Quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng ở Việt Nam

Trang MỜ ĐẦU 1

Chương 1: TỎNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN cửu CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỂ TÀI LUẬN ÁN 9

1.1. Tinh hình nghiên cửu có liên quan đến đề lài luận án ờ ngoài nước và

trong nước 9

1.2. Nhùng khoảng trống về lý luận và thực tiền cần tiếp tục nghiên

cứu trong đê tài của luận án 29

Chương 2: cơ SỜ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỀN QUÀN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐÔNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHAI THÁC ĐÁ XAY DựNG 31

2.1. Khái niệm, đặc điêm và vai trò cùa quân lý nhà nước về an toàn,

vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng 31

2.2. Nội dung, nguyên tắc và nhân lô ânh hường đén quàn lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá

xây dựng 44

2.3. Kinh nghiêm của một sô quôc gia trong quàn lý nhà nước vê an

toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng và bài học cho Việt Nam 61

Chương 3: THựC TRẠNG QUÀN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHAI

THÁC ĐÁ XẬỶ DựNG Ờ VIỆT NAM 69

3.1. Tinh hình phát triên doanh nghiệp khai thác đá xây dựng và nhừng vấn đề đặt ra trong quàn lý nhà nước về an toàn, vệ sinh

lao động ờ Việt Nam 69

3.2. Thực trạng quân lý nhà nước vê an toàn, vệ sinh lao động trong

các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng ờ Việt Nam giai đoạn 2009 - 2014 . 74

3.3. Đánh giá chung tình hình quân lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao

động trong khai thác đá xây dựng 94

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG TRỌNG CÁC DOANH NGHIỆP KHAI THÁC ĐÁ XÂÝ DỰNG Ờ VIỆT NAM 106

4.1. Phương hướng cơ bân hoàn thiện quàn lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng ờ

 

