MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TỰ LỰC CỦA TRẺ MẪU GIÁO .6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.6
1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu trên thế giới.6
1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam .10
1.2. Những vấn đề lý luận về tính tự lực của trẻ mẫu giáo.11
1.2.1. Khái niệm tính tự lực.11
1.2.2. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. .12
1.2.3. Tính tự lực của trẻ mẫu giáo.24
1.2.4. Nội dung giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong chương
trình giáo dục mầm non .34
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.35
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .42
Chương 2: THỰC TRẠNG TÍNH TỰ LỰC CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6
TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG
MẦM NON TẠI TP.HCM.44
2.1. Khái quát về quá trình nghiên cứu thực trạng tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 –
6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở một số trường mầm non tại TP.HCM.44
2.1.1. Mục đích nghiên cứu.44
2.1.2. Khách thể nghiên cứu.44
2.1.3. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu .44
2.1.4. Phương pháp nghiên cứu.44
2.2. Tiêu chí và thang đánh giá TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động
vui chơi.46
155 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 945 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở một số trường mầm non tại tp. Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tuổi trong HĐVC
theo tiêu chí tính hợp tác và kỹ năng giải quyết vấn đề trong khi chơi
Bảng 2.5. Tính hợp tác và kỹ năng giải quyết vấn đề trong khi chơi
STT Những biểu hiện
Thường
xuyên
%
Thỉnh
thoảng
%
Không có
%
Điểm
TB
Hợp tác trong khi chơi
1 Hợp tác với bạn để tiến hành trò chơi 35,0 62,5 2,5 2,32
2 Biết tự điều khiển trò chơi 29,2 63,3 7,5 2,21
Điểm trung bình chung 2,26
Kỹ năng giải quyết vấn đề
Biết giải quyết các tình huống nảy
sinh trong khi chơi
20.,8 60,8 18,3 2,02
Biết thỏa hiệp, tự kiềm chế khi chơi
với bạn
25,8 68,3 5,8 2,20
Điểm trung bình chung 2,11
56
Tính hợp tác là một nét phát triển mới, một nét tiêu biểu trong hoạt động vui
chơi của trẻ đặc biệt là trong trò chơi ĐVTCĐ. Không có sự phối hợp với nhau giữa
các thành viên thì không thành trò chơi được . Mức độ phối hợp giữa các thành viên
trong trò chơi cho thấy khả năng cùng bạn tổ chức trò chơi của trẻ. Phân tích số liệu
ở bảng 2.4.2 cho thấy: 62,5% trẻ thỉnh thoảng và 35,0% thường xuyên “Hợp tác với
bạn để tiến hành trò chơi”. Kết quả này cho thấy, tỉ lệ trẻ thỉnh thoảng mới có hợp
tác với bạn khá cao. Thực tế qua quan sát cho thấy, trẻ chưa biết cách phối hợp với
bạn để thảo luận, bàn bạc về nội dung chơi, hợp tác với bạn để cùng thực hiện hành
động. Ở góc xây dựng lớp Lá 2 trường MN Sài Gòn khi được hỏi: “Các con có thảo
luận với nhau nhóm mình sẽ xây dựng công viên như thế nào không?”, bé H.P trả
lời: “Dạ không cần phải thảo luận đâu cô ơi vì tụi con đã biết xây công viên rồi”.
Như vậy, chưa có sự hợp tác chặt chẽ giữa các thành viên trong cùng nhóm chơi
nên mỗi trẻ sẽ tự thể hiện ý tưởng của mình, bé thì xây bãi đậu xe, bé thì làm hàng
rào Chính sự hợp tác lỏng lẻo này làm cũng ảnh hưởng đến khả năng tự điều
khiển trò chơi của trẻ, biểu hiện này cũng ở mức trung bình với điểm TB là 2,21 có
đến 63,3% trẻ thỉnh thoảng biết tự điều khiển trò chơi.
