Hoạt động giám sát giám sát giữa hai kỳ họp của HĐND tỉnh
đã bám sát các quy định của pháp luật và yêu cầu nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Các cuộc giám sát, kiểm tra, khảo sát của Thường
trực và các Ban của HĐND tăng về số lượng, chất lượng, hiệu quả
đảm bảo thực hiện đúng quy trình và đạt được những kết quả tích
cực. Nội dung của các cuộc giám sát, khảo sát có trọng tâm, trọng
điểm; liên quan đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến đời sống của đông đảo nhân dân,
được cử tri và dư luận quan tâm. Phương thức giám sát đã có những cải
tiến nhất định, kết hợp nghe báo cáo với xem xét thực tế tại địa phương,
cơ sở qua đó thu thập rất nhiều thông tin phục vụ hoạt
động giám sát.
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/03/2022 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể kể ra một số công trình nghiên cứu
sau đây:
- Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều kiện cải
cách bộ máy nhà nước hiện nay, PGS,TS Bùi Xuân Đức, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, 12/2003
3
- Trương Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động của các ban của
Hội đồng nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
- Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009, Tạp chí Quản lý
nhà nước, số 2/2005.
- Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, 2004.
- Năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh Hải
Dương đối với quản lý hành chính nhà nước về đất đai, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Phạm Quang Hưng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2007.
Tình hình trên cho thấy việc nghiên cứu hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nói
riêng đã dành được quan tâm nghiên cứu. Nhìn chung, các đề tài dưới
nhiều góc độ khác nhau đã đề cập đến các vấn đề về lý luận và thực
tiễn trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, như: chủ thể
giám sát, đối tượng giám sát, hình thức giám sátCác kết quả nghiên
cứu này sẽ là nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh trên một địa bàn cụ thể ở Quảng
Bình với tính chất là một đề tài độc lập đi sâu nghiên cứu thực tiễn,
để đánh giá mặt được, mặt chưa được qua đó đưa ra được những giải
pháp có giá trị thực tiễn nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn trên cơ sở phân tích vị trí,
tính chất pháp lý và các chức năng của HĐND, tác giả đưa ra cơ sở lý
luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND. Đồng
thời nêu và phân tích những hạn chế, vướng mắc trong các quy định
của pháp luật liên quan đến hoạt động của HĐND; những hạn chế
trong thực tiễn hoạt động giám sát. Qua đó, đưa ra một số đề xuất,
giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của HĐND tỉnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Với mục đích trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích lý luận vị trí, chức năng của Hội đồng nhân dân;
làm rõ khái niệm giám sát; phân tích đặc điểm, nội dung và hình thức
giám sát của HĐND cấp tỉnh. Luận văn làm rõ khái niệm, các yếu tố
bảo đảm hiệu quả giám sát.
- Làm sáng tỏ thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh Quảng Bình hiện nay để tìm ra ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế;
- Từ các cơ sở trên, đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả
hoạt động giám sát của HDND nói chung, HĐND Quảng Bình nói
riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Quảng Bình
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2016.
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
5
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về Nhà nước kiểu mới, HĐND, chức năng giám sát của HĐND.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện, luận văn dựa trên một số phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, thống kê, khảo sát, thực tiễn..để làm sáng tỏ những nội dung
cần nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng và kế thừa thành quả
của một số công trình nghiên cứu, bài viết, báo cáo và các tài liệu liên
quan khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn sẽ cung cấp cơ sở phương pháp
luận giúp cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước nhìn nhận
đúng đắn tầm quan trọng, vai trò vị trí của HĐND và vị trí hoạt động
giám sát trong việc kiểm soát thực thi quyền lực nhà nước ở địa
phương.
- Góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của
HĐND tỉnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần cho Nhân dân, hạn chế tệ quan liêu, tham nhũng, làm
lành mạnh các quan hệ xã hội;
- Góp phần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cơ quan
quyền lực nhà nước với cơ quan hành chính và các cơ quan tư pháp
trong việc phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương;
6
- Đặt ra những vấn đề mới, tiếp tục nghiên cứu góp phần
hoàn thiện phương thức tổ chức và hoạt động, bảo đảm thực quyền
của HĐND;
- Luận văn có giá trị làm tài liệu tham khảo, vận dụng vào
hoạt động thực tiễn của HĐND các cấp, góp phần nâng cao trình độ
chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách
trong các cơ quan chuyên môn của HĐND.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục (bảng, biểu....), luận văn gồm 3 chương và các tiểu mục.
