Luận văn Vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy văn miêu tả lớp 6 THCS ở Lào (từ kinh nghiệm dạy học của Việt Nam)

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .1

1. Lí do chọn đề tài .1

2. Lịch sử vấn đề.3

3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu.10

4. Phương pháp nghiên cứu.11

5. Dự kiến đóng góp khoa học của đề tài .12

6. Cấu trúc luận văn .13

NỘI DUNG.15

Chương 1.15

Những vấn đề lí thuyết về giao tiếp và hoạt động giao tiếp trong dạy làm

văn .15

1.1. Các nhân tố cơ bản của hoạt động giao tiếp.15

1.1.1. Ngữ cảnh.15

1.1.2. Hiện thực ngoài diễn ngôn .17

1.2. Khái niệm về hoạt động giao tiếp và giao tiếp bằng ngôn ngữ.17

1.3. Giao tiếp và việc dạy − học LVMT theo quan điểm giao tiếp.20

1.3.1. Về hình thức .21

1.3.2. Về nội dung .22

Chương 2.24

Tổ chức dạy học làm văn miêu tả cho HS lớp 6 ở Lào theo quan điểm giao

tiếp

Từ kinh nghiệm dạy học của VN.24

2.1. Thực tế dạy và học làm văn miêu tả lớp 6 ở Lào .24

2.1.1. Cấu trúc chương trình .24

2.1.2. Các kiểu văn miêu tả trong chương trình THCS ở Lào và phương pháp dạy

các dạng văn miêu tả .25

2.1.3. Nhận xét về thực tế dạy và học LVMT lớp 6 THCS ở Lào và ở Việt Nam.29

2.1.4. Những khó khăn của GV và HS trong việc dạy và học làm văn miêu tả .33

2.2. Một số vấn đề chung về dạy học LVMT theo quan điểm giao tiếp.35

2.2.1. Nguyên tắc và phương pháp dạy học LV theo quan điểm giao tiếp.36

2.2.1.2. Một số phương pháp dạy học đặc thù, tích cực theo hướng “giao tiếp

hóa“giờ dạy làm văn.38

2.2.2. Kĩ năng LVMT cần rèn luyện cho HS theo quan điểm giao tiếp.41

2.2.2.1. Kĩ năng tìm hiểu đề, xác định các nhân tố giao tiếp khi LVMT.42

2.2.2.2. Kĩ năng lập dàn ý phù hợp với chiến lược giao tiếp.44

2.2.2.3. Kĩ năng triển khai bài LVMT phù hợp với các nhân tố giao tiếp.49

2.2.2.4. Kĩ năng tự kiểm tra kết quả bài làm văn miêu tả .53

2.3. Cách tổ chức dạy học làm văn miêu tả.54

2.3.1. Cách dạy phần lí thuyết làm văn miêu tả. .54

2.3.1.1. Thiết kế nội dung dạy học bằng cách xây dựng những tình huống giao tiếp cụ

thể .54

2.3.1.2. Hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức thông qua các tình huống giao tiếp.57

2.3.2. Cách dạy phần thực hành làm văn miêu tả .60

2.3.2.1. Hướng dẫn HS tìm hiểu đề, xác định các nhân tố giao tiếp.61

pdf133 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 498 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy văn miêu tả lớp 6 THCS ở Lào (từ kinh nghiệm dạy học của Việt Nam), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n than về đối tượng miêu tả - Nêu những kỉ niệm riêng của người viết đối với đối tượng miêu tả. 49 - Nêu công dụng (với đồ vật), lợi ích (với cây cối, loài vật), quan hệ tình cảm (với người) và những suy nghĩ khác đối với các đối tượng được miêu tả. 3. Kết bài - Những ấn tượng sâu đậm đối với đối tượng - Những liên tưởng, những suy nghĩ khác về đối tượng. Trên đây chỉ là những nét chung nhất của một dàn ý trong bài văn miêu tả. Đi vào thực tế của việc làm văn, dàn ý này có thể được phức tạp hóa thêm nữa.Người ta có thể tả đan xen giữa cái chung khái quát với nét riêng cá biệt của đối tượng; người ta có thể vừa tả vừa lồng việc phát biểu cảm nghĩ; người ta có thể dành hẳn việc phát biểu cảm nghĩ cho phần kết bài. Trong khi tả, người ta có thể chia thời gian theo năm tháng, theo thời vụ nhưng cũng có thể chia thời gian theo từng buổi trong ngày, từng thời điểm trong giờHoặc