Luận văn Tăng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hải Dương

DANH MỤC BẢNG BIỂU.ii

DANH MỤC HÌNH.iv

PHẦN MỞ ĐẦU . 5

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ

SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC CẤP TỈNH . 8

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu. 8

1.1.1. Tình hình nghiên cứu trƣớc đây . 8

1.1.2. Khoảng trống nghiên cứu . 10

1.2. Cơ sở lý luận về Ngân sách Nhà nƣớc . 11

1.2.1. Khái niệm về Ngân sách Nhà nƣớc . 11

1.2.2. Mối quan hệ của Ngân sách nhà nƣớc. 12

1.2.3. Đặc điểm của Ngân sách nhà nƣớc. 13

1.2.4. Vai trò của Ngân sách Nhà nƣớc. 15

1.2.5. Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nƣớc . 17

1.3. Thu ngân sách Nhà nƣớc . 20

1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của thu ngân sách Nhà nƣớc . 20

1.3.2. Cơ chế phân chia nguồn thu NSNN . 21

1.3.3. Nội dung và hình thức các khoản thu NSNN . 22

1.3.4. Những nhân tố ảnh hƣởng đến thu NSNN . 26

pdf35 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 613 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i ngân sách ở các tỉnh duyên hải miền Trung. Tạp chí thuế, số tháng 3/2005. Bài viết đã làm rõ hệ thống cơ sở lý luận về thu chi ngân sách nhà nƣớc. Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu chi ngân sách nhà nƣớc tại các tỉnh duyên hải miền Trung. Tác giả đã đƣa ra đƣợc kết quả, hạn chế và nguyên nhân từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm tăng cƣờng quản lý thu chi cho các tỉnh duyên hải miền Trung. - Vũ Sỹ Cƣờng, 2013.Giải pháp thu ngân sách nhà nƣớc 2013: nhìn từ bài học 2012. Tạp chí tài chính, ngày 6/3/2013. Bài viết nhìn lại một số nét khái quát về tình hình thu NSNN năm 2012, đề xuất những bài học và giải pháp cho thực hiện dự toán thu NSNN năm 2013. Bài viết đã đề xuất một số giải pháp cụ thể về tăng thu Ngân sách năm 2013 của cả nƣớc. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu giải pháp cụ thể của địa bàn Huyện áp dụng trong thời gian nghiên cứu thực tế. 9 Ngoài ra, còn có các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về vấn đề này nhƣ: - Đỗ Thị Mai Lan, 2015. Quản lý thu ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Hà Nội. Luận văn Thạc sĩ. Trƣờng Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã tổng hợp, hệ thống hóa một số nội dung lý luận về quản lý NSNN, chủ yếu tập trung vào quản lý thu NSNN qua kho bạc nhà nƣớc Hà Nội. Phân tích đƣợc thực trạng, làm rõ những kết quả đạt đƣợc, chỉ ra những hạn chế trong việc quản lý thu NSNN qua Kho bạc Nhà nƣớc Hà Nội. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và đánh giá về tình hình quản lý thu NSNN qua Kho bạc Nhà nƣớc Hà Nội, đề tài đã đề xuất ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu NSNN qua Kho bạc Nhà nƣớc Hà Nội. - Nguyễn Đắc Thảo, 2013. Giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Luận văn Thạc sĩ. Trƣờng Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên. Luận văn góp phần hệ thống hóa đƣợc những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về vấn đề NSNN nói chung và việc tăng cƣờng thu NSNN nói riêng. Đồng thời đánh giá đƣợc thực trạng công tác quản lý thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn vừa qua; chỉ ra những mặt mạnh, những tồn tại và nguyên nhân, là cơ sở cho việc đề xuất giải pháp. Các kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các đơn vị liên quan và cơ quan cùng cấp có điều kiện kinh tế- xã hội tƣơng tự và cá nhân có quan tâm, là tài liệu dung trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong nhà trƣờng. - Trần Quốc Vinh, 2009. Đổi mới quản lý ngân sách địa phương các tỉnh cùng Đồng bằng sông Hồng. Luận văn Thạc sĩ. Trƣờng Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả đã sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê trong quá trình thực hiện. Luận văn đã phân tích thực trạng quản lý NSĐP các tỉnh Đồng bằn sông Hồng, nêu bật những thành công trong quản lý NSĐP; phân tích các nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong quản lý NSĐP. Từ đó tác giả đề ra những giải pháp cụ thể trong 10 từng lĩnh vực nhằm đổi mới quản lý ngân sách địa phƣơng và những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách. - Văn Tuấn Kiệt, 2008.Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách tỉnh Kiên Giang. Luận văn Thạc sĩ. Trƣờng Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đề cập đến những vấn đề lý luận về ngân sách nhà nƣớc và nội dung hoạt động của nó, xem xét khái quát thực trạng về quản lý ngân sách tại Kiên Giang. Từ đó tìm ra những tồn tại, hạn chế của việc quản lý ngân sách và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc quản lý ngân sách địa phƣơng trong thời gian tới. Luận văn đã sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lênin, làm phƣơng pháp luận nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân sách. Đồng thời sử dụng phƣơng pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh dựa trên lý thuyết tài chính và số liệu thực tiễn về ngân sách tỉnh Kiên Giang từ đó làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu. 1.1.2. Khoảng trống nghiên cứu Nội dung các đề tài và bài báo thực hiện về hoạt động thu NSNN đã đƣa ra đầy đủ lý thuyết về Ngân sách và hoạt động thu NSNN, tập trung vào vấn đề nâng cao hiệu quả thu NSNNvà đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu NSNN. Các luận văn, đề tài đã đƣa ra những kết luận, kiến nghị chủ yếu tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc, những nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn trƣớc năm 2010. Một số luận văn thông qua mô hình hồi quy cùng với khảo sát thực tế đã đƣa ra đƣợc các giải pháp có tính thực tế cao và phù hợp với từng địa bàn nghiên cứu. Các luận văn đã đi sâu nghiên cứu vấn đề này, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những khoảng trống domỗi địa bàn có những đặc thù và đặc điểm riêng biệt phù hợp với từng địa bàn nghiên cứu, nên các giải pháp đƣa ra không thể áp dụng một cách đồng nhất. Hơn nữa, phần lớn các tác giả đều xuất phát từ mục tiêu tăng cƣờng, nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu của NSNN cho các hoạt động sự nghiệp nên cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu chƣa thật sự thoát ra khỏi tƣ duy bao cấp, chỉ mới nghiên cứu để tháo gỡ những vấn đề bất cập trong thực tế mà thôi. 11 Mặc dù trong luận văn, tác giả cũng sử dụng các tiêu chí về ngân sách nhƣ các luận văn khác nhƣng tác giả sẽ khai thác đi sâu vào xác định xu hƣớng biến động của từng nguồn thu trong cân đối ngân sách nhằm phục vụ cho việc phân tích, đánh giá công tác trong thu ngân sách. Đi sâu vào phân tích đánh giá những nguồn thu chủ yếu nổi bật trên địa bàn của tỉnh. Từ đó đƣa ra các giải pháp phù hợp trên địa bàn tỉnh nhằm đạt hiệu quả cao nhất khi áp dụng. 1.2. Cơ sở lý luận về Ngân sách Nhà nƣớc 1.2.1. Khái niệm về Ngân sách Nhà nƣớc NSNN ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nƣớc, Nhà nƣớc bằng quyền lực chính trị và xuất phát từ nhu cầu về tài chính để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã đặt ra những khoản thu, chi của NSNN. Điều này cho thấy chính sự tồn tại của Nhà nƣớc đối với đời sống kinh tế- xã hội là những yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và tính chất hoạt động của NSNN. Cho đến nay, thuật ngữ NSNN đƣợc phổ biến rộng rãi ở mọi quốc gia, tuy nhiên chƣa có một khái niệm thống nhất cho NSNN. Ở Việt Nam, Luật Ngân sách Nhà nƣớc số 83/2015/QH13 đƣợc Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 25/06/2015 định nghĩa: “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước”. Bên ngoài, hoạt động của NSNN biểu hiện đa dạng dƣới hình thức các khoản thu và các khoản chi tài chính của Nhà nƣớc ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế- xã hội. Các khoản thu, chi này đƣợc tổng hợp trong một Bảng dự toán thu chi tài chính đƣợc thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Các khoản thu mang tính chất bắt buộc của NSNN là một bộ phận các nguồn tài chính chủ yếu đƣợc tạo ra thông qua việc phân phối thu nhập quốc dân đƣợc sáng tạo ra trong khu vực sản xuất kinh doanh và các khoản chi chủ yếu của