Luận văn Thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy tại trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục bảng biểu

Danh mục sơ đồ

MỞ ĐẦU .1

Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC

ĐẠI HỌC .7

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .7

1.1.1. Ngoài nước . 7

1.1.2. Trong nước . 8

1.2. Một số khái niệm cơ bản .10

1.2.1. Quản lý . 10

1.2.2. Quản lý giáo dục. 12

1.2.3. Quản lý trường học. 15

1.2.4. Hoạt động dạy học. 17

1.2.5. Quản lý hoạt động dạy học đại học . 19

1.3. Nội dung quản lý hoạt động giảng dạy đại học.19

1.3.1. Quản lý kế hoạch, chương trình giảng dạy. 19

1.3.2. Quản lý phân công giảng dạy . 21

1.3.3. Quản lý công tác chuẩn bị kế hoạch giảng dạy. 22

1.3.4. Quản lý thực hiện kế hoạch giảng dạy . 23

1.3.5. Quản lý đổi mới phương pháp giảng dạy, sử dụng phương tiện giảng

dạy của giảng viên . 26

1.3.6. Quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn cho GV. 28

pdf115 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 911 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy tại trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời gian và nghiêm cấm việc cắt xén chương trình cho các hoạt động khác CBQL 3.08 2.77 GV 2.56 2.61 4. Theo dõi việc thực hiện chương trình hàng tuần, hàng tháng của GV CBQL 2.38 2.54 GV 2.06 2.32 5. Sử dụng các phương tiện hỗ trợ cho việc theo dõi CBQL 2.31 2.23 GV 2.36 2.47 Qua bảng số liệu thống kê, chúng ta thấy: - Nội dung “Hướng dẫn cho GV nắm vững mục tiêu, kế hoạch, chương trình đào tạo”: cả CBQL và GV đánh giá là thường xuyên và có hiệu quả ( =X 2.46 – 2.75). Như vậy, các Trưởng, phó khoa, trưởng bộ môn đã thực hiện việc phổ biến mục tiêu, kế hoạch, chương trình giảng dạy cho các GV là người trực tiếp giảng dạy. Tuy nhiên, công tác này chỉ dừng lại ở mức “hiệu quả” trong mức độ thực hiện mà chúng tôi khảo sát. Hiệu quả ở đây là GV cũng nắm được mục tiêu, kế hoạch chương trình nhưng chưa được quán triệt một cách sâu sắc, điều này dẫn đến một hệ lụy là việc thực hiện kế hoạch dạy của GV dễ trì trệ, không theo đúng kế hoạch đã vạch ra từ trước, vẫn còn có một số GV lên lớp theo cảm tính, phòng học trống nhiều, một số môn học được GV rút ngắn, vì vậy mà chất lượng giảng dạy có phần bị giảm sút. 41 - Việc yêu cầu GV lập kế hoạch giảng dạy của học kỳ, của cả năm học và được kiểm tra phê duyệt vào đầu mỗi học kỳ cũng diễn ra thường xuyên và hiệu quả ( =X 2.28 – 2.70). Việc lập kế hoạch giảng dạy ở đầu mỗi HK là rất quan trọng, vì vậy mà hoạt động này cũng diễn ra thường xuyên ngay từ đầu năm học. Các CBQL đã phổ biến, yêu cầu GV thực hiện và GV cũng đã đưa ra các kế hoạch giảng dạy để được kiểm tra, phê duyệt. - CBQL khẳng định rất thường xuyên thực hiện việc bảo đảm thời gian và nghiêm cấm việc cắt xén chương trình cho các hoạt động khác (điểm trung bình là 3.08). Với GV, việc thực hiện được đánh giá là thường xuyên (điểm trung bình là 2.56). Kết quả thực hiện cho thấy là biện pháp này có hiệu quả ( =X 2.61 – 2.77). Đa số GV thực hiện đúng với kế hoạch chương trình, lên lớp đúng giờ và dạy đủ buổi học quy định. Tuy nhiên, qua việc trao đổi với một số Trưởng khoa và Cán bộ phòng thanh tra giáo dục, nhiều GV kết thúc môn học sớm hơn dự kiến rất nhiều. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng môn học. - Việc theo dõi thực hiện chương trình hàng tuần, hàng tháng của GV cũng diễn ra thường xuyên và đạt hiệu quả ( =X 2.06 – 2.54). Qua trao đổi có nhiều ý kiến cho rằng việc theo dõi hoạt động dạy của GV là những người có trình độ, đều là những nhà khoa học là vấn đề hết sức nhạy cảm và tế nhị. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng giảng dạy thì theo dõi thực hiện chương trình, kế hoạch là điều cần thiết và quan trọng. Vì vậy, nhà trường cũng cần phải có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong bối cảnh đào tạo theo học chế tín chỉ như hiện nay. - Các khoa cũng thường xuyên sử dụng có hiệu quả các phương tiện hỗ trợ cho việc theo dõi việc thực hiện chương trình của GV như biểu bảng, sổ báo giảng( =X 2.23 – 2.47). Như đã trình bày ở nội dung trên, theo dõi việc thực hiện chương trình của GV cần phải có những giải pháp hữu hiệu, vừa 42 đảm bảo tính công khai nhưng phải hết sức tế nhị thì sử dụng sổ báo giảng, biểu bảng cũng khá hợp lý, nâng cao tinh thần tự chịu trách nhiệm của GV. Tuy nhiên qua trao đổi với các CBQL, các khoa không thực hiện một cách đồng đều biện pháp này. Qua phân tích, chúng tôi nhận thấy rằng thực trạng quản lý kế hoạch, chương trình giảng dạy tại trường đã đạt được một số hiệu quả, tuy nhiên, cũng tồn tại nhiều thiếu sót, sơ hở của các CBQL. Nguyên nhân phần nào thuộc về việc thiếu sót các kỹ năng quản lý của các CBQL ở cấp Khoa. Vì vậy cần phải có những biện pháp quản lý hữu hiệu hơn nữa nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý kế hoạch, chương trình giảng dạy nói riêng và hiệu quả quản lý hoạt động giảng dạy nói chung. 2.2.3. Thực trạng quản lý phân công giảng dạy tại trường NLU Trong hoạt động quản lý phân công giảng dạy tại trường, chúng tôi chỉ khảo sát thực trạng thực hiện phân công giảng dạy, còn các hoạt động quản lý khác của quản lý phân công giảng dạy, chúng tôi tiến hành trao đổi, lấy ý kiến từ các CBQL như Trưởng khoa và Trưởng bộ môn. Bảng 2.5: Thực trạng quản lý phân công giảng dạy Nội dung Nhóm đánh giá Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả 1. Phân công theo chuyên môn mà GV được đào tạo CBQL 3.54 3.62 GV 3.34 3.58 2. Phân công theo năng lực của GV CBQL 3.08 3.23 GV 3.16 3.34 3. Phân công theo nguyện vọng của GV CBQL 2.92 3.15 GV 2.97 3.21 4. Phân công theo yêu cầu của SV CBQL 1.92 1.92 43 Nội dung Nhóm đánh giá Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả GV 1.99 2.20 5. Phân công khối lượng giờ giảng đảm bảo tính vừa sức cho từng GV CBQL 3.23 3.15 GV 2.82 2.92 6. Phân công ít nhất có 2 GV trở lên đảm nhận 1 môn trong chương trình đào tạo. Mỗi GV có thể đảm nhận từ 2-3 môn gần nhau trong chuyên ngành được đào tạo CBQL 3.15 3.08 GV 3.10 3.12 7. Đảm bảo sự cân đối, kế thừa giữa các thế hệ GV CBQL 3.00 3.38 GV 2.93 3.00 Qua bảng 2.5, chúng ta thấy: - CBQL và GV khẳng định phân công theo chuyên môn mà GV được đào tạo là rất thường xuyên ( =X 3.34 – 3.62). Điều này chứng tỏ trong chuẩn phân công giảng dạy, CBQL đặt vị trí ưu tiên hàng đầu là khả năng chuyên môn của GV. Vì vậy đã phát huy được sở trường của GV trong giảng dạy môn học, nâng cao