khi tả theo không gian, người ta có thể tả từ khoảng không gian rộng đến khoảng không gian hẹp, từ lớn đến bé, từ ngoài vào trong, từ trái sang phải hoặc ngược lạiNhư vậy, việc lập dàn ý cho bai miêu tả rất đa dạng, khó có thể quy tất cả các dàn ý có trong thực tế về một kiểu duy nhất nào đó. Chính vì lẽ đó, dàn ý nêu trên chỉ là một dàn ý chung nhất mang tính chất gợi ý cho việc luyện tập, chứ không phải là dàn ý bắt buộc dùng để viết mọi bài văn miêu tả các kiểu. Dựa vào dàn ý chung này chúng ta sẽ định ra một dàn ý phù hợp nhất với từng bài văn miêu tả cụ thể đẻ sao cho vừa thuận lợi cho việc triển khai bai văn, vừa thuận lợi cho việc miêu tả chi tiết tỉ mỉ và kĩ lưỡng về đối tượng. 2.2.2.3. Kĩ năng triển khai bài LVMT phù hợp với các nhân tố giao tiếp Sau giai đoạn tìm hiểu đề và lập dàn ý, người viết bắt đầu triển khai bài làm theo định hướng đã đề ra. Việc viết bài chính là việc hiện thực hóa dàn ý. Dàn ý mới chỉ là bộ khung, là bản thiết kế chứ chưa phải là bài văn. Muốn viết bài làm văn cần dựa vào dàn ý, từ dàn ý mà chuyển hóa thành. Trong quá trình viết bài, HS sẽ tiến hành các hoạt động lựa chọn, sử dụng từ ngữ; đặt câu; xây dựng đoạn và liên kết đoạn để tạo thành bài viết hoàn chỉnh. Với định hướng giao tiếp đã đặt ra, khi hướng dẫn HS rèn luyện những thao tác này (lựa chọn, sử dụng từ ngữ; đặt câu; xây dựng đoạn), chúng tôi sẽ luôn bám sát những nhân tố giao tiếp đã xác định được của bài viết, đặc biệt là mục đích miêu tả và đối tượng miêu tả (mục đích và đối tượng giao tiếp). 50 a) Lựa chọn, sử dụng từ ngữ Từ là đơn vị ngôn ngữ đã có sẵn, thuộc kho từ vựng của ngôn ngữ và tồn tại trong tiềm năng của mỗi người. Nó là tài sản chung của xã hội. Khi giao tiếp, mỗi người huy động vốn tài sản đó để tạo ra lời nói hoặc văn bản. Do sự chi phối của chức năng, mục đích của từng loại văn bản mà việc dùng từ trong mỗi loại văn bản có những đặc điểm riêng. Mặt khác, để nâng cao hiệu quả thuyết phục của các luận điểm, để thu hút và hấp dẫn người nghe, người đọc, văn bản miêu tả cũng dùng nhiều biện pháp tu từ mang tính hình tượng và biểu cảm rõ rệt. Để rèn luyện cho HS năng lực lựa chọn và sử dụng từ ngữ nói chung, trong văn bản miêu tả nói riêng, chúng ta tiến hành các thao tác sau: - Một là lựa chọn và thay thế từ: sự cân nhắc, lựa chọn và cả sự thay thế từ diễn ra ngay trong lúc viết, khi đọc lại văn bản đã viết xong, thậm chí điều đó có thể xảy ra sau một thời gian dài. Việc làm đó nhằm mục đích dùng từ cho thật chính xác về nghĩa sự vật, nghĩa biểu cảm; phù hợp với phong cách bài viết Sự lựa chọn thường diễn ra giữa các từ gần nghĩa, đồng nghĩa hoặc những từ có cùng trường nghĩa sao cho vừa phù hợp trong quan hệ kết hợp với những từ xung quanh, vừa diễn tả chính xác nội dung cần biểu đạt, vừa mang sắc thái tinh tế và đáp ứng được những yêu cầu khác. Sự lựa chọn cũng có thể nhằm thỏa mãn một nhu cầu phân biệt các mức độ ý nghĩa khác nhau hoặc phục vụ cho nhịp điệu của câu văn. - Hai là nhận xét, phân tích, đánh giá từ ngữ: trong quá trình lựa chọn từ ngữ và sau khi sử dụng vào trong câu văn, người viết cần có thao tác đánh giá, phân tích đối với những từ ngữ mà mình đã sử dụng. Việc làm này nhằm xem xét từ ngữ được dùng đúng hay sai, dùng với ý nghĩa và sắc thái biểu cảm như thế nào, có phù hợp với các yếu tố khác trong câu hay không và có hướng điều chỉnh, thay thế hoặc sửa chữa từ ngữ, câu văn. Trong quá trình rèn luyện cho HS thao tác lựa chọn và sử dụng từ ngữ ở bài làm văn miêu tả, chúng ta phải luôn lưu ý các em bám sát các nhân tố miêu tả (nhân tố giao tiếp) quan trọng của bài viết. Tùy vào mục đích miêu tả của đề bài (thuyết phục, bênh vực, bác bỏ, khẳng định) mà các em lựa chọn những từ ngữ có mức độ biểu đạt khác nhau. Cũng tùy đối tượng giao tiếp cụ thể mà các em có cách sử dụng từ xưng hô tương ứng, lựa chọn những từ ngữ quen thuộc, phù hợp, dễ hiểu với đối tượng ấy. Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng của việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ, cũng là một yêu cầu mang tính chất cơ bản đối với người viết văn bản miêu tả. Phải nắm được đối 51 tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp của văn bản thì chúng ta mới có được cách sử dụng từ ngữ phù hợp nhất, đạt đến hiệu quả giao tiếp cao nhất. b) Cách đặt câu Câu là đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống ngôn ngữ có chức năng thông báo. Cũng như bất kì một đơn vị ngôn ngữ nào, trong quá trình hành chức, câu chịu sự chi phối của hai loại quan hệ: quan hệ hướng nội (quan hệ giữa các yếu tố cấu thành câu) và quan hệ hướng ngoại (quan hệ giữa câu với các yếu tố khác trong văn bản). Việc đặt câu trước hết phải đảm bảo những yêu cầu xét theo hai quan hệ ấy: - Theo quan hệ hướng nội: câu phải viết đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Lào, có quan hệ ngữ nghĩa phù hợp với tư duy người Lào, có thông tin mới và phải được đánh dấu câu phù hợp. - Theo quan hệ hướng ngoại: câu đặt ra phải phục vụ cho mục đích giao tiếp của văn bản; phù hợp với quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp; phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp (phù hợp với những câu trước và sau nó, phù hợp với phong cách văn bản). Tùy vào mục đích giao tiếp mà người ta chia thành nhiều loại văn bản khác nhau. Mỗi loại văn bản có những đặc trưng riêng chi phối việc sử dụng từ ngữ và đặt câu trong văn bản đó. Lâu nay, trong nhà trường phổ thông nói chung và trường THCS nói riêng, khi dạy học làm văn, đa số các GVchỉ chú trọng việc rèn luyện cho HS viết câu đáp ứng những yêu cầu mang tính hướng nội nói trên mà chưa chú ý hoặc không có ý thức về việc đảm bảo những yêu cầu mang tính hướng ngoại. Nghĩa là chỉ tập trung cho HS luyện tập để viết những câu đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Lào, có quan hệ ngữ nghĩa phù hợp, mang thông tin mới. Còn năng lực viết câu phù hợp với quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp; hướng tới mục đích giao tiếp của văn bản; phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp thì chưa được đề cập đến. Trên cơ sở những đặc điểm của câu trong văn bản miêu tả đã trình bày, chúng tôi sẽ tiến hành rèn cho HS năng lực đặt câu chủ yếu hướng tới những yêu cầu hướng ngoại ấy. Đây chính là tinh thần cơ bản của định hướng giao tiếp trong việc dạy học làm văn nói chung, rèn luyện kĩ năng hành văn nói riêng. c) Cách viết đoạn Muốn triển khai thành văn bản một bài văn miêu tả, trước hết phải biết xây dựng một đoạn văn miêu tả vì đoạn văn là cơ sở, là bộ phận nòng cốt làm nên bài văn. Việc phân loại để định danh đoạn văn miêu tả có thể được nhìn từ nhiều phía: 52 - Nhìn từ góc độ cách thức, thao tác miêu tả, ta có đoạn văn tả trực tiếp gián tiếp, tả so sánh, tả tưởng tượng, tả chung, tả riêng - Nhìn từ góc độ chức năng, ta có đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn văn kết bài, đoạn chuyển tiếp - Nhìn từ góc độ cách thức trình bày, ta có đoạn văn diễn dịch, đoạn văn quy nạp, đoạn văn song hành Trong quá trình triển khai ý thành văn bản tạo nên nội dung đoạn văn, bài làm văn miêu tả, ta phải tiến hành việc quan sát. Vì vậy, khi xây dựng một đoạn văn, dù là đoạn đặt vấn đề hay đoạn kết thúc vấn đề, ta đều phải trình bày theo nguyên tắc. Dựa vào phép suy luận logic trong quá trình trình bày, ta có thể xây dựng đoạn văn miêu tả theo các kiểu kết cấu. Việc tiến hành rèn luyện cho HS kĩ năng xây dựng đoạn văn nghị luận cũng sẽ đi theo các kiểu kết cấu này. Các thao tác viết đoạn văn cần rèn luyện cho HS gồm: - Căn cứ vào dàn ý đã xác lập, mỗi thành tố nội dung trong dàn ý nên được viết thành một đoạn văn. Việc căn cứ vào dàn ý để viết đoạn văn giúp ta chẳng những viết đoạn văn theo đúng yêu cầu về nội dung (về chủ đề), về vị trí của đoạn văn trong văn bản mà còn xây dựng được đoạn văn trong quan hệ với các thành tố nội dung thuộc các đoạn trước và sau nó. - Lựa chọn hướng triển khai nội dung trong đoạn, cách miêu tả trong đoạn và kết cấu của đoạn. Tùy theo nội dung của mỗi đoạn mà người viết văn miêu tả chọn cho mình cách thức miêu tả cho phù hợp. - Viết đoạn văn: quá trình xây dựng đoạn văn có thể được tiến hành theo các kiểu kết cấu như: diễn dịch, quy nạp, hoặc kết hợp giữa chúng. Việc viết đoạn văn theo định hướng giao tiếp chính là xây dựng đoạn trên cơ sở sự chi phối của những nhân tố giao tiếp cơ bản của đoạn và của cả bài làm văn mà chủ yếu là mục đích giao tiếp, đối tượng giao tiếp. Tóm lại, để rèn luyện cho HS kĩ năng triển khai bài viết theo dàn ý đã xác lập, cụ thể là việc lựa chọn, sử dụng từ ngữ; đặt câu và xây dựng đoạn dưới sự chi phối của các nhân tố giao tiếp (nhân tố miêu tả); chúng tôi sẽ đưa ra những bài tập tình huống để giúp HS rèn năng lực giao tiếp bằng văn bản. Dưới đây là các kiểu bài tập theo hướng này: Bốn yếu tố tạo nên nội dung bài làm văn của HS là: nội dung (N), mục đích (M), đối tượng (Đ) và ngôn ngữ (hay phát ngôn P). Giả định rằng trong tất cả những kiểu bài tập đưa ra dưới đây, N cố định còn M và Đ biến thiên, yêu cầu HS phải 53 xác lập P (câu, đoạn hoặc bài tùy yêu cầu của việc rèn luyện) sao cho phù hợp với M và Đ. Có thể thấy rõ hơn nội dung và yêu cầu của các kiểu bài tập này trong bảng sau: Tính chất Kiểu bài Nội dung Yêu cầu Thụ động Nhận biết - Cho M và Đ - Cho phát ngôn P Phân tích sự phù hợp Chủ động Cải biến - Cho M và Đ - Cho phát ngôn P Hãy cải biến P sao cho P’ được tạo ra vẫn phù hợp với M và Đ. Sửa chữa - Cho M và Đ - Cho phát ngôn P không phù hợp Hãy chỉnh sửa, điều chỉnh lại để P được tạo ra phù hợp với M và Đ Sáng tạo Dựng mới Cho M và Đ Hãy xác lập P sao cho phù hợp với M và Đ 2.2.2.4. Kĩ năng tự kiểm tra kết quả bài làm văn miêu tả Sau khi hoàn thành bài viết, cần phải tiến hành công việc cuối cùng là đọc lại bài và kiểm tra để phát hiện các lỗi, các sai sót và tiến hành sửa chữa, điều chỉnh những chỗ cần thiết. Công việc này là cần thiết và bổ ích, vì nó được tiến hành sau khi đã viết xong. Lúc này, HS có thể đọc toàn bộ bài viết và có cơ sở để phát hiện những thiếu sót đã mắc phải khi viết từng bộ phận, từng chi tiết của bài văn. Đồng thời, việc sửa chữa này cũng là việc sửa chữa các chi tiết, các bộ phận trong mối quan hệ với toàn văn bản. Tuy nhiên, việc rà soát lại để điều chỉnh bài viết sẽ rất phức tạp, khó khăn nếu khi viết chúng ta bỏ sót ý hoặc lạc ý. Vì vậy, tốt hơn hết là chúng