pdf184 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 749 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SLĐ trong ngành Công thương. - Bộ Xây dựng phòng Kỹ thuật ATLĐ thuộc Cục quản lý hoạt động xây dựng chuyên quản lý ATLĐ trong ngành xây dựng. - Bộ Y tế có Cục quản lý Môi trường y tế, cơ quan chuyên quản lý VSLĐ và môi trường lao động. Ngoài ra Bộ có các viện nghiên cứu khoa học về VSLĐ - Bộ Công an có Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ; Tổng cục cảnh sát - trật tự an toàn xã hội có chức năng, nhiệm vụ tham mưu, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các quy định pháp luật về phòng cháy và chữa cháy;Tổ chức tuyên truyền, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức về phòng cháy và chữa cháy; Thực hiện các biện pháp phòng cháy, chữa cháy kịp thời khi có cháy xảy ra. Ngoài các Bộ, Ngành thực hiện chức năng QLNN về ATVSLĐ thì hiện nay còn có 134 Tổ chức huấn luyện ATVSLĐ giúp triển khai công tác đào tạo, huấn luyện ATVSLĐ cho người sử dụng lao đông, người lao động trong cả nước (Xem phụ lục 7); 53 Trung tâm kiểm định kỹ thuật ATLĐ thực hiện kiểm định kỹ thuật ATLĐ cho các máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ (Xem phụ lục 8). Mặc dù chức năng, nhiệm vụ của các Bộ như vậy, tuy nhiên việc phối hợp trong QLNN về ATVSLĐ vẫn chưa thực sự thường xuyên, liên tục và chưa mang lại hiệu quả phối hợp trong QLNN về ATVSLĐ ở DNKTĐXD. Thứ hai, QLNN về ATVSLĐ ở địa phương là Ủy ban nhân nhân tỉnh. UBND tỉnh quản lý thông qua hoạt động của các Sở, Ngành chức năng trực thuộc. Cũng như QLNN cấp trung ương thì ở cấp địa phương Sở LĐTBXH là cơ quan chức năng chính giúp UBND tỉnh QLNN về ATVSLĐ trên địa bàn. Tại sở có 2 đơn vị chuyên giúp Giám đốc sở thực hiện chức năng quản lý ATVSLĐ là Thanh tra sở và phòng An toàn-Việc làm. Tùy theo đặc điểm, yêu cầu của mỗi tỉnh mà 79 biên chế cho thanh tra sở và cán bộ ATLĐ khác nhau. Trung bình Thanh tra sở có khoảng 6-10 công chức là thanh tra viên trong đó có khoảng 2-3 thanh tra viên ATLĐ, phòng An toàn - Việc làm có khoảng 2-4 công chức ATLĐ. Một số tỉnh công nghiệp lớn có đông doanh nghiệp, nhiều lao đông có thể số thanh tra, cán bộ ATLĐ đông hơn. Ví dụ Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 20 thanh tra viên ATLĐ và 25 công chức ATLĐ; Hà Nội có 07 thanh tra viên ATLĐ và 08 công chức ATLĐ; Quảng Ninh có 7 thanh tra ATLĐ Sở LĐTBXH thực hiện việc hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực ATVSLĐ; các chế độ, chính sách đối với người lao động trong hoạt động khai thác khoáng sản; hướng dẫn khai báo và kiểm định các loại máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ; hướng dẫn tổ chức tập huấn công tác ATVSLĐ cho chủ sử dụng lao động, cán bộ ATLĐ và người lao động tại các mỏ khoáng sản trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, để thực hiện QLNN về ATVSLĐ ở cấp địa phương còn có các Sở, Ban, ngành khác như: - Sở y tế có Phòng Nghiệp vụ y tế, Trung tâm Y tế dự phòng chuyên trách giúp Giám đốc Sở thực hiện chức năng quản lý VSLĐ và đo kiểm môi trường lao động, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe, khám phát hiện chữa BNN cho người lao động. - Công an tỉnh có phòng Cảnh sát và trật tự an toàn xã hội chuyên quản lý về con người đủ điều kiện an toàn để sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; cảnh sát Phòng cháy chữa cháy chuyên quản lý về điều kiện an toàn phòng cháy chữa cháy, an toàn cháy nổ khi sử dụng vật liệu nổ công nghiệp trong khai thác đá xây dựng. - Sở Công Thương có phòng Kỹ thuật an toàn- Môi trường giúp Giám đốc sở quản lý ATLĐ và môi trường lao động trong lĩnh vực công nghiệp trên địa bàn. Thực hiện kiểm tra, rà soát việc cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp tại các doanh nghiệp, tổ chức các lớp huấn luyện, bồi dưỡng kiến thức đối với Giám đốc điều hành mỏ, chỉ huy nổ mìn, thợ nổ mìn và những người có liên quan đến vật liệu nổ công nghiệp... 