Vì tính hợp tác với bạn chưa cao nên cũng ảnh hưởng đến việc giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong trò chơi. Khi có tranh chấp, trẻ thường chưa biết thỏa hiệp với
bạn để giải quyết thấu đáo vấn đề. Như ở góc nghệ thuật lớp Lá 1 trường MN Sài
Gòn, có 5 bé gái cùng tham gia vào góc chơi này, các bé tự hóa trang cho mình để
lên sân khấu biểu diễn nhưng khi đến giờ biểu diễn thì có sự cố đó là các bé đã
tranh giành với nhau về việc ai là người lên biểu diễn, theo các bé thì chỉ có 2 người
biểu diễn thôi còn các bạn khác sẽ làm khán giả, không bạn nào chịu ở dưới cả nên
đã cãi nhau, rồi giận hờn và khóc. Cuối cùng vì không thỏa hiệp được với nhau nên
việc biểu diễn của các “nghệ sĩ” ở góc nghệ thuật cũng không được diễn ra. Kết quả
khảo sát ở bảng 2.5 cho thấy chỉ 20,8% thường xuyên biết giải quyết các tình huống
nảy sinh trong khi chơi và 25,8% biết thỏa hiệp, tự kiềm chế khi chơi với bạn, còn ở
mức thỉnh thoảng thì có đến 60,8% biết giải quyết các tình huống nảy sinh trong khi
chơi và 68,3% biết thỏa hiệp, tự kiềm chế khi chơi với bạn. Vì kỹ năng hợp tác với
57
bạn còn hạn chế nên trẻ cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tự mình giải quyết
những tình huống nảy sinh trong trò chơi và do đó khả năng tự điều khiển trò chơi
cũng không cao nên khi có xung đột trẻ luôn cần sự giúp đỡ của GV.
* Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVC
theo tiêu chí
Bảng 2.6. Tính sáng tạo và tự tin trong khi chơi
STT Những biểu hiện
Thường
xuyên
%
Thỉnh
thoảng
%
Không
có
%
Điểm
TB
Tính sáng tạo trong khi chơi
1 Biết tạo ra những tình huống mới
trong khi chơi
15,8 74,2 10,0 2,05
2 Có nhiều ý tưởng trong quá trình
chơi
24,2 69,2 6,7 2,17
3 Tự tạo đồ chơi mới trong lúc chơi 6,7 60,8 32,5 1,74
4 Biết sáng tạo nội dung chơi 21,7 56,7 21,7 2,00
5 Biết nghĩ ra các trò chơi độc đáo để
thu hút bạn cùng chơi
7,5 48,3 44,2 1,63
6 Biết phát triển chủ đề chơi dưới sự
hướng dẫn của giáo viên
24,2 71,7 4,2 2,20
Điểm trung bình chung 1,96
Tự tin, hứng thú trong khi chơi
1 Chơi vui vẻ, hăng say, thích thú 59,2 40,8 0 2,59
2 Mạnh dạn, tự tin khi tham gia trò
chơi
75,0 25,0 0 2,75
Điểm trung bình chung 2,67
Kết quả ở bảng 2.6 cho thấy tính sáng tạo của trẻ trong HĐVC ở mức trung
bình với đểm TBC là 1,96. Xét về từng tiêu chí nhỏ của tính sáng tạo trong HĐVC
58
của trẻ cho thấy dao động từ 48,3% đến 74,2% ở mức độ thỉnh thoảng. Chỉ có
15,8% thường xuyên và 74,2% thỉnh thoảng biết tạo ra những tình huống mới trong
khi chơi. Qua quan sát thực tế, điều này được thể hiện rất rõ trong trò chơi của trẻ, ở
các góc chơi trẻ thường chơi theo cách cũ hoặc theo sự hướng dẫn của cô, chưa biết
tạo ra những tình huống mới. Như ở góc gội đầu cắt tóc lớp Lá 2 trường MN Thực
hành, các bé chỉ thực hiện những nội dung chơi quen thuộc gội đầu, sơn móng tay,
móng chân. Khi người nghiên cứu nhập vai chơi với yêu cầu thợ làm tóc làm cho
một kiểu tóc đẹp và trang điểm để di dự tiệc, có lưu ý là đi bằng xe máy, phải đội
mũ bảo hiểm (gắn với chủ điểm “Phương tiện giao thông” đang thực hiện) nên thiết
kế kiểu tóc cho phù hợp không bị xẹp khi đội mũ bảo hiểm. Thì bé Nhật Mai cũng
đã làm tóc theo yêu cầu với những hành động giả vờ như quấn tóc, xịt keo và đánh
phấn, tô môi soncho khách hàng. Với một tình huống mới xuất hiện như vậy cũng
là một cách tác động giúp trẻ sáng tạo thêm các tình huống mới khác, như các trẻ
khác ở góc gia đình cũng được gợi ý là đến tiệm uốn tóc để cắt tóc và làm nhiều
kiểu tóc đẹp để chuẩn bị cùng gia đình đi du lịch.