ta nên tiến hành song song với quá trình làm bài, làm xong đoạn nào, ý nào, phần nào là kiểm tra lại ngay. Đặc biệt, trong quá trình kiểm tra và điều chỉnh, HS phải luôn bám sát các nhân tố giao tiếp chi phối bài làm văn. Xác định xem bài viết của mình đã đạt được mục đích giao tiếp đặt ra hay chưa, có phù hợp với đối tượng giao tiếp hay không. Kĩ năng kiểm tra bài viết này phải được rèn luyện một cách chính thức chứ không đơn thuần là bước sau cùng trong quá trình viết một bài làm văn. Trong nhà trường, khi viết văn, GVluôn nhắc nhở HS phải kiểm tra lại bài, nhưng công việc ấy chỉ 54 mang tính hình thức. Chúng ta phải thực sự coi đây là một kĩ năng quan trọng cần được rèn luyện, nhất là trong các giờ luyện tập làm văn, giờ làm văn nói và giờ trả bài. Theo định hướng giao tiếp, để rèn luyện cho HS kỹ năng này, chúng tôi sẽ đưa ra kiểu bài tập tình huống nhận biết (phân tích sự phù hợp giữa bài văn, đoạn văn, câu với các nhân tố giao tiếp) hoặc sửa chữa (chỉnh sửa, điều chỉnh lại bài văn, đoạn văn, câu để phù hợp với các nhân tố giao tiếp) theo bảng trên nhằm giúp các em hiểu và tạo lập được văn bản đạt hiệu quả giao tiếp cao. 2.3. Cách tổ chức dạy học làm văn miêu tả Từ những cơ sở lí luận, thực tiễn và những vấn đề chung về phương pháp, kĩ năng nêu trên; chúng tôi sẽ tổ chức dạy học làm văn miêu tả theo hướng giao tiếp với đối tượng là HS lớp 6 THCS. Căn cứ vào những nội dung dạy học cụ thể của chương trình làm văn miêu tả lớp 6 THCS mà chúng tôi tiến hành rèn luyện các kĩ năng làm văn đã định ra theo quan điểm giao tiếp. 2.3.1. Cách dạy lí thuyết làm văn miêu tả. Như tất cả các môn học khác trong nhà trường phổ thông, làm văn cũng có những giờ lí thuyết nhưng lí thuyết của làm văn không đơn thuần là lí thuyết lí luận mà cơ bản là lí thuyết thực hành. Trong SGK tiếng Lào lớp 6, phần lí thuyết trong làm văn miêu tả gồm hai loại bài: lí thuyết về kiểu bài làm văn miêu tả và lí thuyết về kĩ năng làm văn miêu tả. Thực chất của những giờ lí thuyết về kĩ năng là những giờ thực hành, chủ yếu là thực hành. Vì vậy, phần lí thuyết về kĩ năng chúng tôi sẽ đưa vào dạy ở nội dung thực hành. Những bài lí thuyết về làm văn miêu tả mà chúng tôi tổ chức dạy học theo hướng giao tiếp ở đây chỉ đơn thuần là những nội dung khái quát về kiểu bài. Việc giảng dạy những nội dung lí thuyết sẽ cung cấp cho các em những khái niệm, giúp các em xác định những vấn đề lí thuyết cơ bản về làm văn miêu tả. Thiếu những cơ sở dẫn đường này, HS không thể nắm được các kiểu bài và cách thức tạo ra những kiểu bài ấy. 2.3.1.1. Thiết kế nội dung dạy học bằng cách xây dựng những tình huống giao tiếp cụ thể Theo quy luật tâm lí, quá trình nhận thức và hình thành kĩ năng, kĩ xảo ngôn ngữ của HS sẽ diễn ra nhanh hơn, dễ dàng hơn, nếu quá trình đó gắn với những điều kiện 55 như giao tiếp thực. Việc tổ chức giảng dạy lí thuyết làm văn theo định hướng giao tiếp là quá trình cung cấp cho các em những tri thức lí thuyết về làm văn miêu tả trong chính hoạt động giao tiếp. Để có thể đạt được mục tiêu ấy, người GVphải đưa ra được những tình huống giao tiếp giả định phù hợp với nội dung bài giảng. Nhưng rõ ràng, giao tiếp học tập dù có giống với thực tế đến đâu thì cũng chỉ là giao tiếp giả định. Vì vây, việc xây dựng những tình huống giao tiếp này đòi hỏi kinh nghiệm và kĩ thuật chứ không phải là sự lựa chọn tình huống theo cảm giác, kinh nghiệm, thói quen. GVcó thể đưa ra những tình huống giao tiếp