 và 2014 tiếp tục chứng kiến sự hồi phục của nền kinh tế tạo nền tảng
vững chắc để lợi suất TPCP tiếp tục duy trì xu hướng giảm. Tính đến ngày
31/12/2014, lợi suất TPCP lần lượt đạt: 4.7% đối với kỳ hạn 1 năm; 4.96% đối với
kỳ hạn 2 năm; 5.13% đối với kỳ hạn 3 năm; 6.17% với kỳ hạn 5 năm và 6.76% với
kỳ hạn 7 năm. Có thể thấy, ở mặt bằng lãi suất này đã có khoảng cách chênh lệch
giữa lợi suất các kỳ hạn. Theo đó, đường cong lợi suất có xu hướng dốc lên phản ánh
đúng kỳ vọng lợi suất, mức độ rủi ro giữa các kỳ hạn.
Giai đoạn 2: Từ năm 2015 đến tháng 4/2018
Lợi suất TPCP phục hồi nhẹ khoảng 50 - 100bps (tương đương 0.5% - 1%) từ
cuối năm 2014 sau khi đã giảm trong thời gian dài trước đó. Từ năm 2015 đến năm
2017, lợi suất TPCP dao động trong biên độ 70 - 100bps (tương đương 0.7% - 1%)
trước khi giảm rất mạnh vào đầu năm 2018. Chỉ trong vòng 4 tháng đầu năm 2018,
lợi suất TPCP đã giảm khoảng 120 - 150bps (tương đương 1.2% - 1.5%) đối với kỳ
hạn dưới 5 năm và giảm 80bps (0.8%) đối với kỳ hạn 10 năm. Nguyên nhân:
- Bối cảnh kinh tế vĩ mô trên đà phục hồi trong giai đoạn 2015 - 2017 đã giúp
lợi suất TPCP không bị ảnh hưởng lớn trước các tác động của nền kinh tế. Tuy nhiên,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_tac_dong_cua_cac_yeu_to_vi_mo_den_loi_suat_trai_phi.pdf