Có 69,2% có nhiều ý tưởng trong quá trình chơi và 56,7% biết sáng tạo nội
dung chơi ở mức thỉnh thoảng. Trên thực tế, trẻ cũng đã thể hiện được ý tưởng
trong trò chơi nhưng không thường xuyên, như ở góc lắp ráp trẻ đã sử dụng những
vật liệu để ráp thành máy bay, xe cứu hộ, thuyền chở hàng, con rồng, sư tử, siêu
nhân những sản phẩm này được lặp lại nhiều lần trong trò chơi của trẻ. Ở góc gia
đình thì hôm nào cũng chỉ nấu ăn cho gia đình. Khi được gợi ý thì góc gia đình đã
lên kế hoạch để tổ chức bữa tiệc mừng ngày 8 tháng 3, các con đi cửa hàng mua hoa
tặng mẹ. Cửa hàng bán thức ăn, được gợi ý có thêm một cửa hàng bán hoa và quà
để khách hàng đến mua hoa, quà mừng ngày 8 tháng 3. Như vậy nếu có sự tác động
phù hợp cũng sẽ kích thích được sự sáng tạo của trẻ trong trò chơi.
Các biểu hiện về tính sáng tạo khác như: biết phát triển chủ đề chơi dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, biết nghĩ ra các trò chơi độc đáo để thu hút bạn cùng chơi
và tự tạo đồ chơi mới trong lúc chơi cũng ở mức độ thỉnh thoảng là chủ yếu. Đặc
59
biệt có đến 44,2% trẻ ở mức độ không có và 48,3% thỉnh thoảng biết nghĩ ra các trò
chơi độc đáo để thu hút bạn cùng chơi. Với tính chất đặc thù của trò chơi ĐVTCĐ
khi nhận vai chơi trẻ sẽ thực hiện hành động chơi theo vai chơi và nội dung chơi đã
chọn, trẻ sẽ cố gắng để hoàn thành vai chơi, việc nghĩ ra các trò chơi độc đáo để thu
hút bạn cùng chơi thật sự rất khó đối với trẻ nên rất cần sự hỗ trợ của GV, đặc biệt
khả năng này cũng phụ thuộc rất lớn vào phương pháp tố chức HĐVC của GV, các
cô có yêu cầu hoặc gợi ý để trẻ biết nghĩ ra các trò chơi độc đáo để thu hút bạn cùng
chơi hay không, với những tác động thường xuyên thì khả năng này ở trẻ có thể
phát triển ở mức cao hơn.
Say mê, hứng thú và mạnh dạn, tự tin cũng là một trong những biểu hiện của
TTL của trẻ trong HĐVC. Kết quả ở bảng 2.5 cho thấy biểu hiện này của trẻ ở mức
cao với điểm TBC là 2,67. Trò chơi ĐVTCĐ là hoạt động tự nguyện, tự giác, vì thế
hứng thú là yếu tố đầu tiên thúc đẩy trẻ đến với trò chơi. Qua quan sát cho thấy, trẻ
chơi rất vui vẻ, hào hứng, nhiệt tình. Khi được hỏi chơi có thích không, vui không,
thì bé T.H ở lớp Lá 2 trường MN Thực hành trả lời: con rất thích chơi ở góc xây
dựng, ngày nào con cũng chơi ở góc này vì con muốn làm kỹ sư xây dựng để xây
được nhiều công trình” và trẻ cũng rất mạnh dạn, tự tin chia sẻ về những công trình
xây dựng của mình. Tuy nhiên, vẫn có một số trẻ dễ chán và hứng thú không bền
vững, như bé Đ.K ở lớp Lá 1 trường MN Sài Gòn chơi xếp cờ Domino, lúc đầu bé
xếp say sưa, thích thú nhưng khi xếp bị dư cờ bé tỏ ra mất tự tin và không thích nữa,
khi cô gợi ý bé xếp được và xếp một lần nữa, sau đó đã chuyển sang góc chơi khác.
* Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVC
theo tiêu chí tính kiên trì, bền bỉ theo đuổi trò chơi đến cùng
60
Bảng 2.7. Tính kiên trì, bền bỉ theo đuổi trò chơi đến cùng
STT Những biểu hiện
Thường
xuyên
%
Thỉnh
thoảng
%
Không
có
%
Điểm
TB
1 Không có sự cố gắng để đạt được
mục đích nhất định trong trò chơi
15,0 35,0 50,0 1,65
2 Kiên trì thực hiện đúng luật chơi 23,3 76,7 0 2,23
3 Có sự nỗ lực, cố gắng để hoàn thành
nhiệm vụ của vai chơi
19,2 73,3 7,5 2,11
4 Chơi đến cùng không bỏ giở giữa
chừng
25,0 68,3 6,7 2,18
Điểm trung bình chung 2,04
Tính kiên trì, bền bỉ là một nét ý chí quan trọng. Nó thể hiện ở chỗ trẻ biết
khắc phục khó khăn để đạt được mục đích đề ra. Kết quả nghiên cứu ở bảng 2.7 cho
thấy tính kiên trì, bền bỉ trong trò chơi của trẻ ở mức trung bình là chủ yếu. Các
biểu hiện này tập trung cơ bản ở mức độ thỉnh thoảng như: kiên trì thực hiện đúng
luật chơi (76,7%), có sự nỗ lực, cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ của vai chơi
(73,3%), Chơi đến cùng không bỏ giở giữa chừng (68,3%). Quan sát trẻ chơi cho
thấy những biểu hiện này thể hiện ở trẻ rất rõ. Khi chơi ở góc học tập bé T.K và
T. N ở lớp Lá 1 trường MN Sài Gòn dùng sợi chỉ xỏ vào các chữ cái, xỏ được mới
vài chữ thấy khó khăn quá bé không xỏ nữa để đồ chơi đó rồi chuyển sang góc chơi
khác. Trao đổi thêm với GV, các cô cho biết, trẻ thường không kiên trì, cố gắng làm
đến cùng. Khi gặp sự cố như có sự tranh giành về vai chơi, bất đồng về cách chơi
trẻ sẽ không cố gắng để giải quyết mà thường bỏ dở vai đó không chơi nữa và
chuyển sang góc khác. Nên để giáo dục tính kiên trì, bền bỉ cho trẻ, GV thường có
những yêu cầu thậm chí bắt buộc trẻ phải làm cho đến cùng những việc mà mình đã
được phân công. Tuy nhiên, vì không có khả năng vượt qua trở ngại nên trẻ cũng dễ
nản và bỏ dở giữa chừng.
61
* Mức độ biểu hiện hành vi tự lực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVC
theo tiêu chí tự nhận xét, đánh giá khi kết thúc trò chơi
Bảng 2.8. Tự nhận xét, đánh giá khi kết thúc trò chơi
STT Những biểu hiện
Thường
xuyên
%
Thỉnh
thoảng
%
Không
có
%
Điểm
TB
1 Biết tự nhận xét, đánh giá về mình
và các bạn sau khi chơi
33,3 64,2 2,5 2,30
2 Biết cất dọn đồ chơi gọn gàng, để
đúng nơi qui định
59,2 34,2 6,7 2,52
Kết quả ở bảng 2.8 cho thấy, kỹ năng tự nhận xét, đánh giá và cất dọn đồ
chơi sau khi chơi xong của trẻ ở mức độ trung bình. Có đến 64,2% trẻ thỉnh thoảng
biết tự nhận xét, đánh giá về mình và các bạn sau khi chơi. Khi được hỏi thêm thì bé
A.K lớp Lá 1 trường MN Thực hành giải thích: sau khi chơi xong con tự nhận xét,
đánh giá về mình và các bạn sau khi cô yêu cầu nhận xét về góc chơi của mình. Qua
trao đổi trực tiếp với GVMN, các cô cho biết: Trẻ vẫn chưa biết cách tự nhận xét,
đánh giá về mình thường là khi được cô đề nghị và gợi ý thì trẻ mới nhận xét, đánh
giá được, khi nhận xét, đánh giá trẻ còn nhận xét chung chung, theo một cách giống
nhau như chơi ngoan không, có tranh giành vai chơi, đồ chơi không chứ trẻ chưa
biết nhận xét, đánh giá gắn liền với nội dung chơi, vai chơi và luật chơi.
Việc cất dọn đồ chơi gọn gàng, đúng nơi qui định được trẻ thể hiện thường
xuyên hơn chiếm 59,2% với điểm trung bình 2,52 là ở mức cao. Điểm trung bình
của hành vi này nghiêng về phía trên trung bình một chút. Nhìn chung, các trẻ biết
cất dọn đồ chơi sau khi chơi xong nhưng không phải lúc nào cũng tự giác, tự lực
thực hiện mà thường hành vi này thể hiện gắn liền với các yêu cầu của GV, thậm
chí có khi phải nhắc nhở nhiều lần thì đồ chơi mới được dọn gọn gàng, đúng nơi
quy định. Bên cạnh đó vẫn có 34,2% trẻ thỉnh thoảng có hành vi này. Điều này cũng
chứng minh một điều trẻ vẫn chưa có TTL trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình
sau khi chơi xong là cất dọn đồ chơi.