80 - Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, rà soát việc chấp hành các thủ tục về thuê đất, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, việc lập bản đồ hiện trạng mỏ... Như vậy, với mô hình QLNN trên đây chỉ đáp ứng được phần nào yêu cầu QLNN về ATVSLĐ trong DNKTĐXD, sự vào cuộc của các cơ quan chức năng liên quan như Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Công thương, Sở Y tế chủ yếu vẫn mang tính hình thứcTuy nhiên nó vẫn chưa đầy đủ, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan này, do đó dẫn đến chồng chéo ở một số khâu và bỏ sót một số điểm trong quản lý. Thực tế mô hình QLNN trong khâu cấp phép khai thác đá xây dựng ở Việt Nam đang được thực hiện theo quy trình sau: Chú thích: Biểu thị mối quan hệ gián tiếp Biểu thị mối quan hệ trực tiếp Cơ quan chịu trách nhiệm chính trong khâu cấp phép. Hình 3.2: Mô hình quản lý nhà nước trong khâu cấp phép khai thác đối với các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng Nguồn: Tổng hợp các quy định pháp luật hiện hành của tác giả luận án Sở Công thương/ Xây dựng Hoạt động khai thác, chế biến đá, vật liệu nổ công nghiêp, thiết kế, kỹ thuật thi công Công an tỉnh Phòng cháy chữa cháy, an ninh trật tự SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG Thẩm định việc cấp phép/thu hồi giấy phép thăm dò, khai thác đá ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH CƠ QUAN QLNN CẤP TRUNG ƯƠNG DOANH NGHIỆP KHAI THÁC ĐÁ XÂY DỰNG 81 Qua hình 3.2 có thể thấy rằng, Doanh nghiệp khai thác khoáng sản nói chung và khai thác đá xây dựng nói riêng, trước khi tiến hành khai thác phải được sự đồng ý và được cấp đầy đủ các loại giấy phép từ nhiều cơ quan quản lý đối với các lĩnh vực khác nhau như: LĐTBXH, Tài nguyên và môi trường, Công thương, An ninh, Xây dựng, Y tế... để được cấp giấy phép khai thác. Cụ thể là: Sở Tài nguyên và môi trường: Đơn vị chủ trì thẩm định cấp giấy phép khai thác khoáng sản; Sở Xây dựng: Thẩm tra, phê duyệt thiết kế mỏ tại các mỏ làm vật liệu xây dựng và hướng dẫn chủ đầu tư phê duyệt biện pháp thi công theo quy định; Sở Công thương: Rà soát việc bổ nhiệm và tiêu chuẩn đối với giám đốc điều hành mỏ; cấp phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; Công an tỉnh: Cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự và đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy. Với mô hình QLNN về ATVSLĐ trong DNKTĐXD ở địa phương mặc dù đã có sự quan tâm, kiểm soát tới các DNKTĐXD song chưa thực sự chú ý đến ATVSLĐ của doanh nghiệp khi vào hoạt động. Thực chất QLNN về ATVSLĐ chưa rõ ràng mà chỉ nhấn mạnh đến việc cấp phép và chủ yếu tập trung đến việc quản lý tài nguyên khoáng sản đá của quốc gia chưa đề cao việc đảm bảo tính mạng con người trong quá trình triển khai thực hiện, quá trình đưa vào sản xuất, khai thác. Điều đó thể hiện từ khâu cấp phép đã cho thấy việc buông lỏng quản lý về ATVSLĐ đối với hoạt động khai thác đá. Chính vì vậy để thống nhất trong quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp triển khai thực hiện thì Bộ LĐTBXH và Bộ Y tế đã phối hợp ban hành Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 10/01/2011 về hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác ATVSLĐ trong cơ sở lao động. Hướng dẫn đó được mô hình hóa theo hình dưới đây: 82 Chú thích: Mối quan hệ gián tiếp trong thực hiện quản lý ATVSLĐ Mối quan hệ trực tiếp trong thực hiện quản lý ATVSLĐ Hình 3.3: Mô hình hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động trong cơ sở sản xuất Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội [4]. Với mô hình trên, công tác ATVSLĐ trong các doanh nghiệp đã được triển khai và có sự tham gia phối hợp của Công đoàn cơ sở vào công tác ATVSLĐ. Doanh nghiệp thành lập phòng, ban về an toàn hoặc bố trí cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm tuỳ theo quy mô của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có mạng lưới ATVSV tới tận phân xưởng và các tổ khai thác, tạo điều kiện cho việc triển khai, thực thi, giám sát công tác ATVSLĐ đến tận nơi làm việc của người lao động. Thực tế cho thấy, một doanh nghiệp khi để xảy ra TNLĐ tại mỏ không những thiệt hại về kinh tế mà còn ảnh hưởng đến tiến độ, sản lượng của mỏ, làm đình trệ Phânxưởng . . Giámđốc Điều hành chung về ATVSLĐ Phòng/ban/cánbộ AT Cácphòng/ ban khác Hội đồng BHLĐ Côngđoàn Phânxưởng 1 An toàn vệ sinh viên (ATVSV) Phânxưởng 2 ATVSV Tổ khoan nổ mìn 1 ATVSV Tổchế