tính hiệu quả của biện pháp này. Tuy nhiên một số GV đánh giá tính hiệu quả của biện pháp này là không thật cao lắm ( =X 2.47), vì đôi khi cũng cần phải cân nhắc giữa chuyên môn đào tạo, năng lực và các đặc điểm khác của GV trong phân công giảng dạy. - Việc “Phân công theo năng lực của GV” được CBQL và GV đánh giá là rất thường xuyên và đạt rất nhiều hiệu quả cho biện pháp này ( =X 3.04 – 3.34). Tùy vào năng lực của GV mà CBQL phân công số lượng giờ giảng đảm nhận phù hợp. Cùng với khả năng chuyên môn, việc phân công giảng 44 dạy theo năng lực góp phần làm tăng hứng thú giảng dạy, phát huy sở trường của GV trong giảng dạy môn học. - Phân công giảng dạy cũng cần phải “Phân công theo nguyện vọng của GV”, nội dung này được CBQL và GV khẳng định là thực hiện một cách thường xuyên ( =X 2.92 – 2.97). Bởi vậy mà tính hiệu quả của biện pháp này rất cao ( =X 3.15 – 3.21). Những nguyện vọng chính đáng của GV (GV nữ đang mang thai, hoặc có con nhỏ, nhà xa trường, nhà có người ốm) luôn được CBQL quan tâm, làm cho GV cảm thấy thoải mái, dễ chịu khi công tác, tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện trong tập thể sư phạm, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. - Trong tất cả các biện pháp quản lý phân công giảng dạy, thì nội dung “Phân công theo yêu cầu của SV” được đánh giá thấp nhất về mức độ thực hiện và mức hiệu quả: ít thực hiện thường xuyên nên ít có hiệu quả ( =X 1.92 – 1.99). Như vậy các khoa chưa làm tốt nội dung này, đặc biệt trong việc đào tạo theo học chế tín chỉ như hiện nay, SV được lựa chọn GV giảng dạy theo ý của mình. Qua việc trao đổi với các Trưởng khoa, đồng thời là Cố vấn học tập cho SV, các khoa đã cố gắng cơ cấu nhân sự của khoa để đáp ứng với nhu cầu lựa chọn GV của SV trong giảng dạy môn học; tuy nhiên, lực lượng GV còn tương đối yếu, SV thường đăng ký môn học với các GV được sắp xếp trước, hoặc SV cứ đăng ký, nhưng sau đó vào học với GV khác. Một lý do khác nữa mà khi trao đổi với hầu hết các trưởng khoa cho biết rằng, việc lựa chọn GV để đăng ký đã làm thay đổi số lượng giờ giảng của GV, có người thì vượt giờ rất nhiều, có người lại thiếu giờ dạy hoặc thậm chí không có giờ dạy. Bởi vậy, nhằm cân đối số lượng giờ giảng, các Trưởng khoa linh động bố trí GV để tránh tình trạng trên. Quả thật, đây cũng là một vấn đề mà tất cả những nhà quản lý chúng ta phải nghiên cứu để đưa ra một giải pháp hữu hiệu nhằm đào tạo theo đúng tinh thần của học chế tín chỉ. 45 - Việc “Phân công đảm bảo tính vừa sức” được CBQL đánh giá là rất thường xuyên và rất hiệu quả ( =X 3.15 – 3.23). Nhưng GV thì cho là chỉ thực hiện ở mức thường xuyên và có hiệu quả ( =X 2.82 – 2.82). Số lượng giờ giảng của mỗi GV là khác nhau vì phụ thuộc vào số lượng GV trong đơn vị, khả năng chuyên môn mỗi người, nguyên vọng cá nhân và tầm ảnh hưởng của GV đối với SV. Vì vậy, trong khả năng, nhiều Trưởng bộ môn đã linh động phân công GV phụ trách môn học một cách đồng đều, đảm bảo ai cũng có giờ dạy. Chính điều này đã tác động đến nguyện vọng đăng ký GV cho môn học của SV. - Trong phân công giảng dạy, CBQL luôn phân công ít nhất có 2 GV trở lên đảm nhận 1 môn trong CTĐT. Mỗi GV có thể đảm nhận từ 2-3 môn gần nhau trong chuyên ngành được đào