62
2.3.2.3. Kết quả đánh giá của GV về biểu hiện TTL của trẻ MG 5 – 6 tuổi
trong hoạt động vui chơi
Bảng 2.9. Đánh giá của GV về biểu hiện TTL
của trẻ MG 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi
STT Biểu hiện
Mức độ
TX
%
TT
%
KC
%
1 Tự phân vai, nhận vai chơi 62,5 37,5 0
2 Tự chọn góc chơi, chủ đề chơi 100 0 0
3 Tự bàn bạc, thảo luận về nội dung chơi 50,0 50,0 0
4 Biết tự chọn đồ chơi 100 0 0
5 Biết tự chọn và rủ bạn cùng chơi 75,0 25,0 0
Tính hợp tác trong khi chơi
1 Hợp tác với bạn để tiến hành trò chơi 50,0 50,0 0
2 Biết tự điều khiển trò chơi 62,5 37,5 0
Khả năng giải quyết vấn đề
1 Biết thỏa hiệp, tự kiềm chế khi chơi
với bạn
50,0 50,0 0
2 Biết giải quyết các tình huống nảy sinh
trong khi chơi
12,5 75,5 12,5
Sáng tạo trong trò chơi
1 Biết tạo ra những tình huống mới trong
khi chơi
0 100 0
2 Có nhiều ý tưởng trong quá trình chơi 25,0 62,5 12,5
3 Tự tạo đồ chơi mới trong lúc chơi 0 75,0 25,0
4 Biết sáng tạo nội dung chơi 25,0 50,0 25,0
5 Biết phát triển chủ đề chơi dưới sự
hướng dẫn của giáo viên
25,0 75,0 0
6 Biết nghĩ ra các trò chơi độc đáo để thu
hút bạn cùng chơi
12,5 62,5 0
63
Tự tin, hứng thú trong khi chơi
1 Chơi vui vẻ, hăng say, thích thú 87,5 12,5 0
2 Mạnh dạn, tự tin khi tham gia trò chơi 87,5 12,5 0
Tính kiên trì, bền bỉ
1 Kiên trì thực hiện đúng luật chơi 62,5 37,5 0
2 Có sự nỗ lực, cố gắng để hoàn thành
nhiệm vụ của vai chơi
50,0 50,0 0
3 Chơi đến cùng không bỏ giở giữa
chừng
37,5 50,0 12,5
Tự nhận xét, đánh giá
1 Biết tự nhận xét, đánh giá về mình và
các bạn sau khi chơi
37,5 50,0 12,5
2 Biết cất dọn đồ chơi gọn gàng, để đúng
nơi qui định
87,5 12,5 0
Qua bảng 2.9 cho thấy theo sự đánh giá của giáo viên TTL của trẻ biểu hiện
trước khi chơi ở tiêu chí “tự chọn đồ chơi và góc chơi” là thường xuyên 100% GV
đánh giá như vậy. Sự đánh giá này của GV cũng có sự tương đồng với kết quả khảo
sát thực trạng về những hành vi này của trẻ. Ở lứa tuổi này, trẻ có thể tự lực trong
việc lựa chọn đồ chơi, vật liệu phù hợp với vai chơi và nội dung chơi của mình.
Có 50% GV cho rằng trẻ thường xuyên tự bàn bạc, thảo luận về nội dung
chơi. Nhưng khi tiến hành quan sát giờ chơi của trẻ, chúng tôi thấy hành vi này ở trẻ
chỉ thỉnh thoảng vì trẻ thường thực hiện theo thói quen hàng ngày, cứ đến giờ chơi
trẻ sẽ tự vào các góc chơi và tự thực hiện hành động chơi của mình mà ít có sự trao
đổi bàn bạc trước với bạn cùng chơi cho nên ở các góc chơi thường ít thấy trẻ giao
tiếp, trò chuyện với nhau khi chơi.