diễn ra trong cuộc sống thực tế xung quanh HS, những tình huống giao tiếp trong tưởng tượng nhưng lại có hiệu quả cao với việc truyền thụ tri thức hoặc những tình huống giao tiếp mới do GVsoạn thảo dựa trên những tình huống đã có. Những tình huống giao tiếp được đưa ra chính là những tình huống có vấn đề (vấn đề về tri thức, vấn đề về kĩ năng, vấn đề về các nhân tố giao tiếp, vấn đề về sử dụng ngôn ngữ). Vì vậy, những tình huống này phải thỏa mãn một số điều kiện sau: - Phải tồn tại một vấn đề: nghĩa là phải tạo ra ít nhất là một mâu thuẫn giữa tri thức HS đã biết và những vấn đề, những hiện tượng mới mà các em chưa biết. - Phải gợi nhu cầu nhận thức của HS: có nghĩa là phải làm nảy sinh ở HS sự tò mò, niềm khát khao muốn tìm hiểu, khám phá những hiện tượng, những vấn đề mới lạ đó, từ đó thúc giục các em tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tìm hiểu vấn đề. - Phải đảm bảo tính vừa sức trong dạy học: tình huống được đưa ra không quá dễ mà cũng không quá khó đối với HS nhưng nó đòi hỏi mọi HS phải nỗ lực, tích cực, tự giác, chủ động suy nghĩ để giải quyết vấn đề. Mặt khác, là những tình huống giao tiếp giả định phục vụ cho hoạt động giảng dạy, truyền thụ và lĩnh hội tri thức, do đó, những tình huống ấy phải luôn bám sát nội dung bài học, phục vụ tối đa cho mục tiêu của bài học và không quá xa lạ với HS. Sau đây là ví dụ về việc xây dựng tình huống giao tiếp để dạy học dạng bài lí thuyết về làm văn miêu tả. Ví dụ: Tả lại bức chân dung của người mẹ. Giờ tập làm văn, tôi luôn được cô giáo khen bài viết của mình và thường lên đứng giữa lớp để đọc bài tập làm văn của mình cho cả lớp nghe. Bài viết của tôi 56 bao giờ cũng đạt điểm 7, 8 - điểm cao nhất dành cho môn tập làm văn. Tôi luôn hãnh diện vì điều đó và dường như chưa một bạn nào trong lớp phá được “kỷ lục” của tôi. Như mọi khi, tôi lại được cô giáo gọi lên đọc bài văn “Em hãy tả về người mẹ của mình”. Tôi ngước cao mặt, đĩnh đạc bước lên giữa lớp trong sự nể phục của các bạn và cất cao giọng đọc: “Mẹ em là người tuyệt vời nhất. Mẹ đẹp như cô tiên trong truỵên cổ tích. Mái tóc mẹ dài óng ả buông xõa ngang lưng. Mẹ gội đầu bằng trái bồ kết nên tóc mẹ vừa mượt vừa suôn. Mẹ bảo: "Lớn lên con gái đừng gội đầu bằng dầu gội mà nấu trái bồ kết gội cho tóc đẹp như của mẹ”. Mẹ có khuôn mặt đẹp như trăng rằm. Mỗi khi mẹ cười hai hàm răng mẹ trắng ngần trông đẹp lắm! Mẹ vừa dịu dàng lại vừa đảm đang. Đi làm về, mẹ vừa vào bếp nấu cơm cho cả gia đình, tối mẹ lại dạy em học bài, dọn dẹp nhà cửa rồi mới đi ngủ. Những đêm đông trời trở rét, nửa đêm mẹ lại thức giấc đắp lại tấm chăn cho em... Trong trái tim em, mẹ là tất cả, mẹ là cô tiên tuỵêt vời nhất trong cuộc đời em...”. Đó là những lời văn mà tôi đã được chị gái dạy để tả về người mẹ của mình. Những bài văn của tôi luôn được điểm cao vì trước khi viết tôi luôn “tham khảo” ý kiến của chị rồi tưởng tượng thêm để diễn đạt cho hay. Có lẽ với trí tưởng tượng phong phú nên tôi sớm nổi tiếng là học sinh giỏi văn của trường. Đọc xong bài văn tả mẹ của mình, tôi sướng lâng lâng trong người và đi về chỗ trong tiếng vỗ tay của các bạn. Đợi giây lát, cô tôi bảo: “Bài văn tả mẹ của bạn Duyên rất hay. Câu cú gãy gọn, diễn đạt trôi chảy. Các em nên học cách diễn đạt của bạn để viết văn cho hay và phải đọc thêm nhiều sách. Hôm nay, cô muốn các em nghe thêm một bài văn nữa. Cô mời bạn Hùng". Tôi thoáng ngạc nhiên vì Hùng mồ côi mẹ từ năm 6 tuổi, nhà Hùng rất