tạo ( =X 3.10 – 3.21). Như vậy, các khoa đã làm tốt nội dung này, luôn có sự kế thừa giữa các thế hệ GV và tạo môi trường thân thiện, cùng hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong việc giảng dạy. Ở nội dung này, cả CBQL và GV đều đánh giá rất cao mức độ thực hiện và mức độ hiệu quả. Như vậy hoạt động quản lý phân công giảng dạy tại trường được thực hiện rất thường xuyên, đảm bảo đúng quy định (tỉ lệ GV/SV, năng lực, khả năng chuyên môn, nguyện vọng), quy trình trong quản lý phân công giảng dạy, góp phần vào thành tích của các hoạt động quản lý giảng dạy của trường. 46 2.2.4. Thực trạng quản lý việc chuẩn bị kế hoạch dạy tại trường NLU Bảng 2.6: Thực trạng quản lý việc chuẩn bị kế hoạch dạy tại trường NLU Nội dung Nhóm đánh giá Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả Điểm TB1 Điểm TB2 1. Phổ biến các quy định về kế hoạch dạy học, kế hoạch bài dạy CBQL 3.00 2.92 GV 2.82 2.78 2. Chỉ đạo tổ chuyên môn xác định thống nhất hệ thống mục tiêu, chuẩn kiến thức, phương hướng giảng dạy từng bài CBQL 3.15 3.15 GV 2.61 2.80 3. Phổ biến tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại kế hoạch bài dạy, kế hoạch môn dạy CBQL 2.85 2.92 GV 2.48 2.67 4. Kiểm tra định kỳ và đột xuất việc lập và sử dụng hiệu quả kế hoạch bài dạy, kế hoạch môn dạy CBQL 1.77 1.92 GV 1.81 1.96 Qua bảng số liệu thống kê trên, chúng ta thấy: - Trong quản lý việc chuẩn bị kế hoạch giảng dạy, CBQL đã thường xuyên phổ biến các quy định về kế hoạch dạy học, kế hoạch bài dạy ( =X 2.78 – 3.00). Nhưng qua trao đổi, nhiều CBQL và GV thừa nhận rằng giữa CBQL là người điều hành, phổ biến với GV là người nhận lệnh, thực hiện có sự khác biệt. Việc thực hiện biện pháp này cũng không đồng đều giữa các khoa (nhiều CBQL đã không thực hiện việc này). Qua trao đổi với các trưởng, phó khoa, 47 vẫn còn có một số GV không quan tâm tới các quy định, qui chế trong nhà trường, mặc dầu có rất nhiều kênh thông tin, thậm chí không tham dự sinh hoạt đầu năm với khoa như đã thông báo. - Các trưởng bộ môn cho là rất thường xuyên thực hiện việc “Chỉ đạo tổ chuyên môn xác định thống nhất hệ thống mục tiêu, chuẩn kiến thức, phương hướng giảng dạy từng bài( =X 3.15). Với GV, đánh giá việc thực hiện nội dung này là thường xuyên và hiệu quả ( =X 2.61 – 2.80). Như vậy, CBQL đánh giá cao hơn GV chứng tỏ công tác chỉ đạo, điều hành chưa được tốt. - Nội dung “Phổ biến tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại kế hoạch bài dạy, kế hoạch môn dạy” được đánh giá là thực hiện một cách thường xuyên và đạt hiệu quả ở hai đối tượng được khảo sát ( =X 2.48 – 2.92). Thật ra, ở bậc đại học, công tác chuẩn bị giảng dạy phụ thuộc vào ý thức, trách nhiệm của mỗi GV. Việc dự giờ thường chỉ ở giai đoạn tập sự của GV, nên việc xếp loại kế hoạch bài dạy, môn dạy chỉ diễn ra trên lý thuyết và được thực hiện rất hình thức. - Không thực hiện việc “Kiểm tra định kỳ và đột xuất việc lập và sử dụng hiệu quả kế hoạch bài dạy, kế hoạch môn dạy” là đánh giá của CBQL và GV ( =X 1.77 – 1.96). Như đã phân tích ở nội dung trên, dự giờ là việc chỉ xảy ra ở giai đoạn tập sự của GV, việc lập đề cương môn học là kế hoạch của môn học, bài học được nộp cho khoa và phòng đào tạo đã qua kiểm duyệt của Trưởng khoa. Vì vậy, việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất nội dung này trong năm học là ít gặp tại trường. 