Kết quả khảo sát trên cũng cho thấy GV đánh giá cao hành vi “Tự phân vai,
nhận vai chơi” (62,5%) và “Biết tự chọn và rủ bạn cùng chơi” (75%), GV nhận định
trẻ thường xuyên biểu hiện những hành vi tự lực này trong khi chơi. Tuy nhiên qua
khảo sát thực trạng, những biểu hiện này của trẻ chỉ ở mức độ thỉnh thoảng là chủ
yếu, vì trẻ còn lệ thuộc vào sự yêu cầu và chỉ định của cô giáo về vai chơi và số
64
lượng trẻ chơi ở từng góc chơi, nên trẻ cũng ít chủ động trong việc chọn bạn chơi
cho phù hợp với nội dung chơi và chủ đề.
GV cũng đánh giá cao về sự tự tin và hứng thú của trẻ trong khi chơi. Có đến
87,5% GV nhận định trẻ thường xuyên “chơi vui vẻ, hăng say, thích thú” và “mạnh
dạn, tự tin khi tham gia trò chơi”. Qua khảo sát thực trạng, có thể nhận thấy cũng có
sự tương đồng với nhận định của GV. Còn về sự hợp tác với bạn thì có 50% GV
cho rằng trẻ thường xuyên có biểu hiện này và 50% GV nhận định trẻ chỉ thỉnh
thoảng. Khi trao đổi trực tiếp với GVMN thì các cô cho biết thêm: thực tế trẻ cũng
biết hợp tác với bạn trong khi chơi nhưng không thường xuyên lắm, vì trẻ thường tự
thực hiện hành động theo ý thích của cá nhân, thiếu sự trao đổi, thống nhất với bạn
về cách chơi, nội dung chơi. Trên thực tế, khi quan sát cũng cho thấy sự phối hợp
hành động với bạn trong khi chơi của trẻ không cao, không thường xuyên nên đôi
lúc làm cho bầu không khí chơi ở các góc chơi không tích cực lắm.
Tuy nhiên trên thực tế, trẻ thường được GV chỉ định góc chơi, đôi lúc trẻ
muốn chơi ở góc khác thì phải được sự đồng ý của cô, nhiều trẻ bị ép chơi ở một
góc nhiều lần nên chán, không thích chơi, khi được hỏi: “sao con không sang góc
khác chơi?”, trẻ bảo: “cô không cho, con không dám”. Sự áp đặt về góc chơi, vai
chơi của GV sẽ làm cho trẻ thiếu tính chủ động và tự chủ trong khi chơi, điều này
ảnh hưởng rất lớn đến TTL của trẻ.
Tính sáng tạo của trẻ trong trò chơi cũng được GV đánh giá ở mức thỉnh
thoảng là chủ yếu. Sự đánh giá này cũng tương đồng với kết quả khảo sát thực trạng
về hành vi này ở trẻ theo kết quả ở bảng 2.6. Cô T.T ở trường MN Thực hành cho
biết: Tính sáng tạo của trẻ trong HĐVC không cao, trẻ thường chơi theo những cách
cũ, nội dung chơi thường lặp lại vì vốn sống , kinh nghiệm của trẻ chưa phong phú
nên trẻ chưa có nhiều ý tưởng mới lạ để đưa vào trong nội dung chơi của mình. Nếu
được GV gợi ý kịp thời có nhiều trẻ cũng có sáng kiến và thể hiện rất tốt, biết phát
triển nội dung chơi, chủ đề chơi theo cách riêng của mình. Để trẻ có được khả năng
sáng tạo trong trò chơi cần phải có một quá trình tác động lâu dài.
65
GV cũng đánh giá cao sự tự tin và hứng thú của trẻ trong khi chơi có đến
87,5% GV nhận định trẻ thường xuyên chơi vui vẻ, hăng say, thích thú và mạnh
dạn, tự tin khi tham gia trò chơi. Qua khảo sát thực trạng, có thể nhận thấy cũng có
sự tương đồng với nhận định của GV. Khi được hỏi thêm về hứng thú chơi và sự tự
tin của trẻ trong HĐVC GV đã cho biết: được đóng vai và thực hiện các vai chơi là
trẻ rất thích. Có trẻ chơi say sưa đã hết giờ chơi rồi mà các bé vẫn còn muốn chơi
tiếp, cô phải giải thích và hứa ngày mai sẽ cho con chơi tiếp ở góc chơi đó. Cô T.T
cho biết thêm: những trẻ nào có vốn sống phong phú, sẽ có nhiều ý tưởng mới, sẽ
chơi rất hứng thú và tự tin. Trẻ cũng sẽ mạnh dạn trao đổi ý tưởng, biết cách trình
bày ý tưởng của mình với bạn và cùng bạn thực hiện ý tưởng đó.