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 - 2016
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TỈNH
1.1. Quan niệm về giám sát và hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh
1.1.1. Nhận thức chung về giám sát
1.1.1.1. Khái niệm
Giám sát là sự theo dõi, quan sát, kiểm tra hoạt động của chủ
thể có quyền đối với chủ thể khác để biết được đối tượng bị giám sát
có thực thi đúng, đủ theo quy định hay không và quy định về hành vi
7
đối tượng giám sát phải và được làm có phù hợp với điều kiện thực
tiễn hay không và làm rõ được nguyên nhân của sự vi phạm, sự
không phù hợp này.
1.1.1.2. Phân biệt giám sát, kiểm tra, thanh tra
- Giám sát khác với kiểm tra
Kiểm tra là khái niệm bao hàm những thao tác có tính xác
định, tính cụ thể rõ hơn. Kiểm tra được thực hiện khi có dấu hiệu
hoặc sự việc sai phạm xảy ra là “xem xét cụ thể công việc”. Chủ
thể và đối tượng kiểm tra có thể cùng hệ thống với nhau (tự kiểm
tra, cấp trên kiểm tra cấp dưới). Giám sát khác với kiểm tra ở chỗ:
giám sát là hành vi độc lập, từ bên ngoài, còn kiểm tra là hoạt
động thường xuyên từ bên trong tổ chức hành pháp.
- Giám sát khác với thanh tra
Thanh tra và giám sát có chỗ giống nhau là đều có hoạt
động “xem xét, đánh giá” nhưng khác nhau ở chỗ giám sát là sự
“chủ động theo dõi” còn thanh tra thường chỉ xem xét khi có dấu
hiệu, sự việc vi phạm xảy ra. Hậu quả pháp lý của giám sát chủ
yếu thông qua hình thức “kiến nghị” còn thanh tra là áp dụng
những biện pháp xử lý cụ thể. Thanh tra được tiến hành bởi chủ
thể xác định, có thẩm quyền, với trình tự, thủ tục chặt chẽ theo luật
định, là hoạt động đặc thù của hệ thống hành pháp. Còn giám sát
được tiến hành bởi nhiều chủ thể và mỗi chủ thể lại có quyền,
trách nhiệm khác nhau do địa vị chính trị pháp lý khác nhau.
Có thể nói, giám sát, kiểm tra, thanh tra là những thuật ngữ
có nội dung tương đối gần nghĩa dùng để chỉ những hoạt động có
phạm vi, tính chất gần nhau, thậm chí có biểu hiện khách quan khá
giống nhau (xem xét, đánh giá) nằm trong cơ chế kiểm soát đối với
8
quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau về quan hệ
pháp lý, chủ thể, đối tượng, phạm vi, phương pháp thực hiện và hậu
quả pháp lý.
1.1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
1.1.2.1. Vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng nhân
dân tỉnh trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước
a. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân tỉnh
Trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam, HĐND cấp tỉnh là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương trực
tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân
dân ở địa phương đó. HĐND có quyền quyết định những vấn đề
quan trọng của địa phương theo quy định pháp luật. Ngay từ những
ngày đầu của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã quan
tâm đến việc xây dựng, củng cố và phát triển HĐND các cấp, đặc
biệt là cấp tỉnh. Vì thế, HĐND cấp tỉnh đã làm được nhiều việc ích
nước lợi dân, đã thể hiện được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân
dân, là chỗ dựa vững chắc để nhân dân xây dựng, củng cố chính
quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh.
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Chính quyền địa
phương năm 2015 “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Như vậy, HĐND cấp tỉnh cũng như HĐND các cấp có hai tính
chất cơ bản: “là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương” và “là
cơ quan đại biểu của nhân dân ở địa phương”.
b. Chức năng của Hội đồng nhân dân tỉnh
9
Theo quy định của pháp luật hiện hành, HĐND các cấp đều
có hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng giám
sát.