48 2.2.5. Thực trạng quản lý việc thực hiện kế hoạch giảng dạy của GV Bảng 2.7: Thực trạng quản lý thực hiện kế hoạch giảng dạy của GV tại trường NLU Nội dung Nhóm đánh giá Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả 1. Quán triệt tinh thần khoa học, trách nhiệm nghề nghiệp trong dự giờ và góp ý giờ dạy CBQL 2.15 2.38 GV 2.03 2.32 2. Xây dựng và phổ biến tiêu chuẩn đánh giá cho từng loại bài dạy đối với từng môn CBQL 2.15 1.85 GV 1.93 2.13 3. Có kế hoạch dự giờ cụ thể và thông báo trước khi giờ dạy diễn ra ít nhất một tuần CBQL 1.85 1.85 GV 1.72 1.97 4. Khi dự giờ có quan sát và ghi chép theo mẫu đã thống nhất CBQL 1.69 1.92 GV 1.79 1.96 5. Sau khi dự giờ có phân tích các dữ liệu so sánh với tiêu chí và chuẩn đánh giá bài dạy CBQL 1.92 1.92 GV 1.73 1.67 6. Khi góp ý về bài dạy có nêu những mặt được, không được, gợi ý những phương hướng khắc phục tồn tại, không có xung đột giữa GV CBQL 1.85 1.85 GV 1.76 1.92 7. Phổ biến những ưu điểm, thành tích của GV qua dự giờ CBQL 2.00 2.23 GV 1.85 2.16 8. Có sự mềm dẻo trong quản lý thực hiện giảng dạy: GV trẻ dự giờ nhiều CBQL 2.08 2.46 GV 1.99 2.20 9. Phối hợp với thanh tra đào tạo, phản hồi của SV trong quản lý thực hiện giảng dạy CBQL 2.00 2.15 GV 2.11 2.33 49 Qua bảng số liệu thống kê trên, chúng ta thấy rằng: - Nội dung “Quán triệt tinh thần khoa học, trách nhiệm nghề nghiệp trong dự giờ và góp ý giờ dạy” được đánh giá là thực hiện một cách thường xuyên ( =X 2.03 – 2.38). - CBQL cũng thường xuyên “Xây dựng và phổ biến tiêu chuẩn đánh giá cho từng loại bài dạy đối với từng môn” ( =X 2.13 – 2.38). - CBQL và GV cho là đã không thực hiện các nội dung “Có kế hoạch dự giờ cụ thể và thông báo trước khi giờ dạy diễn ra ít nhất một tuần; khi dự giờ có quan sát và ghi chép theo mẫu đã thống nhất; sau khi dự giờ có phân tích các dữ liệu so sánh với tiêu chí và chuẩn đánh giá bài dạy; khi góp ý về bài dạy có nêu những mặt được, không được, gợi ý những phương hướng khắc phục tồn tại, không có xung đột giữa GV” thì như phân tích ở trên, việc dự giờ chỉ xảy ra ở giai đoạn tập sự của GV. Cho nên, không có theo dõi việc thực hiện kế hoạch giảng dạy bằng cách dự giờ ( =X 1.85 – 1.97). Có chăng thì dự giờ trong giai đoạn tập sự có phổ biến những ưu điểm, thành tích của GV qua dự giờ, có sự mềm dẻo trong dự giờ với những GV trẻ, còn đang tập sự. - Ở nội dung “Phối hợp với thanh tra đào tạo, phản hồi của SV trong quản lý thực hiện giảng dạy” cũng được thực hiện thường xuyên ( =X 2.00 – 2.33) và công tác này có tác dụng góp phần hiệu quả trong việc nâng cao ý thức, tinh thần, trách nhiệm của GV đối với môn học mình đảm nhận. Tóm lại, quản lý hoạt động chuẩn bị lên lớp và lên lớp của GV nên theo quản lý hoạt động dạy học chung, đó là quản lý theo mục tiêu, nghĩa là quản lý mục tiêu, lịch trình, nội dung và hướng kiểm tra, đánh giá là chính. Các biện pháp như sổ báo bài, dự giờ, kiểm tra chỉ mang tính trợ giúp trong quá trình đảm bảo chất lượng đào tạo. 50 2.2.6. Thực trạng quản lý đổi mới phương pháp, phương tiện giảng dạy tại trường NLU Bảng 2.8: Thực trạng quản lý đổi mới