ngân sách mang tính chất cấp phát phục vụ cho đầu tƣ phát triển và tiêu dùng của xã hội. Nhƣ vậy, về hình thức có thể hiểu: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nƣớc có trong dự toán, đã đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền phê duyệt (Quốc 12 hội) và đƣợc thực hiện trong một năm để đảm bảo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc. Về nội dung, đằng sau hình thức biểu hiện ra bên ngoài của NSNN là một quỹ tiền tệ với các khoản thu và các khoản chi của nó, NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nƣớc nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc. Vậy, về bản chất có thể xác định: NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. 1.2.2. Mối quan hệ của Ngân sách nhà nƣớc NSNN là một khâu quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, biểu hiện các mối quan hệ kinh tế của Nhà nƣớc với các chủ thể khác nhƣ: - Quan hệ kinh tế của NSNN đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp: Là những quan hệ phát sinh trong quá trình phân phối lại các khoản thu nhập bằng việc NSNN cấp kinh phí cho các đơn vị quản lý Nhà nƣớc. Đồng thời, các đơn vị có hoạt động sự nghiệp có các khoản thu phí và lệ phí, nguồn thu này một phần các đơn vị làm nghĩa vụ tài chính đối với NSNN, một phần trang trải các khoản chi tiêu của mình để giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách. - Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp: Các quan hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình hình thành nguồn thu của Ngân sách dƣới hình thức các loại thuế, phí mà doanh nghiệp phải nộp. Đồng thời, ngân sách chi hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp dƣới hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ vốn - Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cƣ: 13 Quan hệ này đƣợc thể hiện qua việc một bộ phận dân cƣ thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nƣớc bằng việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí. Một bộ phận dân cƣ khác nhận từ NSNN các khoản trợ cấp theo chính sách. - Quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trƣờng tài chính: Quan hệ này phát sinh khi Nhà nƣớc tham gia trên thị trƣờng tài chính bằng việc phát hành các loại chứng khoán của kho bạc Nhà nƣớc nhằm huy động vốn của các chủ thể trong xã hội để đáp ứng yêu cầu cân đối vốn của NSNN. - Quan hệ tài chính với Nhà nƣớc khác và các tổ chức quốc tế: Thông qua các hình thức viện trợ, đầu tƣ nƣớc ngoài, vay, cho vay. Các quan hệ tài chính thuộc NSNN có những đặc điểm chung sau đây: - Việc tạo lập và sử dụng NSNN luôn gắn liền với quyền lực Nhà nƣớc và việc thực hiện các chức năng của Nhà nƣớc, đƣợc Nhà nƣớc tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. - NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nƣớc và chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công cộng. - NSNN là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nƣớc và đƣợc chia làm nhiều quỹ nhỏ, có tác dụng riêng và chi sau đó NSNN mới đƣợc dùng để thực hiện các mục đích đã định trƣớc. Đây là nét riêng có của NSNN so với các quỹ tiền tệ khác. - Hoạt động thu, chi NSNN theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. 1.2.3. Đặc điểm của Ngân sách nhà nƣớc NSNN vừa là nguồn lực để nuôi dƣỡng bộ máy Nhà nƣớc, vừa là công cụ hữu hiệu để Nhà nƣớc quản lý, điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội nên có những đặc điểm chính sau: - Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn liền với quyền lực kinh tế - chính trị của Nhà nƣớc, đƣợc Nhà nƣớc tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. NSNN là một bộ luật tài chính đặc biệt, bởi lẽ trong NSNN, các chủ thể của nó đƣợc thiết lập dựa 14 vào hệ thống các pháp luật có liên quan nhƣ hiến pháp, các luật thuế, nhƣng mặt khác, bản thân NSNN cũng là một bộ luật do Quốc hội quyết định và thông qua hằng năm, mang tính chất áp đặt và bắt buộc các chủ thể kinh tế - xã hội có liên quan phải tuân thủ. - Thứ hai, NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nƣớc và luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng. Nhà nƣớc là chủ thể duy nhất có quyền quyết định đến các khoản thu – chi của NSNN và hoạt động thu – chi này nhằm mục tiêu giúp Nhà nƣớc giải quyết các quan hệ lợi ích trong xã hội khi Nhà nƣớc tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nƣớc với các tổ chức kinh tế - xã hội, các tầng lớp dân cƣ... - Thứ ba, NSNN là một bản dự toán thu chi. Các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm lập NSNN và đề ra các thông số quan trọng có liên quan đến chính sách mà Chính phủ phải thực hiện trong năm tài khóa tiếp theo. Thu, chi NSNN là cơ sở để thực hiện các chính sách của Chính phủ. Chính sách nào mà không đƣợc dự kiến trong NSNN thì sẽ không đƣợc thực hiện. Chính vì nhƣ vậy mà, việc thông qua NSNN là một sự kiện chính trị quan trọng, nó biểu hiện sự nhất trí trong Quốc hội về chính sách của Nhà nƣớc. Quốc hội mà không thông qua NSNN thì điều đó thể hiện sự thất bại của Chính phủ trong việc đề xuất chính sách đó, và có thể gây ra mâu thuẫn về chính trị. - Thứ tƣ, NSNN là một bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. Hệ thống tài chính quốc gia bao gồm: tài chính nhà nƣớc, tài chính doanh nghiệp, trung gian tài chính và tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình. Trong đó tài chính nhà nƣớc là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Tài chính nhà nƣớc tác động đến sự hoạt động và phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Tài chính nhà nƣớc thực hiện huy động và tập trung một bộ phận nguồn lực tài chính từ các định chế tài chính khác chủ yếu qua thuế và các khoản thu mang tính chất thuế. Trên cơ sở nguồn lực huy động đƣợc, Chính phủ sử dụng quỹ ngân sách để tiến hành cấp phát kinh phí, tài trợ vốn cho các tổ chức kinh tế, các đơn vị thuộc khu vực công nhằm thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. - Thứ năm, đặc điểm của NSNN luôn gắn liền với tính giai cấp. Trong thời kỳ phong kiến, mô hình ngân sách sơ khai và tuỳ tiện, lẫn lộn giữa ngân khố của Nhà vua với ngân sách của Nhà nƣớc phong kiến. Hoạt động thu – chi lúc này mang tính cống nạp – ban phát giữa Nhà vua và các tầng lớp dân cƣ, quan lại, thƣơng nhân, thợ thuyền và các nƣớc 15 chƣ hầu (nếu có). Quyền quyết định các khoản thu – chi của ngân sách chủ yếu là do ngƣời đứng đầu một nƣớc (nhà vua) quyết định. Trong thời kỳ hiện nay (Nhà nƣớc tƣ bản chủ nghĩa hoặc Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa), ngân sách đƣợc dự toán, đƣợc thảo luận và phê chuẩn bởi cơ quan pháp quyền, quyền quyết định là của toàn dân đƣợc thực hiện thông qua Quốc hội. NSNN đƣợc giới hạn thời gian sử dụng, đƣợc quy định nội dung thu - chi, đƣợc kiểm soát bởi hệ thống thể chế, báo chí và nhân dân. 1.2.4. Vai trò của Ngân sách Nhà nƣớc Ngân sách Nhà nƣớc có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nƣớc. Vai trò của ngân sách Nhà nƣớc luôn gắn liền với vai trò của Nhà nƣớc theo từng giai đoạn nhất định. Trong nền kinh tế thị trƣờng, có thể nhìn nhận vai trò của NSNN dƣới các khía cạnh sau: 1.2.4.1. Huy động các nguồn tài chính của ngân sách Nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước Mức động viên các nguồn tài chính từ các chủ thể trong nguồn kinh tế đòi hỏi phải hợp lí nếu mức động viên quá cao hoặc quá thấp thì sẽ ảnh hƣởng đến sự phát triển của nền kinh tế,vì vậy cần phải xác định mức huy động vào ngân sách Nhà nƣớc một cách phù hợp với khả năng đóng góp tài chính của các chủ thể trong nền kinh tế. 1.2.4.2.Quản lí điều tiết vĩ mô nền kinh tế Ngân sách nhà nƣớc là công cụ định hƣớng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền . Trƣớc hết, Chính phủ sẽ hƣớng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà Chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ƣu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nƣớc sẽ cung cấp kinh phí đầu tƣ cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, trên cơ sở đó tạo môi trƣờng và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nƣớc là một trong những biện pháp căn bản để chống độc 16 quyền và giữ cho thị trƣờng khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể đƣợc sử dụng để hỗ trợ cho sự của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách Nhà nƣớc đảm bảo thực hiện vai trò định hƣớng đầu tƣ, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh. 1.2.4.3. NSNN là công cụ định hướng phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững ( vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế) Để định hƣớng và thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, Nhà nƣớc sử dụng công cụ thuế và chi ngân sách. Bằng công cụ thuế một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách, mặt khác Nhà nƣớc sử dụng các loại thuế, các mức thuế khác nhau sẽ góp phần kích thích sản xuất phát triển và hƣớng dẫn các nhà đầu tƣ bỏ vốn đầu tƣ vào những vùng những lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế theo hƣớng đã định. Đồng thời, với các khoản chi phí phát triển kinh tế, đầu tƣ vào cơ sở hạ tầng, vào các ngành kinh tế mũi nhọn.Nhà nƣớc có thể tạo điều kiện và hƣớng dẫn các nguồn vốn đầu tƣ của xã hội vào những vùng, lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. 1.2.4.4. NSNN là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát ( vai trò điều tiết trong lĩnh vực thị trường) Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trƣờng là luôn biến động và bị chi phối mạnh mẽ bởi các quy luật thị trƣờng với các yêu tố cung- cầu, giá cả thƣờng xuyên biến đổi. Sự mất cân đối giữa cung- cầu sẽ làm cho giá cả tăng lên hoặc giảm đột biến và gây ra biến động trên thị trƣờng, dẫn đến sự dịch chuyển vốn của các doanh nghiệp từ ngành này sang ngành khác, từ địa phƣơng này sang địa phƣơng khác. Việc dịch chuyển vốn hàng loạt sẽ tác động tiêu cực đến cơ cấu kinh tế, nền kinh tế phát triển không cân đối. Do đó, nhà nƣớc phải sử dụng ngân sách để can thiệp vào thị trƣờng. 1.2.4.5.NSNN là công cụ góp phần giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội) 17 Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy Nhà nƣớc, quân đội, công an, y tế,thể hiện vai trò quan trọng của NSNN đối với các lĩnh vực của toàn xã hội. Ngoài ra, NSNN là công cụ tài chính hữu hiệu đƣợc Nhà nƣớc sử dụng để điều tiết thu nhập giữa các bộ phận dân cƣ, với các sắc thuế nhƣ thu nhập lũy tiến, thuế tiêu thụ đặc biệt, một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách mặt khác lại điều tiết một phần thu nhập của tầng lớp dân cƣ có thu nhập cao. Bên cạnh đó, với các khoản chi của NSNN nhƣ chi trợ cấp, chi phúc lợi cho các chƣơng trình phát triển xã hội: Phòng chống dịch bệnh, phổ cập giáo dục tiểu học, dân số và kế hoạch hóa gia đình, lại là nguồn bổ sung thu nhập cho tầng lớp dân cƣ có thu nhập thấp và giải quyết các vấn đề xã hội. Các vai trò trên của NSNN cho thấy tính chất quan trọng của NSNN, với các công cụ của nó có thể quản lý toàn diện và có hiệu quả đối với toàn bộ nền kinh tế. 1.2.5. Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nƣớc 1.2.5.1. Sự cần thiết và tác dụng Chế độ phân cấp và quản lý ngân sách ở nƣớc ta ra đời từ năm 1967, tới nay đã qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định nhằm giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa ngân sách trung ƣơng và chính quyền các cấp trong quản lý ngân sách nhà nƣớc. NSNN đƣợc phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính quyền địa phƣơng là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống NSNN gồm nhiều cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề xuất và bố chí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nƣớc ta đang chống tƣ tƣởng địa phƣơng, cục bộ vẫn cần có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền địa phƣơng phát huy tính độc lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa phƣơng mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số khoản thu nhƣ: tiền cho thuê mặt đất, mặt nƣớc đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê và 18 tiền bán nhà thuộc sở hữu Nhà nƣớc, lệ phí trƣớc bạ, thuế môn bài,giao cho địa phƣơng quản lý sẽ hiệu quả hơn. Phân cấp quản lý NSNN là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của NSNN với các hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nƣớc. Phân cấp quản lý NSNN đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo phƣơng tiện tài chính cho việc duy trì và phát triển hoạt động của các cấp chính quyền ngân sách từ trung ƣơng đến điah phƣơng mà còn tạo điều kiện phát huy đƣợc các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa phƣơng trong cả nƣớc. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá NSNN đƣợc tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng nhƣ quan hệ giữa các cấp ngân sách đƣợc tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của NSNN. Đồng thời, phân cấp quản lý NSNN còn có tác động thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn. Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nƣớc trung ƣơng và các cấp chính quyền địa phƣơng trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành NSNN đúng đắn và hợp lý sẽ là một giải pháp quan trọng trong quản lý NSNN. 1.2.5.2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền Nhà nƣớc về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành NSNN. Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: - Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nƣớc. Phân cấp quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp quản lý NSNN. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp. Thực chất của nguyên 19 tắc này là giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền lợi, quyền lợi phải tƣơng xứng với nhiệm vụ đƣợc giao. Mặt khác, nguyên tắc này còn đảm bảo tính độc lập tƣơng đối trong phân cấp quản lý NSNN ở nƣớc ta. - Hai là: ngân sách trung ƣơng giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nƣớc. Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà nƣớc trung ƣơng trong quản lý kinh tế, xã hội của cả nƣớc mà Hiến pháp đã quy định và từ tính chất xã hội hoá của nguồn tài chính quốc gia. Nguyên tắc này đƣợc thể hiện: + Mọi chính sách, chế độ quản lý NSNN đƣợc ban hành thống nhất và dựa chủ yếu trên cơ sở quản lý NSTW. + Ngân sách trung ƣơng chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn trong nền kinh tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ yếu có tỷ trọng lớn phải đƣợc tập trung vào NSTW, các khoản chi có tác động đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của cả nƣớc phải do NSTW đảm nhiệm. Ngân sách trung ƣơng chi phối hoạt động của NSĐP, đảm bảo tính công bằng giữa các địa phƣơng. - Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dƣới đƣợc cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét điều chỉnh số bổ sung một phần khi có trƣợt giá và một phần theo tốc độ tăng trƣởng kinh tế. Chế độ phân cấp xác định rõ khoản nào NSĐP đƣợc thu do NSĐP thu, khoản nào NSĐP phải chi do NSĐP chi. Không để tồn tại tình trạng nhập nhằng dẫn đến tƣ tƣởng trông chờ, ỷ lại hoặc lạm thu giữa NSTW và NSĐP. Có nhƣ vậy mới tạo điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phƣơng trong bố trí kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách nhiệm của địa phƣơng và trung ƣơng trong quản lý NSNN, tránh co kéo trong xây dựng kế hoạch nhƣ trƣớc đây. 20 - Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nƣớc, cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ. 1.3. Thu ngân sách Nhà nƣớc 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của thu ngân sách Nhà nƣớc 1.3.1.1. Khái niệm Để có kinh phí chi cho mọi hoạt động của mình, Nhà nƣớc đã đặt ra các khoản thu (các khoản thuế khóa) do mọi công dân đóng góp để hình thành nên quỹ tiền tệ của mình. Thực chất, thu NSNN là việc Nhà nƣớc dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà nƣớc. Ở Việt Nam, đứng về phƣơng diện pháp lý, thu NSNN bao gồm những khoản tiền Nhà nƣớc huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nƣớc. Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nƣớc và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nƣớc huy động các nguồn tài chính để hình thàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050008126_0486_2006126.pdf
Tài liệu liên quan