biến1 ATVSV Tổkhaithác 1 ATVSV Tổ khoan nổ mìn 2 ATVSV Tổchế biến2 ATVSV Tổkhaithác 2 ATVSV Người lao động (NLĐ) NLĐ NLĐ NLĐ NLĐ NLĐ 83 mỏ, người lao động hoang mang trong quá trình làm việc Tất cả những điều đó đều ảnh hưởng không tốt cho doanh nghiệp. Đơn vị: Số doanh nghiệp Biểu đồ 3.4: Tình hình thực hiện an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội [13, tr.16]. Biểu đồ 3.4 là biểu đồ thống kê kết quả khảo sát về tình hình thực hiện ATVSLĐ tại 59 doanh nghiệp khai thác đá vừa và nhỏ, trong đó có 8 doanh nghiệp có trên 100 lao động và có 51 doanh nghiệp có dưới 100 lao động. Theo kết quả điều tra hầu hết các doanh nghiệp có trên 100 lao động thực hiện công tác ATVSLĐ tốt hơn những doanh nghiệp có dưới 100 lao động. Điều đó thể hiện ở chỗ: - Đối với những DNKTĐXD có trên 100 lao động được khảo sát có 75% (6/8 doanh nghiệp) thực hiện huấn luyện ATVSLĐ cho người lao động; có 100% (8/8 doanh nghiệp) thực hiện kiểm định các loại máy có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ; có 25% (2/8 doanh nghiệp) thực hiện đo kiểm môi trường lao động. - Đối với những DNKTĐXD có dưới 100 lao động cho thấy: chỉ có 14% (7/51 doanh nghiệp); 12% (6/51 doanh nghiệp) và 2% (1/51 doanh nghiệp) thực hiện các biện pháp ATVSLĐ. Từ đó cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và rất thường khó có thể thực hiện đầy đủ các yêu cầu về triển khai thực hiện công tác ATVSLĐ theo quy định của pháp luật. 84 3.2.2. Thực trạng công tác quy hoạch, kế hoạch khai thác đá xây dựng gắn với đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp khai thác đá xây dựng 3.2.2.1.Thực trạng quy hoạch về khai thác đá xây dựng cấp quốc gia Trong thời gian qua, công tác quy hoạch, kế hoạch khai thác đá xây dựng đã từng bước tiến hành nhưng chưa có quy hoạch, kế hoạch khai thác đá xây dựng gắn với ATVSLĐ trong dài hạn, theo từng giai đoạn, từng thời kỳ. Theo Quyết định số 115/2001/QĐ-TTg ngày 01/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2010 và Quyết định số 133/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi một số điều của Quyết định số 115/2001/QĐ-TTg; Quyết định số 121/2008/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020, nội dung quy hoạch cho đối tượng là đá xây dựng được cụ thể như : (Đơn vị: Triệu tấn) 15.73 24 65.59 20.2 25 115 0 20 40 60 80 100 120 140 2000 2005 2010 Xi măng Đá xây dựng Biểu đồ 3.5 : Sản lượng quy hoạch xi măng và đá xây dựng đến năm 2010 Nguồn: Thủ tướng Chính phủ [38]. Nhìn vào Biểu đồ 3.5 có thể thấy sự phát triển nhanh chóng về sản lượng theo các giai đoạn. Đặc biệt từ sau năm 2010 sản lượng dự kiến là rất lớn; điều này đã 85 được chứng minh bằng thực tế là các năm 2010, 2011, 2012, 2013 các DNKTĐXD được thành lập rất nhiều, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các DNKTĐXD thường có vốn đầu tư không lớn và hoạt động với công suất khai thác thực tế nhỏ, sản phẩm thô. Nguyên nhân là do các mỏ đã được cấp phép tràn lan, không có quy hoạch tổng thể rõ ràng, nhiều mỏ được cấp không đáp ứng đủ các chỉ tiêu đề ra. Do đó khi đi vào khai thác thực tế, các doanh nghiệp này thường chọn phương án “ăn xổi”, không có đầu tư lâu dài và không đầu tư cho công tác ATVSLĐ. Hệ quả dẫn tới đã xảy ra nhiều vụ TNLĐ nghiêm trọng trong những năm gần đây. Ngoài ra, giai đoạn này mục tiêu của quy hoạch khai thác đá của quốc gia đưa ra mới chỉ tập trung nhằm tăng chất lượng sản phẩm đá, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ khu danh lam thắng cảnh, bảo vệ môi trường mà chưa tập trung quan tâm tới lợi ích, an toàn sức khoẻ, an toàn nghề nghiệp cho người lao động. 3.2.2.2. Thực trạng quy hoạch, kế hoạch khai thác đá xây dựng cấp tỉnh Giai đoạn 2009 - 2014 công tác quy hoạch, kế hoạch khai thác đá xây dựng gắn với ATVSLĐ đã từng bước được thực hiện tại các địa phương. Điều này thể hiện rõ nhất ở việc triển khai kế hoạch quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam của Chính phủ, các địa phương đã ban hành Quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng ngay tại địa phương. Tuy nhiên, cũng giống như thực trạng đối với công tác quy hoạch cấp trung ương, tại địa phương cũng gặp phải tình trạng tương tự là định