phương pháp, phương tiện giảng dạy Nội dung Nhóm đánh giá Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả 1. Quán triệt nhận thức về định hướng đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của GV trong việc lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học CBQL 2.54 2.23 GV 2.89 2.96 2. Tổ chức thao giảng, dự giờ, trao đổi về các phương pháp dạy học CBQL 2.15 2.08 GV 2.12 2.23 3. Tổ chức các lớp bồi dưỡng, chuyên đề về phương pháp dạy học CBQL 1.85 2.00 GV 2.15 2.39 4. Khuyến khích và tăng cường khả năng tự nghiên cứu của GV CBQL 2.38 2.38 GV 2.65 2.86 5. Yêu cầu và tạo điều kiện tốt để GV thường xuyên sử dụng giáo trình điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trên lớp CBQL 3.00 2.85 GV 2.81 2.89 6. Tổ chức cho GV khai thác và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện có CBQL 2.92 2.77 GV 2.63 2.70 7. Thường xuyên tổ chức cho GV trao đổi, rút kinh nghiệm về kỹ năng sử dụng các thiết bị mới CBQL 2.00 2.00 GV 2.28 2.36 8. Tạo điều kiện cho GV vận hành thử các phương tiện, thiết bị dạy học trước khi lên lớp CBQL 2.46 2.46 GV 2.75 2.77 51 Qua bảng số liệu thống kê trên, chúng ta thấy rằng: - Việc “Quán triệt nhận thức về định hướng đổi mới phương pháp dạy học” và “Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của GV trong việc lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học” được CBQL và GV cho là đã thực hiện thường xuyên ( =X 2.23 – 2.96). Từ khi nhà trường chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ (năm 2008), điều đầu tiên và cơ bản là việc đổi mới các phương pháp dạy học sao cho phát huy tính tích cực, chủ động của SV. Công tác này được thực hiện thường xuyên trong các hội nghị về đào tạo của nhà trường và trong các cuộc họp bộ môn. Vì vậy mà nhiều GV đã tự tìm kiếm, học hỏi các phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy. - CBQL đánh giá đã thường xuyên “Tổ chức thao giảng, dự giờ, trao đổi về các phương pháp dạy học” ( =X 2.08 – 2.23), đồng thời, cũng thường xuyên “Tổ chức các lớp bồi dưỡng, chuyên đề về phương pháp dạy học” ( =X 2.00 – 2.39). Tuy nhiên, mức độ thực hiện và mức độ hiệu quả chưa cao, đồng thời, có sự không đồng đều trong việc tổ chức các hoạt động này ở các khoa, nhất là với các khoa có tỉ lệ GV lớn tuổi nhiều hơn GV trẻ. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy Khoa Ngoại ngữ - Sư phạm, khoa Khoa học và Công nghệ thực phẩm đã thực hiện rất tốt nội dung này. Nhiều CBQL ngại sự thay đổi mà nội dung này cũng có nhiều bất cập khi thực hiện. - CBQL cũng đánh giá là thường xuyên “Khuyến khích và tăng cường khả năng tự nghiên cứu của GV” ( =X 2.38 – 2.86). Bằng cách động viên, nêu cao tinh thần nghiên cứu của GV trước buổi họp và tăng cường các thiết bị, đáp ứng yêu cầu đổi mới PPGD (theo sự đồng ý của nhà trường) đã tạo điều kiện thuận lợi để GV tự tìm tòi, tự nghiên cứu để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, tích cực hóa người học. - Việc “Yêu cầu và tạo điều kiện tốt để GV thường xuyên sử dụng giáo trình điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trên lớp” cũng được CBQL thực 52 hiện thường xuyên và có hiệu quả( =X 2.81 – 3.00). Điện tử hóa các bài giảng được nhiều GV thực hiện, các hoạt