nghèo và Hùng chỉ học giỏi môn toán. Tôi thầm cười khi nghĩ: “Chắc Hùng viết nhăng viết cuội nên bị cô phê bình đây”. Hùng cúi đầu cầm tập bước lên bảng và đọc: “ Em không còn mẹ. Mẹ mất đã lâu lắm rồi nên em không nhớ rõ khuôn mặt của mẹ. Mỗi lần nhớ mẹ, em chỉ nhìn lên tấm ảnh trên bàn thờ mẹ, nhớ mẹ, thương mẹ rồi chỉ biết khóc mà thôi! Mẹ mất khi em bé của em mới một tuổi. Lúc đó ba cực lắm vì phải vừa đi làm vừa nuôi em và em gái. Em gái cứ bệnh rồi khóc hoài. Sáng, ba dậy thật sớm để nấu cháo để lấy nước pha sữa cho em. Mùa mưa, nhà dột ướt không đủ chỗ ngủ, ba ru em và em gái ngủ xong rồi nằm xuống sàn nhà. Sáng thức 57 dậy em đã thấy ba nấu sẵn nồi cháo và kèm theo tờ giấy dặn:”Con nhớ ăn sáng rồi mới đi học”. Ba em là công nhân vệ sinh nên sáng phải dậy thật sớm làm sạch đường phố trước khi mọi người thức giấc. Em chuẩn bị đi học ba mới trở về lo cho em gái. Buổi chiều, em đi học về trông em cho ba đi làm tiếp. Ba em cực lắm nhưng lúc nào ba cũng dịu dàng như mẹ. Em ước ao mẹ mình còn sống để đỡ đần công việc cho ba. Em thèm được như các bạn có mẹ, được mẹ ôm vào lòng, được mẹ khâu áo khi bị rách, được nghe mẹ hát ru em bé ngủ như cô Tư ở sát nhà. Mỗi lần nghe cô Tư hát ru con, em lại nhớ mẹ và nước mắt trào ra. Ba bảo: “Mẹ bây giờ đã thành cô tiên ở tận trên trời cao, mẹ cũng nhớ và thương con lắm nên con phải học thật giỏi mẹ mới vui”. Em cũng thầm hứa với ba, sẽ học giỏi, học giỏi rồi mẹ sẽ sống lại với cha con mình, phải không ba? Em càng lớn mái tóc ba càng bạc nhiều hơn. Nhìn ba tảo tần lo cho em và em gái ăn học, em thương ba lắm chỉ mong mình nhanh lớn để đi làm giúp ba, nuôi em gái. Em không còn mẹ nhưng ba chính là người mẹ vĩ đại trong cuộc đời em. Em yêu ba vô cùng...”. Sau khi đọc xong, GV yêu cầu HS làm lại một vài hoạt động để các em được thực hành, kiểm tra lại phần vừa đọc. GV có thể đặt một vài câu hỏi như: Mẹ có hình dáng ra sao? Điều gì làm cậu bé nhớ nhất về mẹ? Em có thể miêu tả lại tính cách, hoạt động của người mẹ được nói đến trong bài? Khi HS trả lời cũng là lúc các em thực hành giao tiếp và biến lí thuyết làm văn miêu tả thành thực tế. 2.3.1.2. Hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức thông qua các tình huống giao tiếp Sau khi thiết kế nội dung dạy học bằng cách xây dựng những tình huống giao tiếp cụ thể, GV sẽ tiến hành tổ chức cho HS chiếm lĩnh những tri thức lí thuyết đã định thông qua bản thiết kế ấy. Đây là giai đoạn được triển khai ở trên lớp, đòi hỏi GV phải nắm chắc giáo án mà mình xây dựng để có thể tự tin tạo không khí học tập một cách sôi nổi, tự nhiên. Trong quá trình giảng bài, GV phải luôn có ý thức tạo cho HS được học tập trong môi trường giao tiếp, với phương pháp giao tiếp và hướng tới mục tiêu giao tiếp. Một yêu cầu nữa phải đảm bảo là có sự chuẩn bị của HS về nội dung bài sẽ học. Việc hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức lí thuyết bằng cách sử dụng tình huống giao tiếp được tiến hành theo trình tự sau đây: 58 a) Bước 1: Miêu tả tình huống giao tiếp. Sự miêu tả này cần tập trung làm sáng tỏ những nhân tố để lại dấu ấn trong lời nói. Các nhân tố này càng sáng rõ bao nhiêu HS càng hiểu được và tạo ra được những lời nói phù hợp bấy nhiêu. b) Bước 2: Phân tích tình huống để lựa chọn hoặc đưa ra những lời nói vừa phù hợp nội dung (phản ánh đúng đắn, chính xác hiện thực được nói tới), vừa phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp (đối tượng, mục đích giao