1.1.2.2. Khái niệm và đặc điểm hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh
Giám sát của HĐND tỉnh là hoạt động có mục đích, thường
xuyên, liên tục của HĐND tỉnh nhằm quan sát, theo dõi, kiểm tra,
phát hiện, uốn nắn việc tuân theo pháp luật, chấp hành nghị quyết
của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND, của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
của công dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
Giám sát của HĐND cấp tỉnh mang các đặc điểm sau đây:
- Trước hết, giám sát là một chức năng luật định, tức là gắn
với quyền hạn và là trách nhiệm của HĐND. Chức năng được bảo
đảm bởi một số hình thức hoạt động và công cụ đặc thù, cách làm
đặc thù của HĐND. Nói tới vai trò giám sát là nói tới vị thế của
HĐND với tư cách tổ chức và đại biểu HĐND với tư cách cá nhân
trong thực hiện chức trách.
- Mục đích của giám sát là nhằm bảo đảm việc thi hành các
văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
HĐND ở địa phương được nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả; giám
sát để khẳng định những kết quả đạt được, đồng thời phát hiện những
tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, từ đó kiến nghị, đề xuất, quyết
định các biện pháp, giải pháp thực hiện tốt hơn.
- Chủ thể thực hiện quyền giám sát gồm giám sát của tập thể
HĐND tại kỳ họp; giám sát của TTHĐND; giám sát của các ban của
HĐND và giám sát của đại biểu HĐND tỉnh.
10
- Đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND các cấp nói
chung, HĐND cấp tỉnh nói riêng bao gồm nhiều loại khác nhau gồm:
giám sát hoạt động của TTHĐND, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các
nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân
và của công dân ở địa phương. Tuy nhiên, ở phạm vi của đề tài này,
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu đối tượng thuộc quyền giám sát của
HĐND tỉnh là UBND tỉnh và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh.
- Nguyên tắc giám sát là bảo đảm công khai, khách quan,
đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo qui định của pháp luật và
không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát.
- Hình thức giám sát gồm xem xét báo cáo công tác của các
đối tượng thuộc quyền giám sát; xem xét việc trả lời chất vấn của
những đối tượng này; xem xét việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp;
tổ chức các đoàn giám sát; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh
do HĐND bầu; thông qua việc tiếp dân và theo dõi việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến HĐND; tiếp xúc cử tri.
- Các chế tài của giám sát đó là HĐND có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp chấm dứt
hành vi vi phạm; yêu cầu cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền
xem xét trách nhiệm của các đối tượng giám sát có hành vi vi phạm;
bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của
UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp nếu các
11
văn bản đó trái pháp luật, gây thiệt hại về KT-XH, ảnh hưởng an
ninh, quốc phòng; bãi nhiệm, miễn nhiệm, đối với các chức danh do
HĐND bầu; ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của
người bị chất vấn; quyết định giải tán HĐND cấp dưới trực tiếp.
1.1.2.3. Vai trò của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh
- Đảm bảo cho HĐND thật sự là cơ quan đại diện của nhân
dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
- Bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được tuân thủ thống
nhất, nghiêm chỉnh trên phạm vi địa phương và bảo đảm việc thực
hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân
- Góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân nói riêng và của bộ máy nhà nước ở địa phương nói
chung
1.2. Nội dung hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
1.2.1. Xem xét báo cáo công tác của Thường trực Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh
1.2.2. Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng
nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của
Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ
ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án
Tòa án nhân dân cấp tỉnh
12
1.2.3. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban
nhân dân tỉnh, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện khi
phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, pháp luật
1.2.4. Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết
1.2.5. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội
đồng nhân dân bầu
1.3. Các yêu cầu và các yếu tố bảo đảm hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân tỉnh
1.3.1. Các yêu cầu đối với hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh
1.3.2. Các yếu tố bảo đảm hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh
1.3.2.1. Yếu tố chính trị
1.3.2.2. Yếu tố pháp lý
1.3.2.3. Yếu tố tổ chức, bộ máy và nguồn nhân lực
1.3.2.4. Yếu tố kinh tế
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦ HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2011 - 2016
2.1. Khái quát về tổ chức bộ máy Hội đồng nhân dân tỉnh
Quảng Bình
2.1.1. Về đại biểu và cơ cấu đại biểu
Bảng 2.1 Tính đại diện thông qua nghề nghiệp, vị trí công tác
Đảng, Hành chính, Chuyên Doanh Đơn vị sự Tôn
đoàn thể Tư pháp trách HĐND nhân nghiệp giáo
21 12 06 05 04 02
42% 24% 12% 10% 08% 04%
13
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của TT HĐND tỉnh khóa XVI
Bảng 2.2 Bảng đại diện theo cấp hành chính
Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã và đơn vị cơ sở
29 11 10
58% 22% 20%
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của TT HĐND tỉnh khóa XVI
Bảng 2.3 Trình độ chuyên môn và lý luận chính trị
Trình độ chuyên môn Trình độ lý luận chính trị
Tiến Thạc Đại Trung Chưa Cử Cao Trung Sơ Chưa
sĩ sĩ học cấp ĐT nhân cấp cấp cấp ĐT
06 09 30 04 01 18 19 03 04 06
12% 18% 60% 08% 02% 36% 38% 06% 08% 12%
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của TT HĐND tỉnh khóa XVI
Bảng 2.4 Tuổi trung bình của các độ tuổi
Dưới 40 tuổi Từ 40 - 49 tuổi Từ 50 - 59 tuổi Trên 60
06 18 24 02
12% 36% 48% 04%
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của TT HĐND tỉnh khóa XVI
- Về một số tiêu chí khác: Có 10 đại biểu nữ, chiếm 20% và
40 đại biểu nam, chiếm 80%; có 06 đại biểu ngoài Đảng, chiếm 12%;
01 đại biểu là người dân tộc, chiếm 02%; có 06 đại biểu nhiệm kỳ
trước tái cử, chiếm 12%.
2.1.2. Tổ chức của HĐND tỉnh Quảng Bình
14
- Thường trực HĐND tỉnh có 03 thành viên: Chủ tịch do Bí
thư Tỉnh ủy kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch (Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh
ủy) hoạt động chuyên trách, Ủy viên thường trực (Tỉnh ủy viên) hoạt
động chuyên trách.
- Các Ban của HĐND tỉnh: Do dân số đồng bào dân tộc
không đủ tiêu chí thành lập Ban Dân tộc nên HĐND tỉnh Quảng Bình
chỉ tổ chức 03 Ban gồm: Ban Kinh tế và Ngân sách, Ban Văn hóa -
Xã hội và Ban Pháp chế.
Ban Kinh tế và Ngân sách có 09 thành viên, Trưởng ban do
Ủy viên thường trực kiêm nhiệm, 01 Phó Trưởng ban hoạt động
chuyên trách. Ban Văn hóa - Xã hội và Ban Pháp chế đều có 07 thành
viên, Trưởng ban hoạt động chuyên trách, 01 Phó Trưởng ban hoạt
động kiêm nhiệm. Có 02 Trưởng ban là Tỉnh ủy viên, 01 Trưởng ban
không phải là Tỉnh ủy viên. Mỗi Ban có hai thành viên là Bí thư
huyện ủy - Chủ tịch HĐND huyện đồng thời là Tổ trưởng Tổ đại biểu
HĐND; các thành viên còn lại là những người công tác tại các cơ
quan, tổ chức cấp tỉnh có trình độ chuyên môn cao.
- Đoàn Thư ký kỳ họp có 04 thành viên, trong đó Trưởng
Đoàn Thư ký kỳ họp là Chánh Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND
tỉnh.
2.2. Kết quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Về hoạt động giám sát tại kỳ họp
Kỳ họp Hội đồng nhân dân là hình thức hoạt động quan trọng và
chủ yếu của HĐND cấp tỉnh nói chung và của HĐND tỉnh Quảng
Bình nói riêng.