động dạy học khác cũng được GV thiết kế điện tử hóa xen lẫn các nội dung bài học khiến bài học trở nên sinh động hơn. - Đồng thời, CBQL cũng “Tổ chức cho GV khai thác và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện có” một cách thường xuyên ( =X 2.63 – 2.92) Thông qua các buổi tập huấn về PPGD, CBQL hướng dẫn cách sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại và “Thường xuyên tổ chức cho GV trao đổi, rút kinh nghiệm về kỹ năng sử dụng các thiết bị mới” ( =X 2.00 – 2.36). Hiện nay, các phòng học của trường đều được trang bị hệ thống máy chiếu hiện đại (projector). Nhìn chung, đổi mới phương pháp dạy học đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Các trưởng, phó khoa đã quán triệt cho GV về tầm quan trọng và xu hướng đổi mới phương pháp dạy học, có tiến hành thao giảng, rút kinh nghiệm cho phương pháp dạy học tích cực nhưng việc tổ chức nắm vững các phương pháp dạy học tích cực tại trường còn chưa tốt. Phương pháp giảng dạy vẫn còn truyền thụ một chiều, SV vẫn còn thụ động ghi chép, chưa phát huy được tính tích cực của SV trong giờ lên lớp. 2.2.7. Thực trạng quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn của GV tại trường NLU Bảng 2.9: Thực trạng quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn của GV Nội dung Nhóm đánh giá Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả 1. Lập quy hoạch bồi dưỡng và phát triển đội ngũ GV phù hợp với năng lực của từng GV CBQL 2.46 2.38 GV 2.51 2.79 2. Thường xuyên tổ chức sinh hoạt CBQL 2.08 1.92 53 Nội dung Nhóm đánh giá Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả học thuật cho GV GV 2.26 2.56 3. Thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho các GV CBQL 2.15 2.23 GV 2.41 2.72 4. Thường xuyên tổ chức phương pháp dạy mới và kỹ năng lựa chọn, sử dụng phương pháp dạy học cho GV CBQL 2.15 2.23 GV 2.12 2.26 5. Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng kỹ năng xây dựng giáo trình điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại cho GV CBQL 1.77 1.54 GV 2.16 2.31 6. Tạo điều kiện và khuyến khích GV học tập nâng cao trình độ trong và ngoài nước CBQL 2.92 2.77 GV 3.01 3.13 7. Kiểm tra kết quả bồi dưỡng và xử lý kịp thời việc GV tham gia chưa tốt các hoạt động bồi dưỡng nâng cao trình độ CBQL 1.92 1.54 GV 1.96 1.96 8. Động viên GV tham gia viết các bài báo khoa học về chuyên môn hoặc về phương pháp cho các tạp chí chuyên ngành trong nước và thế giới CBQL 2.69 2.62 GV 2.57 2.68 54 Qua bảng số liệu thống kê trên, chúng ta thấy: - Việc “Lập quy hoạch bồi dưỡng và phát triển đội ngũ GV phù hợp với năng lực của từng GV” được thực hiện một cách thường xuyên ( =X 2.38 – 2.79). - Trong bồi dưỡng chuyên môn cho GV, CBQL cũng thường xuyên tổ chức sinh hoạt học thuật cho GV ( =X 2.26 – 2.56). Sinh hoạt học thuật trong bộ môn được tổ chức thường xuyên, định kỳ (mỗi tháng một lần, một GVtrình bày một chuyên đề) giúp GV có thể học hỏi, trao đổi về PPGD, cách thiết kế và trình bày bài giảng. Tuy nhiên, hoạt động này cũng không được thực hiện một cách đồng đều ở các khoa. Qua nghiên cứu thì chúng tôi nhận thấy cần phải nhân rộng hình thức này ở tất cả các khoa trong trường. - Việc tổ chức các phương pháp dạy mới và kỹ năng lựa chọn, sử