hướng quy hoạch, phát triển hoạt động khai thác đá xây dựng nhưng không chú trọng tới phát triển khai thác đá một cách an toàn, an toàn cho người lao động, người sử dụng lao động và môi trường sống xung quanh; quy hoạch chưa toàn diện, chưa thống nhất, chưa đúng với kế hoạch lâu dài, bền vững. Địa phương chưa có những cơ chế thúc đẩy DNKTĐXD phát triển, đồng hành cùng sản xuất an toàn, khai thác an toàn. Hầu hết các địa phương có nhiều mỏ khai thác đá xây dựng đều có các quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản vật liệu xây dựng. Ví dụ như Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã ra Nghị Quyết số 74/2013/NQ-HĐND ngày 18 tháng 12 năm 2013 về việc thông qua Quy hoạch điều chỉnh, bổ sung thăm dò, khai 86 thác, sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020. Với nguyên tắc không quy hoạch trên các diện tích cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản; Các điểm mỏ gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường; Các điểm mỏ trong bán kính không đảm bảo an toàn đối với thành phố, thị xã, thị trấn và các khu dân cư tập trung; Các điểm mỏ nằm trong phạm vi bảo vệ hành lang an toàn giao thông, cảnh quan môi trường, bờ biển, các điểm mỏ nguy cơ tạo ra xói mòn, bạc màu đất, dẫn đến khả năng gây trượt lở, lũ quét Công tác ATVSLĐ chưa được quan tâm tổng thể từ khi cấp giấp phép hoạt động; tổ chức khai thác đến tổng kết hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Theo như các số liệu thống kê ở trên ngành công nghiệp khai khoáng là một trong những ngành có nguy cơ cao về mất ATLĐ, phát sinh BNN. Do đó việc chưa có các quy định, chế tài cụ thể ngay từ khi cấp phép là một thiếu sót trong công tác QLNN về ATVSLĐ trong hoạt động khai thác đá xây dựng. Cũng theo như kết quả khảo sát lấy ý kiến từ 16 chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực QLNN về ATLĐ và lĩnh vực khai khoáng thì có 16/16 chuyên gia cho rằng cần thiết phải quản lý ATVSLĐ các doanh nghiệp hoạt động khai thác đá ngay từ khâu cấp phép, phê duyệt thiết kế khai thác (xem Phụ lục 6).. 3.2.3. Thực trạng về chính sách pháp luật đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 22 tháng 6 năm 2015, các văn bản quy phạm pháp luật trước khi được ban hành cần được thẩm định nghiêm túc và khách quan... Những quy định như vậy là hợp lý và cần thiết để những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Sẽ là vô nghĩa và gây ra những tốn kém không cần thiết cả về thời gian và tiền bạc khi một văn bản quy phạm pháp luật được dự thảo, hội thảo, nghiên cứu, ban hành nhưng xa rời thực tế hoặc tạo ra những tác động ngược và các đối tượng thực thi không thể thi hành. Trên tinh thần đó để thực hiện chức năng QLNN về ATVSLĐ nói chung và QLNN về ATVSLĐ trong khai thác đá nói riêng, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách để thúc đẩy 87 phát triển kinh tế ngành, lĩnh vực và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quản lý liên quan đến ATVSLĐ và ATVSLĐ trong các DNKTĐXD. Các Bộ, Ngành, địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa các văn bản dưới Luật; trực tiếp chỉ đạo và hướng dẫn triển khai và thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về ATVSLĐ. Các cơ quan QLNN ở cấp trung ương đã chủ động, tham mưu, đề xuất và xây dựng các văn bản quản lý có tính thực tiễn cao như: Bộ luật Lao động 2012 (thay thế Bộ luật Lao động năm 1994 và các lần sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007), Luật Công đoàn, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Khoáng sản năm 2010; Các Nghị định về ATVSLĐ; các Thông tư hướng dẫn công tác ATVSLĐ trong doanh nghiệp, các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn đối với hoạt động khai thác đá đã được ban hành. Về chính sách từng bước được đổi mới, lợi ích người lao động được đặt lên cao nhất, sự an toàn về tính mạng và sức khỏe của người lao động luôn được quan tâm và gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp. Về cơ bản đã tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể thiết lập quan hệ lao động, góp phần bảo vệ an toàn, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động trong hoạt động khai thác đá xây