Thời gian tiến hành kỳ họp thường lệ từ 3 đến 4 ngày, kỳ họp
15
bất thường từ một buổi đến một ngày. Các hình thức giám sát được
HĐND tỉnh Quảng Bình sử dụng trong các kỳ họp bao gồm:
2.2.1.1. Giám sát qua việc xem xét các báo cáo c ng tác
2.2.1.2. Giám sát qua hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn
2.2.1.3. Giám sát qua việc nghe báo cáo về tổng hợp ý
kiến, kiến nghị của cử tri và tình hình giải quyết khiếu nại
tố cáo của cử tri
2.2.1.4. Giám sát việc lấy phiếu tín nhiệm những người
giữ chức vụ do HĐND tỉnh bầu
2.2.2. Về hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp
Hoạt động giám sát giám sát giữa hai kỳ họp của HĐND tỉnh
đã bám sát các quy định của pháp luật và yêu cầu nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Các cuộc giám sát, kiểm tra, khảo sát của Thường
trực và các Ban của HĐND tăng về số lượng, chất lượng, hiệu quả
đảm bảo thực hiện đúng quy trình và đạt được những kết quả tích
cực. Nội dung của các cuộc giám sát, khảo sát có trọng tâm, trọng
điểm; liên quan đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến đời sống của đông đảo nhân dân,
được cử tri và dư luận quan tâm. Phương thức giám sát đã có những cải
tiến nhất định, kết hợp nghe báo cáo với xem xét thực tế tại địa phương,
cơ sở qua đó thu thập rất nhiều thông tin phục vụ hoạt
động giám sát.
Hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp đã đem lại nhiều kết quả
tích cực, giúp cho các cấp, các ngành kịp thời phát hiện những tồn
tại, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi chính sách pháp
16
luật của Nhà nước và nghị quyết của HĐND tỉnh. Từ đó có những
điều chỉnh kịp thời trong chỉ dạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều đề xuất, kiến nghị của Thường
trực, HĐND, của các Ban và đại biểu HĐND tỉnh đã giúp cho các cơ
cơ quan, đơn vị, địa phương nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước, kịp thời đưa ra những giải pháp khắc phục. Mặt khác, thông
qua hoạt động giám sát đã giúp cho HĐND tỉnh có điều kiện nhìn
nhận, đánh giá các quyết sách của mình đã ban hành và cũng là cơ sở,
căn cứ thực tiễn để HĐND tỉnh ban hành các nghị quyết sát đúng với
điều kiện thực tiễn của địa phương và có tính khả thi cao.
2.2.2.1. Hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân
dân tỉnh
2.2.2.2. Hoạt động giám sát của các ban Hội đồng nhân dân
tỉnh
2.2.2.3. Hoạt động giám sát của đại biểu HĐND
2.3. Đánh giá chung về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh Quảng Bình
2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân
Hoạt động giám sát của HĐND từ năm 2011 đến nay có nhiều
đổi mới và tiến bộ rõ rệt, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác của HĐND tỉnh. Điều này thể hiện ở các mặt như công tác chuẩn
bị cho các kỳ họp HĐND được thực hiện chu đáo, nghiêm túc và
khoa học; các hoạt động giám sát tại kỳ họp được thực hiện nghiêm
túc và có hiệu quả cao; hoạt động giám sát của TTHĐND và các Ban
được chuẩn bị chu đáo, nội dung giám sát của các Ban phù hợp với
tình hình cụ thể của địa phương, đúng trọng tâm, trọng điểm, chất
lượng giám sát của Thường trực và các Ban ngày càng được nâng
17
cao, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của địa phương.
Các ưu điểm trong giám sát của HĐND tỉnh là do các nguyên
nhân như hoạt động của Thường trực và các Ban đúng trọng tâm,
phát huy đúng vai trò điều hòa, phối hợp, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của các đại biểu cũng như các chuyên viên văn phòng ngày càng
được nâng cao.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Quảng Bình đã đạt được
những kết quả nhất định tuy nhiên những kết quả đó so với vị thế,
chức năng và nhiệm vụ của HĐND cấp tỉnh thì vẫn còn thấp. Điều
này thể hiện ở chỗ: việc đôn đốc, kiểm tra thực hiện các kiến nghị đề
xuất sau giám sát thiếu quyết liệt, thiếu liên tục, không sâu sát, nên
vẫn còn hiện tượng sau giám sát đâu lại vào đấy; việc chất vấn trong
các kỳ họp nhiều khi chưa đi đến quy kết trách nhiệm, chưa đưa ra
các giải pháp khắc phục; đặc biệt các kiến nghị đề xuất của đoàn
giám sát chưa được các đơn vị có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc,
nhưng đến nay HĐND vẫn thiếu biện pháp khắc phục. Chính vì vậy
báo cáo kết quả giám sát của TTHĐND và các Ban hiện nay mới chỉ
dừng lại ở số lượng các đoàn giám sát, nội dung được giám sát hoặc
các vấn đề được phát hiện trong đợt giám sát, các kiến nghị đề xuất
đã đưa ra còn giải quyết vấn đề đó như thế nào, mức độ đến đâu
chưa được HĐND quan tâm nhiều. Điều đó đã dẫn đến một hệ quả
trong thực tế về mặt chỉ tiêu kế hoạch giám sát khả năng đáp yêu cầu
đề ra, nhưng mức độ đạt được mục đích trong hoạt động giám sát
đang còn hạn chế.