tiếp). c) Bước 3: Phân tích mức độ phù hợp của lời nói với hoàn cảnh giao tiếp. Chỉ ra những chỗ chưa phù hợp và sửa lại. d) Bước 4: Rút kết luận cần ghi nhớ cho HS và luyện tập vận dụng những ghi nhớ đó. Sau đây là tiến trình hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức thông qua tình huống giao tiếp giả định: Ví dụ: Dạy học bài: Tả người (Tả HS đang thảo luận với nhau trong trường học) - Bước 1: Miêu tả tình huống giao tiếp Có ba HS cùng tranh luận với nhau về vai trò, tác dụng của việc đọc sách đối với đời sống. Bạn nào cũng đưa ra những lí lẽ nhằm bảo vệ và thuyết phục các bạn khác tin vào ý kiến của mình. Bạn thứ nhất: Tớ thấy trong đời sống hiện đại, việc đọc sách trở nên không cần thiết lắm. Công việc này chiếm của chúng ta quá nhiều thời gian trong khi cũng với khoảng thời gian đó, chúng ta có thể tìm kiếm được vô số thông tin bằng internet, ti vi, báo chí, đài phát thanh Hơn nữa, những kiến thức và thông tin trong sách vở thường thiếu tính cập nhật. Bạn thứ hai: Tớ nghĩ đọc sách cũng thú vị đấy chứ. Tớ tìm thấy ở trong đó những bài học vô cùng quý báu về cuộc sống, về tình người. Bạn thứ ba: Mình cho rằng sách có những tác dụng rất lớn đối với đời sống con người. Sách là kho tàng tri thức của nhân loại. Nó đem đến cho chúng ta những tri thức về thế giới tự nhiên, về đời sống xã hội. Sách cũng là sản phẩm tinh thần của nhân loại. Nó là kết quả của những quá trình lao động trí tuệ không nghỉ. Sách mở rộng ra trước mắt ta những chân trời mới. Đọc sách, ta có được những hiểu biết mới mẻ về mọi lĩnh vực; những hiểu biết vượt không gian, thời gian. Sách còn giúp ta tìm hiểu thế giới nội tâm của con người: niềm vui, nỗi buồn, khát vọng, ước mơ, hạnh phúc, khổ đau Bởi vậy, đọc sách là vô cùng quan trọng và cần thiết vì nó làm phong phú đời sống tinh thần và trí tuệ con người. 59 - Bước 2: Phân tích tình huống: + Hoàn cảnh giao tiếp: cuộc tranh luận giữa ba người bạn học về một sự việc trong đời sống: việc đọc sách. + Nội dung giao tiếp: sự cần thiết và vai trò, tác dụng của việc đọc sách đối với đời sống con người. + Nhân vật giao tiếp: ba nhân vật giao tiếp ở đây là những người bạn học, cùng chung một môi trường giáo dục, cùng lứa tuổi, cùng trình độ. + Mục đích giao tiếp: thuyết phục người khác hiểu và đồng tình với ý kiến của mình. - Bước 3: Phân tích mức độ phù hợp của lời nói với các nhân tố giao tiếp. GV hướng dẫn HS tập trung phân tích, chỉ ra sự phù hợp giữa luận cứ và kết luận để tăng sức thuyết phục cho các lập luận. Ý kiến của bạn thứ nhất là: trong đời sống hiện đại, việc đọc sách trở nên không cần thiết. Và để khẳng định điều đó, người nói đưa ra các luận cứ sau: việc đọc sách chiếm quá nhiều thời gian; có thể tìm kiếm thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng khác nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn (như internet, tivi, báo, đài); những kiến thức và thông tin trong sách thường thiếu cập nhật. Ở đây, bạn này đã sử dụng phép lập luận phân tích để chỉ rõ từng phương diện của vấn đề, để chứng minh ý kiến của mình là có lí. Bạn thứ hai cho rằng: đọc sách cũng thú vị. Và để lí giải điều này, bạn đưa ra luận cứ là: sách chứa đựng những bài học vô cùng quý báu về cuộc sống, về tình người. Đây cũng là một lập luận có tính chất giải thích. Bạn thứ ba khẳng định: sách có những tác dụng rất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2013_02_28_5875939346_7189_1871148.pdf
Tài liệu liên quan