Về tính kiên trì, bền bỉ của trẻ, GV có sự đánh giá khá cao, có đến 62,5% GV
cho rằng trẻ thường xuyên kiên trì thực hiện đúng luật chơi. Sự đánh giá này không
tương đồng với kết quả khảo sát thực trạng, biểu hiện này ở trẻ là 23,3% thường
xuyên còn 76,7% là thỉnh thoảng. Còn sự nỗ lực, cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ
của vai chơi thì được GV đánh giá 50% thường xuyên và 50% là thỉnh thoảng. Có
50% GV đánh giá thỉnh thoảng trẻ chơi đến cùng không bỏ dở giữa chừng và 37,5%
là thường xuyên. Phần lớn trẻ chưa có sự kiên trì, cố gắng đến cùng để hoàn thành
vai chơi của mình. GV cho biết, khi đã chán vai đó trẻ sẽ chuyển sang góc chơi
khác thậm chí không chơi nữa. Vì thế, để phát triển tính kiên trì, bền bỉ cho trẻ GV
phải có nhiều sự đầu tư để tổ chức trò chơi ĐVTCĐ sinh động, phong phú để duy trì
hứng thú cho trẻ thì cũng sẽ phát triển tính kiên trì của trẻ trong HĐVC.
Khả năng tự nhận xét, đánh giá về mình và các bạn sau khi chơi cũng được
GV đánh giá ở mức thỉnh thoảng là chủ yếu. Đặc biệt việc biết cất dọn đồ chơi gọn
gàng, để đúng nơi qui định được 87,5% GV đánh giá ở mức thường xuyên. Nhận
định này cũng tương đồng với kết quả khảo sát thực trạng. Nhận xét, đánh giá sau
khi chơi sẽ có tác động trực tiếp đến việc hình thành thái độ và các phẩm chất nhân
cách của trẻ đặc biệt là lòng nhân ái ở trẻ. Do đó, GV cần quan tâm đến việc tổ chức
cho trẻ biết tự nhận xét, đánh giá về mình và các bạn sau khi chơi bằng nhiều hình
thức khác nhau có thể theo nhóm chơi hoặc tất cả các nhóm chơi và cần giữ nguyên
66
hoàn cảnh chơi, đồ chơi để giúp trẻ vẫn “ở trong” vai chơi mà xem xét, đánh giá. Từ
đó có thể rèn luyện cho trẻ kỹ năng tự nhận xét, đánh giá phù hợp hơn, là không dựa
vào kết quả cụ thể mà hướng vào các hành động và các quan hệ qua lại giữa các vai
chơi, các nhóm chơi.
2.3.3. Phân tích thực trạng TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động
vui chơi trên các phương diện so sánh
2.3.3.1. Thực trạng TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi
trên phương diện giới tính
Bảng 2.10. TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi
theo giới tính
Giới tính Cỡ mẫu Biểu hiện Điểm TB Mức ý nghĩa
Nam 66
Nhận thức
1,97
0,89
Nữ 54 1,96
Nam 66
Hành vi
2,06
0,09
Nữ 54 2,06
Kết quả ở bảng 2.10 cho thấy, TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vui chơi của trẻ nam và nữ tương đương nhau, đều đạt được ở mức độ trung
bình và không có sự khác biệt nhau với mức ý nghĩa của mặt nhận thức TTL là
0.89, của hành vi tự lực là 0,09 đều lớn hơn 0,05. Như vậy, với kết quả so sánh này
cho chúng ta thấy, TTL của trẻ không phụ thuộc vào giới tính của trẻ. Kết quả này
cũng tương đồng với sự nhận định của GV về các yếu tố ảnh hưởng đến TTL của
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi là giới tính ít ảnh hưởng đến TTL
của trẻ. Qua quan sát thực tế cũng cho thấy sự biểu hiện TTL của trẻ nam và nữ
trong trò chơi gần như nhau. Chẳng hạn như về tính hợp tác trong khi chơi không có
gì khác biệt giữa trẻ nam và nữ, cả hai đều thỉnh thoảng mới có sự bàn bạc về sự
phân công công việc giữa các vai, ít chia sẻ ý tưởng, sáng kiến của mình với bạn.