Công tác giám sát chưa đều, chủ yếu do Thường trực và các
ban của HĐND tiến hành; Giám sát của TTHĐND giữa hai kỳ họp
18
chưa thường xuyên. Giám sát đối với UBND và cơ quan tư pháp cấp
huyện tại các huyện thí điểm không tổ chức HĐND còn hình thức.
Việc tham gia hoạt động giám sát của các đại biểu còn hạn chế, chủ
yếu mới giám sát tại kỳ họp; nội dung giám sát có lúc chưa sâu, chưa
tập trung vào các vấn đề mang tính bức xúc ở địa phương, những vấn
đề mà nhiều cử tri quan tâm. Kết luận của Đoàn giám sát đôi lúc còn
sơ sài, chưa chỉ đúng căn nguyên, đúng trọng tâm vấn đề đề cập.
Cũng có trường hợp kết luận của đoàn giám sát chưa được coi trọng,
sự tiếp thu, khắc phục còn hạn chế. Ngoài ra, trong thực hiện giám
sát vẫn còn có sự né tránh, nể nang, ngại va chạm nên hiệu lực và
hiệu quả giám sát của HĐND chưa cao. Ở một số kỳ họp HĐND
tỉnh, công tác chuẩn bị của UBND và các ngành ở một số báo cáo, đề
án còn chậm, do đó việc thu thập thông tin, giám sát, phản biện bị
hạn chế, khó khăn cho công tác thẩm tra, phản biện dẫn đến chất
lượng ban hành một số nghị quyết chưa cao, có nghị quyết tính khả
thi còn thấp.
Những hạn chế trong hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
Quảng Bình do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Nhận thức về vai trò giám sát của Thường trực HĐND, các
Ban của HĐND, Đại biểu HĐND của một số các cơ quan, tổ chức
chưa cao.
- Một số Đại biểu HĐND chưa có đủ trình độ, năng lực và
điều kiện để đảm đương công tác giám sát của HĐND
- Các quy định của pháp luật cho hoạt động giám sát chưa
thống nhất
- Sự phối hợp với UBMTTQVN tỉnh chưa nhịp nhàng.
- Sự thiếu tự tin và chưa quyết liệt
19
- Về năng lực, trình độ của đại biểu HĐND
- Thiếu thông tin và thời gian
- Bất cập trong quy định về cơ quan giúp việc
- Các điều kiện cần thiết cho hoạt động giám sát còn thiếu,
chưa đáp ứng yêu cầu
Chương 3
QU N ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT CỦ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh Quảng Bình
3.1.1. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về bảo đảm
hoạt động của các cơ quan dân cử nói chung và hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng
3.1.2. Nâng cao nhận thức về vai trò của hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân tỉnh
3.1.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh phải
đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan Nhà nước
khác và của toàn xã hội
3.1.4. Đảm bảo chất lượng, hiệu lực của các kết luận, kiến
nghị sau giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
3.2. Các giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Để thực hiện chức năng giám sát có hiệu quả trước hết cần
hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND.
20
Bởi lẽ, nếu không có các quy định cụ thể về quyền giám sát của
HĐND thì sẽ không có cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng giám
sát của HĐND. Mặc dù hiện nay Luật tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 đã có một chương quy định về chức năng giám sát
của HĐND các cấp, song vẫn chưa đủ cơ sở pháp lý để HĐND thực
hiện tốt chức năng của mình. Còn nhiều quy định chung chung, dễ
dẫn đến cách hiểu khác nhau và kéo theo đó là việc thực hiện khác
nhau ở mỗi địa phương.
3.2.2. Nâng cao năng lực của các chủ thể thực hiện chức
năng g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_hoat_dong_giam_sat_cua_hoi_dong_nhan_dan_ti.pdf