dụng phương pháp dạy học cho GV được thực hiện thường xuyên ( =X 2.12 – 2.26) thông qua các buổi sinh hoạt học thuật của bộ môn, của khoa. - CBQL ít hoặc không tổ chức bồi dưỡng kỹ năng xây dựng giáo trình điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại cho GV ( =X 1.54 – 1.77). Qua trao đổi với nhiều CBQL, thì họ cho GV có thể học hỏi việc sử dụng các phương tiện hiện đại thông qua các buổi sinh hoạt học thuật nên không cần phải tổ chức riêng các buổi bồi dưỡng kỹ năng xây dựng giáo trình điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại cho GV. - Hoạt động tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho các GV được đánh giá là thường xuyên ( =X 2.15 – 2.72). Tuy nhiên, việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn chỉ phù hợp với những GV nằm trong các chương trình đào tạo của nhà trường. Vì vậy mà CBQL thường xuyên “Tạo điều kiện và khuyến khích GV học tập nâng cao trình độ trong và ngoài nước” 55 ( =X 2.77 – 3.33). Bất kể khi nào GV có nhu cầu, hoặc có các học bổng nước ngoài, Khoa và nhà trường luôn tạo điều kiện để GV có thể tham gia. Tuy nhiên, vì chính sách ưu đãi và quy chế ràng buộc (học phí tự đóng nếu học ngoài trường, giờ nghĩa vụ không được giảm) với cán bộ đi học là khắt khe, không phù hợp nên rất nhiều GV không thích được nhà trường cử đi học. Như vậy, cần có những quy định hợp lý hơn về giờ nghĩa vụ và tài trợ học phí để GV yên tâm học tập, nâng cao trình độ chuyên môn. - CBQL không thực hiện việc “Kiểm tra kết quả bồi dưỡng và xử lý kịp thời việc GV tham gia chưa tốt các hoạt động bồi dưỡng nâng cao trình độ”( =X 1.54 – 1.96). Điều này các Trưởng khoa thường đổ lỗi vì những bất hợp lý về việc cử cán bộ đi học nên họ cũng ngại khi phải kiểm tra kết quả bồi dưỡng và xử lý kịp thời việc GV tham gia chưa tốt các hoạt động bồi dưỡng nâng cao trình độ (hiện nay nhà trường chỉ mới ban hành quy định chế tài với GV được cử đi học mà không hoàn thành đúng thời hạn). - Trong các biện pháp quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn của GV cũng cần phải bồi dưỡng, động viên về các hoạt động nghiên cứu khoa học. CBQL đã thường xuyên “Động viên GV tham gia viết các bài báo khoa học về chuyên môn hoặc về phương pháp cho các tạp chí chuyên ngành trong nước và thế giới”( =X 2.57 – 2.69) bằng tinh thần và vật chất. * Đánh giá công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn của GV tại trường NLU: Điều 15 Luật giáo dục quy định trách nhiệm và quyền hạn của nhà giáo như sau: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học”. Bồi dưỡng để nâng cao chất lượng nhà giáo, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục. Nhà trường vẫn chưa thật làm tốt công tác quy hoạch bồi dưỡng GV. Đặc biệt, cử GV đi học nước ngoài hiện nay là một vấn đề nan giải. Nhà trường chưa có chính sách sử dụng, đãi ngộ 56 hợp lý khi GV bồi dưỡng ở nước ngoài về nên đa số GV bỏ trường sang các cơ sở khác hoặc làm việc luôn tại nước mình đang học. Tình trạng này dẫn đến một hệ lụy là cơ cấu đội ngũ vẫn thiếu và tương đối yếu (minh chứng bằng việc số GV/SV: 1/43_ theo điều tra của p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2013_01_18_4798132207_7219_1869250.pdf
Tài liệu liên quan