67
2.3.3.2. Thực trạng TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi
trên phương diện trường
Bảng 2.11. TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi theo trường
Trường Cỡ mẫu Biểu hiện Điểm TB Mức ý nghĩa
MN Thực hành 62
Nhận thức
1,85
0,004
MN Sài Gòn 58 2,10
MN Thực hành 62
Hành vi
2,12
0,003
MN Sài Gòn 58 2,00
Căn cứ vào bảng 2.11 có thể thấy có sự khác biệt ý nghĩa về TTL của trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi giữa trường MN Thực hành và MN Sài
Gòn. Với điểm trung bình ở từng bình diện nhận thức về TTL và hành vi tự lực của
trẻ MG trong HĐVC ở cả hai trường đều ở mức trung bình. Tuy nhiên, xét trên từng
bình diện thì về mặt nhận thức về TTL của trẻ ở trường MN sài Gòn (điểm trung
bình là 2,10) trội hơn trường MN Thực hành (điểm trung bình là 1,85) nhưng về
mặt hành vi tự lực thì trường MN Thực hành (điểm trung bình là 2,12) trội hơn
trường MN Sài Gòn (điểm trung bình là 2,00). Trường MN Sài Gòn là trường tư
thục với những đặc trưng riêng. Qua trao đổi trực tiếp với GV ở trường này, các cô
cho biết, trẻ MG 5 – 6 tuổi của trường MN Sài Gòn phần lớn là con trong những gia
đình khá giả, phụ huynh thường làm thay trẻ nhiều việc nên cũng ảnh hưởng nhiều
đến hành vi tự lực của trẻ ở trường trong các hoạt động khác nhau, trong đó có
HĐVC. Trường MN Thực hành là trường thực nghiệm, là cơ sở thực hành thực tập
của trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh với việc ứng
dụng những phương pháp dạy học mới, GV luôn kích thích tính tích cực, chủ động
của trẻ trong các hoạt động khác nhau và cũng tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động
độc lập. Tuy nhiên vẫn chưa có những biện pháp tối ưu để phát triển TTL cho trẻ
đặc biệt trong HĐVC.
68
2.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến đến TTL của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
hoạt động vui chơi
2.3.4.1. Kết quả đánh giá của GV về TTL của trẻ MG 5 – 6 tuổi
Bảng 2.12. Đánh giá của GV về các hoạt động chủ yếu
thể hiện TTL của trẻ MG 5 – 6 tuổi
Các hoạt động N Tỷ lệ %
Hoạt động vui chơi 14 87,5
Hoạt động học tập 6 37,5
Hoạt động tạo hình 8 50,0
Hoạt động lao động 2 12,5
Hoạt động xây dựng 6 37,5
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, các GV đều cho rằng hoạt động vui chơi
mà đặc biệt là trò chơi ĐVTCĐ là hoạt động thể hiện TTL của trẻ MG 5 – 6 tuổi rõ
nét nhất. Sự nhận định này phù hợp với bản chất đặc trưng của hoạt động này.
HĐVC là hoạt động mang tính tự lực, tự nguyện. Hơn bất cứ hoạt động nào, khi
tham gia vào trò chơi trẻ thể hiện rõ TTL, chủ động của mình. Trẻ hoạt động tích
cực và bộc lộ thật hết mình. Rõ ràng HĐVC là hoạt động độc lập và tự chủ đầu tiên
của trẻ. Trong khi chơi, trẻ tự lực làm lấy mọi việc như tự chọn góc chơi, chọn vai
chơi, tìm kiếm đồ chơi, đăc biệt là độc lập suy nghĩ để khắc phục những trở ngại và
tìm kiếm các cách chơi tốt hơn. Có lẽ ít có hoạt động nào mà lại thể hiện tinh thần
tự lực, tự chủ cao đến như vậy. Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát thực trạng TTL của
trẻ MG 5 – 6 tuổi trong HĐVC ở trên cho thấy, mức độ TTL của trẻ ở mức trung
bình là chủ yếu.
2.3.4.2. Kết quả đánh giá của GV về TTL của trẻ MG 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vui chơi
Bảng 2.13. Đánh giá chung của GV về mức độ TTL
của trẻ MG 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi
Mức độ N Tỉ lệ %
Cao 6 37,5
Trung bình 10 62,5
Thấp 0 0
69
Nhìn vào bảng 2.13 cho thấy, 62,5 % GV đánh giá về mức độ TTL của trẻ
MG 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi ở mức độ trung bình, nhận định này cũng
tương đồng với kết quả nghiên cứu thực trạng của đề tài. GV cũng nhận định không
có trẻ nào ở mức thấp, có 3
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_02_28_4170785079_4603_1871142.pdf