dựng; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người sử dụng lao động, người lao động trong công tác phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, cải thiện điều kiện lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động, bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sự gia tăng về số lượng doanh nghiệp cũng như kỹ thuật khai thác và áp dụng công nghệ mới vào khai thác thì những yêu cầu về phúc lợi và đảm bảo ATVSLĐ cũng đặt ra những thách thức mới, đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập trong công tác an toàn, vệ sinh lao động. Các nội dung ATVSLĐ được quy định phân tán tại nhiều văn bản pháp luật khác như Luật bảo hiểm xã hội, Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật khoáng sản, Luật hóa chất, Luật xây dựng ít nhiều gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện; Nhiều văn bản còn chung chung, nên mỗi nơi vận dụng một kiểu. Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động cần được rà soát ban hành mới để kịp thời đáp ứng yêu cầu phát 88 triển sản xuất, phù hợp với công nghệ và vật liệu mới; Chính sách của Nhà nước để thu hút và huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội đầu tư cho công tác ATVSLĐ, phát triển các dịch vụ trong lĩnh vực này; Chính sách bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mới quy định việc giải quyết hậu quả thông qua chi trả chế độ cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà chưa quy định về việc phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chia sẻ rủi ro với người sử dụng lao động khi xảy ra các vụ tai nạn lao động nghiêm trọng. Trong khi công tác phòng ngừa tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được đặt lên hàng đầu đang là xu thế chung, là chuẩn mực quốc tế cũng như yêu cầu nội luật hóa các quy định được đưa ra trong các Công ước của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) đã được Việt Nam phê chuẩn, gia nhập.. Vì vậy cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về ATVSLĐ trong khai thác đá xây dựng để tăng tính thực thi của các chính sách pháp luật phục vụ QLNN về ATVSLĐ trong KTĐXD. Ở địa phương, để tổ chức thực hiện pháp luật về ATVSLĐ trong khai thác đá, UBNN các tỉnh, thành phố đã giao trách nhiệm cho Sở LĐTBXH tham mưu giúp UBNN tỉnh, thành phố thành lập ban chỉ đạo chương trình quốc gia về ATVSLĐ. Xây dựng chương trình, quản lý, giám sát việc thực hiện các hoạt động của chương trình quốc gia về ATVSLĐ; chỉ đạo tổ chức hưởng ứng Tuần lễ quốc gia ATVSLĐ - Phòng chống cháy, nổ hàng năm theo sự chỉ đạo và hướng dẫn của Trung ương. Các tỉnh, thành phố đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện công tác ATVSLĐ trong hoạt động khai thác đá, chấn chỉnh các doanh nghiệp khai thác không đảm bảo an toàn. Tuy vậy, các văn bản chưa sát với tình hình thực tiễn các DNKTĐXD. Bên cạnh việc hoàn thiện các văn bản pháp luật, việc thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về ATVSLĐ của các bộ, ngành, địa phương đóng một vai trò quan trọng để công việc này có hiệu quả. Giải pháp cốt lõi là nâng cao nhận thức, hiểu biết của các bên về pháp luật ATVSLĐ, cần củng cố và tăng cường hệ thống tổ chức thanh tra nhà nước về ATVSLĐ; xây dựng Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 89 chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế và xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật nhà nước về ATVSLĐ trong khai thác đá xây dựng. 3.2.4. Thực trạng công tác tuyên truyền, huấn luyện về an toàn, vệ sinh lao đông tại các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng Cùng với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn tổ chức thực hiện thì công tác tuyên truyền, huấn luyện cho cán bộ quản lý, cán bộ an toàn và người lao động cũng rất quan trọng, hình thành văn hóa an toàn cho mỗi người người lao động và trong DNKTĐXD. Công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật về ATVSLĐ được đẩy mạnh và đa dạng về hình thức phổ biến như qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, ấn phẩm, pano áp phích, hội thi, hội diễn... Thông qua các kênh truyền thông đại chúng, hàng tháng các kênh phát sóng của Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam mở các chuyên mục tư vấn, phổ biến kiến thức về ATVSLĐ tới người sử dụng lao động và người lao động. Rất nhiều bài viết về ATVSLĐ trong khai thác đá được đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành. Hàng năm, hàng vạn ấn phẩm truyền thông (tờ rơi, tranh áp phích, sách, tạp chí...) về ATVSLĐ liên quan tới lĩnh vực khai thác đá được phát tới người sử dụng lao động, người lao động. Từ đó nâng cao nhận thức, ý thức bảo đảm ATVSLĐ cho các cấp quản lý, người sử dụng lao động và người lao động tại các doanh nghiệp khai thác đá. Công tác huấn luyện ATVSLĐ được triển khai rộng khắp trên cả nước. Lĩnh vực khai thác đá cũng là một trong những lĩnh vực được ưu tiên tập trung. Hàng năm người sử dụng lao động, người lao động và cán bộ quản lý an toàn được tham gia các lớp huấn luyện ATVSLĐ trong khai thác đá và được cấp chứng chỉ khi hoàn thành khóa học theo quy định của pháp luật. Nội dung ATVSLĐ trong khai thác đá cũng được nghiên cứu để vào giáo trình giảng dạy về ATVSLĐ cho sinh viên các trường đại học kỹ thuật, cao đẳng nghề, trường nghề để trang bị kiến thức cho sinh viên trước khi họ đi làm. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến về ATVSLĐ cũng có sự tham gia tích cực của các cấp công đoàn trong việc tuyên truyền, huấn luyện ATVSLĐ. Trong các 90 đơn vị cơ sở nhiều tổ công đoàn đã tham gia xây dựng góc BHLĐ và chương trình truyền thanh BHLĐ nhằm tuyên truyền, giáo dục kiến thức BHLĐ cho người lao động và người sử dụng lao động, phổ biến các văn bản mới liên quan về ATVSLĐ của Nhà nước. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát thực tế tại 59 doanh nghiệp hoạt động khai thác đá xây dựng (xem Phụ lục 4, 5, 6) thì hiện nay hầu hết các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm và tổ chức triển khai những hoạt động huấn luyện ATVSLĐ trong doanh nghiệp. Chỉ có 75% số DN có trên 100 lao động và 14% DN có dưới 100 lao động thực hiện tốt việc tổ chức huấn luyện ATVSLĐ cho người lao động hàng năm. Công tác tuyên truyền, huấn luyện trong doanh nghiệp có triển khai nhưng vẫn còn chung chung mà chưa có nội dung huấn luyện cụ thể cho khai thác đá xây dựng vì vậy không mang lại hiệu quả cao. 3.2.5. Thực trạng về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp khai thác đá xây dựng Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ATVSLĐ trong các DNKTĐXD là khâu quan trọng trong QLNN, thúc đẩy các doanh nghiệp đẩy mạnh đảm bảo ATVSLĐ trong quá trình sản xuất - kinh doanh khoáng sản. Vì vậy, trong giai đoạn từ 2009 - 2014, Trung ương và các địa phương đã tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra về ATVSLĐ ở các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh đá xây dựng. Ở cấp Trung ương, mỗi năm tổ chức khoảng 02 đoàn thanh tra chuyên ngành về ATVSLĐ thực hiện thanh tra các DNKTĐXD. Tính trung bình mỗi năm thanh tra được trên 10 doanh nghiệp. Đối với cấp địa phương, công tác thanh tra, kiểm tra tại các DNKTĐXD chủ yếu vẫn là triển khai lồng ghép trong hoạt động của các Sở, Ngành, chưa tổ chức được các cuộc thanh tra chuyên ngành cho lĩnh vực khai thác đá xây dựng. Chỉ một số tỉnh có nhiều DNKTĐXD như Yên Bái, Lào Cai, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Hà Nam, Hà Tĩnh, Đồng Nai...tiến hành được nhiều lượt thanh tra, kiểm tra hơn, trung bình mỗi năm mỗi tỉnh có khoảng 8-10 DNKTĐXD được thanh tra, kiểm tra. 91 Theo số liệu báo cáo từ Thanh tra Bộ LĐTBXH, số lượng các DNKTĐXD được thanh tra trên phạm vi cả nước còn quá ít so với số lượng DNKTĐXD thực tế đang hoạt động và không đồng đều qua các năm (xem Biểu đồ 3.6). Đơn vị tính: Doanh nghiệp Biểu đồ 3.6. Tình hình thanh tra an toàn, vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp khai thác đá xây dựng giai đoạn từ năm 2010 đến 2014 Nguồn: Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội [32, tr.24]. Qua các đợt thanh tra, kiểm tra của cơ quan QLNN cũng đã chỉ ra các sai phạm của doanh nghiệp và yêu cầu khắc phục trước khi tiếp tục tiến hành khai thác. Tuy nhiên, số đợt tiến hành thanh tra, kiểm tra trên cả nước hiện nay vẫn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfha_tat_thang_la_9947_1849681.pdf
Tài liệu liên quan